Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Hiệu quả của kỹ thuật bơm surfactant ít xâm lấn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (341.91 KB, 9 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019

Nghiên cứu Y học

HIỆU QUẢ CỦA KỸ THUẬT BƠM SURFACTANT ÍT XÂM LẤN
Lê Thị Cẩm Giang*, Nguyễn Thị Từ Anh*, Ngô Minh Xuân**

TÓM TẮT
Mục tiêu: Kỹ thuật bơm surfactant ít xâm lấn để điều trị suy hô hấp bệnh màng trong đã được chứng minh
về hiệu quả, an toàn, tính khả thi và đang được áp dụng ở nhiều nơi trên thế giới. Tại Việt nam, kỹ thuật này
chưa được áp dụng rộng rãi và chưa có nghiên cứu nào báo cáo về hiệu quả của kỹ thuật này. Chúng tôi tiến
hành nghiên cứu này nhằm so sánh kỹ thuật bơm surfactant ít xâm lấn với kỹ thuật INSURE về nhu cầu thở
máy, giảm nhu cầu FiO2 sau bơm surfactant, các kết cục ngắn hạn. Ngoài ra chúng tôi còn khảo sát tính khả thi
của kỹ thuật bơm surfactant ít xâm lấn thông qua số lần đặt ống thông vào khí quản đúng vị trí, số lần chậm nhịp
tim, tỷ lệ trào ngược surfactant trong khi tiến hành thủ thuật.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu giả thực nghiệm (Quasi Experimental Study), nhãn mở, có đối
chứng. Cỡ mẫu được tình tối thiểu là 42 trẻ cho mỗi nhóm. Phương pháp chọn mẫu: chọn mẫu thuận tiện, nhãn
mở, có nhóm chứng.
Kết quả: Tỷ lệ thở máy trong vòng 72 giờ sau sanh ở nhóm bơm surfactant ít xâm lấn thấp hơn nhóm
INSURE, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (9,43% so với 15,09%. p = 0,37). Không có sự khác
biệt về thời gian thở máy ở 2 nhóm. Cả 2 nhóm đều làm giảm FiO2 sau bơm surfactant. Tỷ lệ giảm FiO2 trên
20% ở nhóm điều trị ít xâm lấn là 90,6% nhiều hơn so với nhóm INSURE là 71,7%, sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê p = 0,013. Không có sự khác biệt về tỷ lệ thực hiện liều surfactant thứ 2, tỷ lệ tràn khí màng phổi sau
bơm surfactant, tỷ lệ viêm phổi và tỷ lệ tử vong giữa 2 nhóm INSURE và bơm surfactant ít xâm lấn. Có sự khác
biệt về số ngày nằm viện giữa 2 nhóm. Số ngày nằm viện trung bình của nhóm INSURE là 33,2 ± 15,8 ngày,
nhiều hơn nhóm bơm surfactant ít lấn (26,5±12,3 ngày), p = 0,02.
Kết luận: Kỹ thuật bơm surfactant ít xâm lấn có hiệu quả giảm FiO2 trên 20% lên đến 90,6%, có khả năng
giảm nhu cầu thở máy trong vòng 72 giờ sau sanh so với kỹ thuật INSURE, giảm thời gian nằm viện, góp phần
giảm chi phí điều trị, cải thiện kết cục của trẻ sơ sinh non tháng.
Từ khoá: bơm surfactant ít xâm lấn, suy hô hấp bệnh màng trong, INSURE


ABSTRACT
EFFECTIVENESS OF LESS INVASIVE SURFACTANT ADMINISTRATION TECHNIQUE
Le Thi Cam Giang, Nguyen Thi Tu Anh, Ngo Minh Xuan
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 3- 2019: 283-291
Objectives: The less invasive surfactant administration (LISA) for the treatment respiratory distress
syndrome (RDS) has been proven to be effective, safe and feasible and is being applied in many parts of the world.
However, in Vietnam, this technique has not been widely applied and no research has reported on the effectiveness
of this technique. Therefore, we conducted this study with the aims of comparing LISA with standard treatment,
consisting of intubation, administration of surfactant and early extubation to nasal continuous positive airway
pressure (INSURE) with the need for mechanical ventilation, reduction of the FiO2 requirement, the shortterm outcomes. In addition, we also examined the feasibility of the LISA for the number of attempts to catheterize
the trachea was recorded, as was the number of bradycardia episodes, the number of surfactant reflux cases during
instillation surfactant.
*Khoa Sơ sinh BV Từ Dũ
**Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Tác giả liên lạc: BS. Lê Thị Cẩm Giang
ĐT: 0903714624
Email:
*Bộ môn Tai Mũi *Bệnh viện Bình Dân, TP. Hồ Chí Minh

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch

283


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019

Method: Quasi Experimental Study, open-label, non-randomized, controlled.
Results: The rate of requiring invasive mechanical ventilation within 72 hours after birth in the less invasive

surfactant group was lower than that of INSURE, but the difference was not statistically significant (9.43%
compared to 15.09%. P = 0.37). There is no difference in iMV duration in 2 groups. Both groups reduced of the
FiO2 requirement after surfactant admnistration. The reduction of the FiO2 requirement by more than 20% in
the less invasive treatment group was 90.6% more than the INSURE group of 71.7%, the difference was
statistically significant p = 0.013. There was no difference in the rate of requirement of a second dose of surfactant,
pneumothorax, pneumonia and mortality rate between the two groups of INSURE and less invasive surfactant
administration. There are differences in the number of hospital stays between two groups. The average number of
hospital stays of the INSURE group is 33.2 ± 15.8 days, more than the less invasive surfactant administration
group (26.5 ± 12.3 days), p = 0.02.
Conclusion: The less invasive surfactant administration effectively reduced the FiO2 requirement by more
than 20% to 90.6%, potentially reducing the need for iMV within 72 hours after birth compared to the INSURE
technique, reducing hospital stays, contributing to reduce treatment costs, improve outcomes of preterm infants.
Keywords: less invasive surfactant administration (LISA), respiratory distress syndrome (RDS), INSURE
surfactant. Và trong 1 số ít trường hợp không
ĐẶT VẤN ĐỀ
thể rút nội khí quản sau đó(3). Để giảm thiểu tối
Bệnh màng trong ở trẻ sinh non là rối loạn
đa việc trẻ tiếp xúc với thông khí cơ học xâm
được tạo ra bởi sự thiếu hụt tiên phát chất hoạt
lấn, các nhà lâm sàng đã cải tiến kỹ thuật bơm
diện bề mặt hay surfactant ở phổi chưa trưởng
surfactant vào phổi mà không cần phải thông
thành, gây nên xẹp phế nang tiến triển, lan
khí cơ học, được gọi là kỹ thuật bơm surfactant
rộng, dẫn đến suy hô hấp sớm sau sanh, là
ít xâm lấn (LISA – Less invasie less invasive
nguyên nhân quan trọng của bệnh tật và tử
surfactant administration) hay xâm lấn tối
vong ở trẻ sơ sinh non tháng. Việc điều trị
thiểu (MIST - Minimal invasive surfactant therapy).

bằng surfactant thay thế làm giảm nguy cơ tử
Các nỗ lực đưa surfactant vào phổi bằng
vong và biến chứng loạn sản phế quản phổi
phun khí dung hay mặt nạ thanh quản không
(BPD – bronchopulmonary dysplasia)(1,9). Việc
cho thấy được bằng chứng hiệu quả trên lâm
kết hợp giữa sử dụng sterocorticoids trước
sàng(7,13). Một kỹ thuật ít xâm lấn được đề nghị
sanh, thở áp lực dương liên tục qua mũi
đó là dùng đèn soi thanh quản bật nắp thanh
(NCPAP) sớm sau sanh và liệu pháp
môn và đưa một ống thông nhỏ vào khí quản.
surfactant thay thế giúp cải thiện dự hậu của
Surfactant được đưa vào phổi qua ống thông
trẻ sơ sinh non tháng.
này. Đã có nhiều nghiên cứu về tính khả thi,
Đã có nhiều nghiên cứu về kỹ thuật bơm
surfactant vào phổi. Cho đến hiện nay, kỹ
thuật INSURE được xem là tiêu chuẩn trong
liệu pháp điều trị surfactant thay thế. Tuy
nhiên, với kỹ thuật INSURE vẫn cần đặt ống
nội khí quản và thông khí cơ học, có liên quan
đến nguy cơ chấn thương áp lực và chấn
thương thể tích. Việc hoạt hoá các yếu tố gây
viêm thường xuyên trên các trẻ thở máy này
làm tăng nguy cơ diễn tiến thành loạn sản phế
quản phổi (BPD)(5,6,18). Với kỹ thuật INSURE
vẫn có 1 số trẻ bị đặt nội khí quản chỉ để bơm

284


hiệu quả của kỹ thuật này. Mới đây, Christin S
và cộng sự đã đăng trên tạp chí Global Pediatric
health nghiên cứu Meta – analysis về kỹ thuật
bơm surfactant ít xâm lấn làm giảm nhu cầu thở
máy xâm lấn ở trẻ sơ sinh non tháng(15). Kỹ thuật
bơm surfactant ít xâm lấn ngày càng được phổ
biến hơn, một khảo sát của Klotz ở Châu Âu về
liệu pháp surfactant ít xâm lấn điều trị surfactant
xâm lấn tối thiểu (LISA/MIST) đã được đề xuất
cho việc sử dụng surfactant ở trẻ non tháng
không đặt nội khí quản. Mục đích của cuộc khảo
sát là đánh giá tỷ lệ sử dụng, cũng như kỹ thuật

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
và thiết bị được sử dụng cho LISA/MIST. Tác giả
kết luận, việc sử dụng LISA/MIST ở châu Âu là
phổ biến. Liệu pháp surfactant ít xâm lấn đã là
chủ đề của các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên
có đối chứng và đã tìm thấy đường vào thói
quen thực hành lâm sàng. Kỹ thuật bơm
surfactant ít xâm lấn được áp dụng rộng rãi ở
các đơn vị sơ sinh châu Âu. Có nhiều loại thiết bị
được sử dụng và kỹ thuật được áp dụng cho
việc bơm surfactant ít xâm lấn cũng như các
quan điểm khác nhau về các chỉ định và hiệu
quả nhận thức của can thiệp này(14). Một nghiên

cứu tổng quan gần đây bao gồm 2361 trẻ sơ sinh
được điều trị(1) đã kết luận rằng điều trị
surfactant ngoại sinh qua catheter nhỏ có thể là
phương pháp hiệu quả và an toàn, với khả năng
giảm nhu cầu thông khí cơ học xâm lấn trong 72
giờ đầu đời so với điều trị tiêu chuẩn. Trong 1
nghiên cứu của Cristina Ramos-Navarro về kỹ
thuật bơm surfactant ít xâm lấn bằng ống thông
nhỏ ở trẻ sơ sinh non tháng dưới 32 tuần tuổi
thai cho thấy hiệu quả làm giảm nhu cầu FiO2
hơn 20% trong giờ đầu tiên là 73,3% trong nhóm
LISA và 86,6% trong nhóm chứng (p>0,05), nhu
cầu thông khí cơ học xâm lấn hơn 1 giờ trong 3
ngày đầu đời ở nhóm LISA là 43,3% và 73%
trong nhóm chứng (OR: 3,596; KTC 95%: 1,216 –
10,638; p=0,02)(19).
Mặc dù Kỹ thuật bơm surfactant ít xâm lấn
đã được chứng minh về hiệu quả, an toàn, tính
khả thi và đang được áp dụng ở nhiều nơi trên
thế giới, tuy nhiên tại Việt nam, kỹ thuật này
chưa được áp dụng rộng rãi và chúng tôi tìm
thấy chỉ có 1 báo cáo kết quả của tác giả Cam
Ngọc Phượng thực hiện tại khoa NICU bệnh
viện Hạnh Phúc với cỡ mẫu là 10 trẻ ghi nhận có
20% trẻ có trào ngược thuốc sau bơm, không có
trường hợp nào đặt lại nội khí quản cũng như
không có trường hợp nào tràn khí màng phổi
trong quá trình điều trị(4). Vì vậy chúng tôi tiến
hành nghiên cứu này với mục tiêu so sánh kỹ
thuật bơm surfactant ít xâm lấn với kỹ thuật

INSURE về tỷ lệ trẻ cần thở máy, thời gian thở
máy, tỷ lệ giảm FiO2 và giảm FiO2 trên 20% sau

Nghiên cứu Y học

bơm surfactant, tỷ lệ thực hiện liều surfactant
thứ hai, tràn khí màng phổi, viêm phổi, tỷ lệ tử
vong, số ngày nằm viện. Khảo sát số lần đặt ống
thông vào khí quản đúng vị trí, số lần chậm nhịp
tim, tỷ lệ trào ngược surfactant của kỹ thuật bơm
surfactant ít xâm lấn.

ĐỐITƯỢNG- PHƯƠNG PHÁPNGHIÊNCỨU:
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu giả thực nghiệm (Quasi
Experimental Study), nhãn mở, có đối chứng. .
Đây là điểm hạn chế của đề tài. Tuy nhiên, hiện
nay để thực hiện RCT cần phải có thời gian làm
thủ tục xin phép. Vì hạn chế về mặt thời gian
nên chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với thiết
kế Quasi. Chúng tôi hy vọng trong tương lai có
thể thực hiện được RCT.
Đối tượng nghiên cứu
Dân số chọn mẫu: Trẻ sơ sinh non tháng từ
26 – 32 tuần tuổi thai dưới 6 giờ tuổi, bị suy hô
hấp do bệnh màng trong có chỉ định điều trị
surfactant, sanh tại bệnh viện Từ Dũ từ tháng
8 năm 2017 đến tháng 07 năm 2018 và nhập
khoa Sơ sinh bệnh viện Từ Dũ.
Cỡ mẫu

Cỡ mẫu được tính theo công thức:
(z 1-α / 2 √2 pq + z1-β √p1 (1-p1) + p0 (1 – p0))2

n=
(p1 – p0)
Trong đó:
- p1: tỷ lệ trẻ cần thở máy xâm lấn hơn 1 giờ trong
3 ngày đầu đời trong nhóm bơm surfactant ít
xâm lấn.
- p0: tỷ lệ trẻ cần thở máy xâm lấn hơn 1 giờ
trong 3 ngày đầu đời trong nhóm bơm
surfactant bằng kỹ thuật INSURE.
- p = ½(p1 + p0), q = 1 – p.
Theo nghiên cứu của Cristina Ramos-Navarro(13)
thì p1 = 43,3%, p0 = 73%.
Cỡ mẫu tính được tối thiểu cho mỗi nhóm là:
42 trẻ.

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch

285


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019

Phương pháp chọn mẫu
Chọn mẫu thuận tiện, nhãn mở.
Nhóm nghiên cứu là nhóm trẻ sơ sinh non

tháng được bơm surfactant bằng kỹ thuật ít xâm
lấn. Nhóm chứng là nhóm trẻ sơ sinh non tháng
được bơm surfactant bằng kỹ thuật INSURE.
Nhóm bơm surfactant bằng kỹ thuật ít xâm
lấn: trẻ sơ sinh non tháng từ 26 – 32 tuần tuổi
thai có chỉ định diều trị surfactant, dưới 6 giờ
tuổi tại khoa sơ sinh BV Từ Dũ từ tháng 8/2017 –
7/2018 thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu sẽ được chọn
vào nhóm nghiên cứu khi có mặt của bác sĩ
trong nhóm nghiên cứu. 3 bác sĩ tham gia nghiên
cứu trong đó 1 bác sĩ có mặt từ thứ 2 đến thứ 6, 1
bác sĩ trực đêm thứ 5 ra trực chiều thứ 6, 1 bác sĩ
trực đêm thứ 6 ra trực thứ 7. Ngày lễ: Bác sĩ trực
đêm thứ 5 sẽ trực ngày thứ 2, bác sĩ trực đêm thứ
6 trực ngày thứ 3, bác sĩ không trực đêm sẽ trực
ngày thứ 4.
Nhóm bơm surfactant bằng kỹ thuật
INSURE: Trẻ sơ sinh non tháng từ 26 – 32 tuần
tuổi thai có chỉ định điều trị surfactant dưới 6 giờ
tuổi tại khoa sơ sinh BV Từ Dũ từ tháng 8/2017 –
7/2018 thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu được bơm
surfactant bằng kỹ thuật INSURE bởi các bác sĩ
đang làm việc tại khoa sơ sinh khi không có mặt
của bác sĩ trong nhóm nghiên cứu sẽ được chọn
vào nhóm chứng. Số lượng nhóm chứng bắt đầu
nhận từ lúc bắt đầu nghiên cứu cho đến khi đủ
số lượng 42 trẻ thì dừng.

Tiêu chuẩn nhận vào
Trẻ sơ sinh non tháng từ 26 – 32 tuần tuổi

thai, sanh tại bệnh viện Từ Dũ, nhập khoa sơ
sinh bệnh viện Từ Dũ được chẩn đoán suy hô
hấp bệnh màng trong dưới 6 giờ tuổi, được hỗ
trợ hô hấp bằng nCPAP hoặc NIPPV có chỉ định
bơm surfactant.
Tiêu chuẩn loại trừ
Tim bẩm sinh nặng hoặc suy tim. Dị tật bẩm
sinh nặng không khả năng điều trị. Trẻ có bệnh
lý cần chuyển bệnh viện nhi đồng điều trị sau
sanh đã được chẩn đoán tiền sản. Trẻ có chỉ định
đặt nội khí quản trước khi bơm surfactant. Gia

286

đình từ chối điều trị surfactant. Gia đình từ chối
tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn chẩn đoán suy hô hấp
Chỉ số Silverman > 3 hoặc khí máu động
mạch PaO2 < 60mmHg hoặc PaCO2 > 50mmHg.

Tiêu chuẩn bơm surfactant điều trị suy hô hấp
bệnh màng trong trẻ sơ sinh non tháng
Trẻ sơ sinh non tháng bị suy hô hấp, để duy
trì SpO2 90 – 95% trẻ cần:
Thở nCPAP hoặc NIPPV với P 6 cmH2O,
FiO2 ≥ 30% nếu trẻ < 28 tuần tuổi thai;
Thở nCPAP hoặc NIPPV với P 6 cmH2O,
FiO2 ≥ 40% nếu trẻ ≥ 28 tuần tuổi thai ± KMĐM
sau thở nCPAP hoặc NIPPV ít nhất 30 phút có
a/APO2 < 0,22.


Tiêu chuẩn đặt nội khí quản
Trẻ đang thở nCPAP với PEEP 6 cmH2O:
Cần FiO2 > 50% để duy trì SpO2 90 – 95%
hoặc có các cơn ngưng thở (>4 cơn / giờ hoặc hơn
một lần cần thông khí áp lực dương) hoặc toan
hô hấp, pCO2> 65 mmHg và pH<7.20 trong mẫu
máu động mạch.
Chỉ định liều thứ 2
Liều thứ 2 được chỉ định khi trẻ thở nCPAP
với PEEP 6cmH2O cần FiO2 > 40% để duy trì
SpO2 90 – 95% 12 giờ sau liều 1.
Tiêu chuẩn thất bại
Sau khi bơm surfatant trẻ cần đặt ống nội khí
quản trong 3 ngày đầu đời (72 giờ sau sanh).
Tính hiệu quả của việc bơm surfactant ít xâm lấn
Được đánh giá dựa vào sự giảm nhu cầu
FiO2 hơn 20% sau bơm surfactant
Tính khả thi của kỹ thuật bơm surfactant ít
xâm lấn
Được đánh giá qua số lần cố gắng đặt ống
catheter vào khí quản, số lần bị chậm nhịp tim
(<100 nhịp/phút) cần thông khí áp lực dương
trong lúc bơm, số trường hợp trào ngược
surfactant và số lần đặt ống catheter sai chỗ.

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019

Phương pháp thu thập số liệu
Công cụ thu thập số liệu: Bảng thu thập số
liệu, bệnh án nghiên cứu.
Phương pháp tiến hành
Bước 1: Thu nhận đối tượng. Trẻ sơ sinh non
tháng từ 26 – 32 tuần tuổi thai bị suy hô hấp do
bệnh màng trong dưới 6 giờ tuổi tại khoa Sơ sinh
Bv Từ Dũ từ tháng 8/2017 – 7/2018 thỏa tiêu
chuẩn chọn mẫu, được chọn để đưa vào nhóm
nghiên cứu điều trị bằng kỹ thuật bơm
surfactant ít xâm lấn.
Bước 2: Ký đồng thuận. Được thực hiện bởi
bác sĩ trong nhóm nghiên cứu và người giám hộ
hợp pháp của trẻ. Một bản đồng thuận tham gia
nghiên cứu sẽ được ký khi người giám hộ đồng
ý tham gia nghiên cứu.
Bước 3: Tiến hành kỹ thuật. Được thực hiện
bởi bác sĩ trong nhóm nghiên cứu. Surfactant
được sử dụng là chất surfactant tự nhiên ngoại
sinh, Beractant liều 100mg/kg và Poractant liều
100 - 200mg/kg trong vòng 1 – 3 phút. Tất cả các
trẻ được theo dõi nhịp tim liên tục và độ bão hòa
oxy mạch ngoại biên (SpO2). Tất cả các trẻ được
hỗ trợ bằng nCPAP (5-8 cmH2O) trong khi tự
thở trong quá trình can thiệp, qua ống thông
mũi ngắn 2 nòng. Tất cả trẻ sơ sinh thiếu tháng
được đặt vị thế phù hợp bởi một nhân viên thứ
hai, là người giữ trẻ và hỗ trợ đặt ống trong tiến
trình thực hiện. Một ống thông dạ dày 5-6 G, đặt
qua đường miệng, được đặt qua khỏi mức dây

thanh âm khoảng 1-2 cm bằng phương pháp nội
soi thanh quản trực tiếp, mà không dùng kềm
Magill. Lỗ thông bên hông ống thông dạ dày
giúp đảm bảo đầu ống được đặt đúng vị trí.
Surfactant được bơm qua ống thông này trong
vòng 3 phút. Trẻ tự thở nCPAP trong suốt quá
trình bơm surfactant. Thông khí áp lực dương
qua mặt nạ có túi dự trữ chỉ được thực hiện khi
trẻ có ngưng thở hoặc chậm nhịp tim, khi đó tiến
trình bơm surfactant được ngưng lại. Trong lúc
bơm surfactant, tình trạng hít sặc chất từ dạ dày
được kiểm soát qua ống thông mũi dạ dày tiêu

Nghiên cứu Y học

chuẩn để giảm tình trạng lệch vị trí của ống bơm
surfactant. Ống bơm surfactant được lấy ra sau
khi đã bơm xong và nCPAP vẫn được duy trì
với FiO2 được điều chỉnh để SpO2 đạt 90-95%.
Tất cả trẻ được điều trị dự phòng caffeine citrate
đường tĩnh mạch (liều đầu 20 mg/kg, tiếp theo là
5 mg/kg/ngày) trong 8 giờ đầu đời. Các dữ kiện
cần thu thập được ghi nhận đầy đủ trong hồ sơ
bệnh án.
Bước 4: Theo dõi sau điều trị. Trẻ được theo
dõi, điều trị tiếp tục tại khoa sơ sinh. Diễn tiến
lâm sàng và các thông tin cần thu thập được ghi
chép đầy đủ trong hồ sơ bệnh án. Nghiên cứu
viên thu thập số liệu từ hồ sơ bệnh án và điền
vào bảng thu thập số liệu.

Phương pháp xử lý số liệu
Các biến định tính: tính tần số và tỷ lệ
phần trăm.
Các biến định lượng: tính giá trị trung bình,
độ lệch chuẩn, trung vị.
Mô tả và phân tích số liệu theo các mục tiêu
của đề tài.
Số liệu được xử lý bằng phần mềm STATA 12.
Ttest, chi bình phương, tính OR, p có ý nghĩa
thống kê khi <0,05.

KẾT QUẢ
Từ tháng 08 năm 2017 đến tháng 07 năm
2018, có 1926 trẻ sinh non ≤ 32 tuần nhập khoa sơ
sinh bệnh viện Từ Dũ. Tổng cộng có 426 trẻ
(22,12%) được điều trị surfactant. Có 53 trẻ thở
nCPAP từ lúc sinh thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu và
được tham gia vào nhóm nghiên cứu bơm
surfactant ít xâm lấn. Chúng tôi chọn 53 trẻ được
điều trị surfactant bằng kỹ thuật INSURE thoả
tiêu chuẩn chọn mẫu làm nhóm chứng.
Không có sự khác biệt giữa 2 nhóm trong
nghiên cứu về các đặc điểm cơ bản hoặc yếu tố
nguy cơ trước sinh, ngoại trừ điểm chỉ số CRIB
có cao hơn trong nhóm LISA, cho thấy tình trạng
lâm sàng nặng hơn lúc khởi đầu (Bảng 1). Tuổi
thai trung bình ở nhóm LISA là 29,1 ± 1,9 tuần, ở
nhóm INSURE là 29,7 ± 1,6 tuần. Cân nặng lúc

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch


287


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019

Nghiên cứu Y học

sanh trung bình ở nhóm LISA là 1248,1 ± 311,6
(g) và 1308,5 ± 309,1 (g) ở nhóm INSURE.
Bảng 1: Thông tin cơ bản của nhóm LISA và
INSURE
LISA
Tuổi thai (tuần),
29,1 ± 1,9
trung bình
(28,5 – 29,6)
Cân nặng lúc sanh 1248,1±311,6
(g), trung bình
Giới (nam), %
50,9%
Steroids trước
16 (30,2%)
sanh, n (%)
Sanh mổ, n (%)
32 (60,4%)
Giờ tuổi lúc can
204,53 ± 13,6
thiệp (phút), trung
bình

Điểm CRIB, trung
2,28 ± 1,16
bình

INSURE
29,7 ± 1,6
(29,3 – 30,2)
1308,5±309,1

p
0,07

54,7%
16 (30,2%)

0,69
0,73

30 (56,6%)
243,49 ± 13,6

0,69
0,07

2,07 ± 1,45

0,32

0,42


Tỷ lệ thở máy trong vòng 72 giờ sau sanh ở
nhóm bơm surfactant ít xâm lấn thấp hơn nhóm
INSURE, tuy nhiên sự khác biệt không có ý
nghĩa thống kê (9,43% so với 15,09%. p = 0,37).
Không có sự khác biệt về thời gian thở máy ở 2
nhóm. Surfactant được bơm thành công ở tất cả
các trẻ với tình trạng huyết động ổn định trong
và sau khi thực hiện thủ thuật. Nhu cầu FiO2
sau bơm surfactant đều giảm ở cả 2 nhóm. Tỷ lệ
giảm FiO2 trên 20% trong giờ đầu tiên ở nhóm
điều trị ít xâm lấn là 90,6% nhiều hơn so với
nhóm INSURE là 71,7%, sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê p = 0,013, p<0,05 (Bảng 2).
Bảng 2: Điều trị hô hấp sau sanh ở nhóm LISA và
INSURE
LISA
48 (90,6)

INSURE
p
38 (71,7) 0,013

FiO2 giảm đi (>20%), n(%)
Thở máy > 1g trong 3 ngày
5 (9,4)
8 (15,1)
đầu đời, n(%)
Thời gian thở máy (ngày),
5,4 ± 3,8
4,9 ± 3,3

trung bình
Cần thực hiện liều thứ 2, n
0 (0)
1 (1,9)
(%)
Chậm nhịp tim, n (%)
5 (9,4)
Trào ngược surfactant, %
30,96
Tràn khí màng phổi, n(%)
0 (0)
2 (3,8)
Viêm phổi, n (%)
32 (60,4)
40 (75,5)
Tử vong, n (%)
5 (9,4)
8 (15,1)
Số ngày nằm viện (ngày),
26,5 ± 12,3 33,2 ± 15,8
trung bình

288

0,37
0,73
1,0
0,49
0,09
0,37

0,02

Không có sự khác biệt về tỷ lệ thực hiện liều
surfactant thứ 2. Tỷ lệ tràn khí màng phổi sau
bơm surfactant ở nhóm LISA thấp nhóm
INSURE, tuy nhiên sự khác biệt không có ý
nghĩa thống kê. Tương tự, tỷ lệ viêm phổi và tỷ
lệ tử vong ở nhóm LISA thấp hơn nhóm
INSURE nhưng không có ý nghĩa thống kê.
Có sự khác biệt về số ngày nằm viện giữa 2
nhóm. Số ngày nằm viện trung bình của nhóm
INSURE là 33,2 ± 15,8 ngày, nhiều hơn nhóm
bơm surfactant ít lấn (26,5 ± 12,3 ngày), p=0,02,
p<0,05.
Kỹ thuật bơm surfactant ít xâm lấn được
thực hiện bởi các bác sĩ sơ sinh của nhóm nghiên
cứu. Ống thông được đặt đúng vị trí trong tất cả
các trường hợp và surfactant được bơm vào mà
không có tai biến nào. Không có trẻ nào trong
nhóm bơm surfactant ít xâm lấn cần ống nội khí
quản để bơm surfactant. Tất cả bệnh nhi sau
điều trị mà cần đặt ống nội khí quản thì được
đặt lúc hơn 1 giờ sau khi thực hiện thủ thuật. Số
lần bị chậm nhịp tim trong lúc bơm surfactant ít
lấn được ghi nhận là 5 lần (9,4%). Tình trạng trào
ngược nhẹ surfactant được thấy 30,96% trong
nhóm LISA (Bảng 1, 2).

BÀN LUẬN
Trong vài năm gần đây, xu hướng điều trị

suy hô hấp ít xâm lấn ở các trẻ sơ sinh non tháng
đã xuất hiện do mối liên hệ giữa thông khí cơ
học xâm lấn và sự phát sinh loạn sản phế quản
phổi (BPD)(8,10,11,12). Một kỹ thuật ít xâm lấn được
đề nghị đó là dùng đèn soi thanh quản bật nắp
thanh môn và đưa một ống thông nhỏ vào khí
quản. Surfactant được đưa vào phổi qua ống
thông này. Hiện nay có nhiều loại ống thông
được sử dụng và cách thức để đưa vào khác
quản cũng khác nhau. Các loại ống thông sử
dụng là ống nội khí quản 2,5, ống thông dạ dày 4
– 5 – 6 F, ống thông mạch máu 16G, ống thông
tĩnh mạch rốn, ống thông thiết kế đặt biệt để
bơm Surfactant. Kỹ thuật đặt ống thông vào khí
quản cũng khác nhau, có tác giả dùng kềm
Magill để đưa ống thông vào khí quản, có tác giả
thì không cần dùng kềm Magill. Điều này thay

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
đổi tuỳ vào loại ống thông được sử dụng cũng
như kỹ năng thực hành lâm sàng của từng tác
giả. Trong nghiên cứu của chúng tôi, ống thông
dạ dày 5 – 6 F được sử dụng và đưa trực tiếp vào
khí quản qua đèn soi thanh quản mà không cần
sử dụng kềm Magill. Lợi điểm là ống thông dạ
dày là sẵn có, rẻ tiền trong khi ống thông mạch
máu thì đắt tiền, ống thông thiết kế đặc biệt của

tác giả Cristina Ramos-Navarro thì không sẵn có
tại Việt nam. Còn với ống nội khí quản 2,5 thì
đường kính trong của ống là 2,5 mm, đường
kính ngoài là 4,1 mm, phần còn lại để trẻ thở khi
làm thủ thuật nhỏ, trẻ thở khó khăn hơn. Ngoài
ra ống thông dạ dày chúng tôi sử dụng đủ cứng
để đưa trực tiếp vào khí quản mà không cần sử
dụng kềm Magill, thao tác kỹ thuật đơn giản.
Đây là những lợi điểm của 1 kỹ thuật. Trang
thiết bị đơn giản dễ tìm, chi phí thấp và thao tác
đơn giản dễ thực hiện. Chúng tôi ghi nhận ở tất
cả các trường hợp ống thông đều được đưa vào
khí quản đúng vị trí ở lần đặt đầu tiên và không
có 1 tổn thương nào do ống thông này gây ra.
Chúng tôi cũng ghi nhận rằng để thực hiện kỹ
thuật này hiệu quả nhất đòi hỏi bác sĩ phải có
kinh nghiệm cũng như kỹ năng thực hành lâm
sàng thật tốt. Để giảm thiểu sự sai biệt trong kết
quả nghiên cứu, các bác sĩ tham gia thực hiện kỹ
thuật LISA trong nghiên cứu đều có quá trình
làm việc trong lĩnh vực hồi sức sơ sinh non
tháng trên 5 năm kinh nghiệm. Các bác sĩ này
đều được tập huấn về kỹ thuật LISA và có kỹ
năng thực hành lâm sàng tốt. Đối với các trẻ có
bơm surfactant bằng kỹ thuật INSURE, chúng
tôi chọn các trẻ đủ tiêu chuẩn vào nhóm chứng
và được bơm surfactant bởi các bác sĩ thực hành
tại khoa sơ sinh trên 5 năm kinh nghiệm và có kỹ
năng thực hành lâm sàng tốt.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhu cầu

thở máy trên 1 giờ ở bất kỳ thời điểm nào từ
sau khi thực hiện thủ thuật cho đến khi xuất
viện hoặc tử vong trong nhóm INSURE là
18,87% và 20,75% ở nhóm LISA, sự khác biệt
không có ý nghĩa thống kê với p = 0,8 > 0,05.
Trong đó nhu cầu thở máy hơn 1 giờ trong 3

Nghiên cứu Y học

ngày đầu đời ở nhóm LISA thấp hơn nhóm
INSURE (9,4% so với 15,1%). Tuy nhiên sự
khác biệt không có ý nghĩa thống kê, p = 0,37.
Thời gian thở máy sau sanh trung bình là 68,78
± 16,5 giờ ở nhóm INSURE và 140,79 ± 45 giờ ở
nhóm LISA, p = 0,16. Kết quả này cũng phù
hợp với các tác giả khác như Mohamma
dizadeh và cộng sự 2015, thời gian thở máy
hơn 1 giờ trong 3 ngày đầu đời ở nhóm
INSURE là 15,85 và 10,5% ở nhóm LISA, sự
khác biệt không có ý nghĩa thống kê, p=0,99(17).
Trong nghiên cứu của Bao và cộng sự thì thời
gian thở máy trên 1 giờ trong 3 ngày đầu đời
cũng không có sự khác biệt giữa 2 nhóm
INSURE và LISA (23,3% so với 17,0%, p =
0,44)(2). Tổng thời gian thở máy trung bình
trong nghiên cứu này là 4,9 ± 1,15 ngày ở
nhóm INSURE và 5,4 ± 0,9 ngày ở nhóm LISA,
sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê, p=
0,73. Thời gian thở máy trung bình thay đổi
theo từng nghiên cứu. Có những nghiên cứu

thời gian thở máy trung bình chỉ khoảng 1
ngày, có những nghiên cứu thời gian thở máy
trung bình có thể lên đến 20 ngày. Tuy nhiên ở
hầu hết các nghiên cứu thì không có sự khác
biệt giữa 2 nhóm điều trị INSURE và LISA.
Về tính hiệu quả của việc bơm surfactant
được đánh giá dựa vào sự giảm nhu cầu FiO2
hơn 20%. Một trong các mục tiêu điều trị suy hô
hấp đó chính là làm giảm nhu cầu oxy. Các bác
sĩ lâm sàng lo ngại rằng, với kỹ thuật bơm
surfactant ít xâm lấn, khi không dùng 1 áp lực
dương để đẩy thuốc vào thì liệu rằng có đảm
bảo thuốc vào được phế nang hay không. Trong
nghiên cứu của chúng tôi, cả 2 nhóm đều có hiệu
quả làm giảm FiO2 trên 20% sau bơm surfactant.
Tuy nhiên nhóm LISA làm giảm FiO2 trên 20%
cao hơn nhóm INSURE và sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê. Tỷ lệ giảm FiO2 trên 20% ở
nhóm LISA là 90,57% và 71,7% ở nhóm INSURE,
p=0,013. Trong 5 trường hợp không giảm được
FiO2 trên 20% trong giờ đầu thì chỉ có 1 trường
hợp phải đặt lại nội khí quản trong vòng 72 giờ
sau sanh. Và trong tất cả các trường hợp bơm

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch

289


Nghiên cứu Y học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019

LISA, không có trường hợp nào phải đặt lại nội
khí quản trong vòng 1 giờ sau bơm. So với
nghiên cứu Christina Ramos – Navarro thì tỷ lệ
này là 73,3% và sự khác biệt không có ý nghĩa
thống kê giữa 2 nhóm INSURE và LISA(19). Việc
giảm được nhu cầu oxy trong vòng 1 giờ sau
bơm surfactant điều trị suy hô hấp bệnh màng
trong chứng tỏ surfactant ngoại sinh được cung
cấp đủ. Chính việc giảm FiO2 trong vòng 1 giờ
sau bơm cho thấy một trong các mục tiêu điều trị
suy hô hấp đã đạt được. Ngược lại với sự lo lắng
của các bác sĩ lâm sàng, việc nhỏ giọt surfactant
vào phổi trong khi trẻ vẫn tự thở hoàn toàn sinh
lý, không có chấn thương thể tích, không chấn
thương áp lực cũng như không ảnh hưởng
luồng khí hít vào thở ra của trẻ. Việc dùng thở
máy xâm lấn trong lúc bơm surfactant cho thấy
giảm hiệu quả của surfactant được bơm vào, góp
phần vào sự phát sinh các biến chứng hô hấp(16).
Một trong những vấn đề lo ngại của các
bác sĩ lâm sàng dó là sự trào ngược surfactant
trong quá trình thực hiện kỹ thuật, nhất là với
kỹ thuật bơm ít xâm lấn, hoàn toàn không có
thông khí cơ học. Surfactant được nhỏ giọt vào
khí quản trong khi trẻ vẫn tự thở dưới hỗ trợ
nCPAP. Đó là một trong những cản trở lớn
nhất làm cho các bác sĩ lâm sàng không dám

áp dụng kỹ thuật này. Tác giả Cam Ngọc
Phượng ghi nhận 20% trẻ bị trào ngược
surfactant khi bơm bằng kỹ thuật ít xâm lấn.
Theo nghiên cứu của Kanmaz và cộng sự thì tỷ
lệ trào ngược surfactant là 21%. Trong nghiên
cứu của chúng tôi tỷ lệ trào ngược surfactant là
30,96%. Trong đó có những lần được ghi nhận
là trào ngược lượng thuốc không đáng kể.
Trong quá trình thực hiện, chúng tôi ghi nhận
sự trào ngược thuốc thường xảy ra trong
trường hợp nhỏ giọt thuốc quá nhanh hoặc trẻ
bị kích thích. Vì vậy cần tuân thủ thời gian nhỏ
giọt surfactant và ổn định trẻ trong quá trình
thực hiện kỹ thuật. Ngoài ra, trong các nghiên
cứu khác có sử dụng an thần trong quá trình
thực hiện kỹ thuật còn trong nghiên cứu của
chúng tôi không sử dụng thuốc an thần trong

290

quá trình thực hiện kỹ thuật. Mặc dù ghi nhận
có trào ngược thuốc trong quá trình thực hiện
kỹ thuật, tuy nhiên tỷ lệ giảm FiO2 trên 20%
vẫn đạt 90,57% chứng tỏ việc cung cấp
surfactant ngoại sinh vẫn đạt hiệu quả.
Tỷ lệ viêm phổi, tràn khí màng phổi và tỷ lệ
tử vong khác biệt không có ý nghĩa thống kê
giữa 2 nhóm LISA và INSURE. Điều này cũng
phù hợp với các nghiên cứu khác.
Số ngày nằm viện của nhóm LISA ít hơn số

ngày nằm viện của nhóm INSURE và sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê. Số ngày nằm viện trung
bình của nhóm INSURE và LISA tương ứng là
33,2 ± 15,8 ngày và 26,5 ± 12,3 ngày, p=0,016.
Trong nghiên cứu này, mặc dù tỷ lệ thở máy
xâm lấn và thời gian thở máy không khác biệt
giữa 2 nhóm điều trị, tuy nhiên tổng số ngày
nằm viện của nhóm LISA ít hơn tổng số ngày
nằm viện ở nhóm INSURE. Vì vậy chúng tôi tin
rằng kỹ thuật này góp phần làm giảm chi phí
điều trị, giảm quá tải cho khoa Sơ sinh. Việc rút
ngắn thời gian nằm viện là một trong các chỉ tiêu
cần đạt của bệnh viện. Nhất là trong hoàn cảnh
hiện nay, sự quá tải của các bệnh viện đang là
vấn đề cấp bách. Mọi nỗ lực nhằm giảm thời
gian nằm viện góp phần làm giảm quá tải cho
bệnh viện. Quá tải bệnh viện luôn là vấn đề đặc
biệt được quan tâm bởi người dân, các nhân viên
viên y tế và các nhà quản lý. Hệ lụy của việc
nằm viện kéo dài là rất lớn. Đặc biệt tại các khoa
săn sóc tăng cường, nằm viện kéo dài đồng
nghĩa với việc gia tăng tỷ lệ nhiễm trùng bệnh,
gia tăng tỷ lệ các biến chứng và nhất là gia tăng
tỷ lệ tử vong. Trong điều kiện còn hạn chế về cơ
sở vật chất, nhân lực như hiện nay thì một kỹ
thuật được chứng minh là có tính an toàn, hiệu
quả, lại góp phần làm giảm thời gian nằm viện
nên được lựa chọn.
Lợi thế của nghiên cứu: Đây là nghiên cứu
tiền cứu, dữ liệu cần thu thập được ghi đầy đủ

trong hồ sơ bệnh án. Các bác sĩ tham gia nghiên
cứu đều có thâm niên công tác trong lĩnh vực hồi
sức sơ sinh non tháng trên 5 năm, đã được tập
huấn về kỹ thuật bơm surfactant ít xâm lấn. Các

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
trẻ được đưa vào nhóm chứng cũng được thực
hiện kỹ thuật bởi các bác sĩ sơ sinh thực hành tại
khoa Sơ sinh trên 2 năm và thành thạo bơm
surfactant. Ống thông dạ dày sử dụng bơm
surfactant ít xâm lấn sẵn có tại khoa.

7.

8.

9.

Hạn chế của nghiên cứu
Thiết kế nghiên chưa đủ mạnh, không phải
là một nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu
nhiên có đối chứng (RCT) vì vậy không đủ độ
mạnh để đưa ra các bằng chứng, khẳng định hay
khuyến cáo. Do hạn chế về thời gian cũng như
nhân lực, cỡ mẫu chưa đủ lớn so với các nghiên
cứu khác.


KẾT LUẬN
Qua kết quả nghiên cứu của chúng tôi,
chúng tôi tin rằng kỹ thuật bơm surfactant ít
xâm lấn là khả thi, có thể thực hiện được, có hiệu
quả giảm FiO2 trên 20% lên đến 90,57%, có thể
có khả năng giảm được nhu cầu thở máy trong
vòng 3 ngày đầu đời. Giảm thời gian nằm viện,
giảm chi phí điều trị, giảm quá tải cho khoa Sơ
sinh, góp phần nâng cao chất lượng điều trị trẻ
sơ sinh non tháng, góp phần cải thiện kết cục của
trẻ sơ sinh non tháng. Tuy nhiên cần có nhiều
nghiên cứu với thiết kế nghiên cứu tốt hơn, cỡ
mẫu lớn hơn để tìm ra sự khác biệt nếu có.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.
4.

5.

6.

Aguar M, Cernada M, Brugada M, Gimeno A, Gutierrez A,
Vento M (2014). “Minimally invasive surfactant therapy with a
gastric tube is as effective as the intubation, surfactant, and
extubation technique in preterm babies”. Acta Paediatr,

103(6):pp.e229-33.
Bao Y, Zhang G, Wu M, Ma L, Zhu J (2015). “A pilot study of
less invasive surfactant administration in very preterm infants
in a Chinese tertiary center”. BMC Pediatrics, 15(1):pp.21.
Bohlin K (2012). “RDS-CPAP or surfactant or both”. Acta
Pediatrica, 101:pp.24–28.
Cam Ngọc Phượng (2017). “Bước đầu sử dụng liệu pháp
surfactant ít xâm lấn”. Hội chu sinh – Sơ sinh Tp Hồ Chí Minh,
www//panah.vn.
Dargaville PA, Gerber A, Johansson S, et al (2016). Incidence
and Outcome of CPAP Failure in Preterm Infants. Pediatrics,
pp.138.
Dunn MS, Jefferies AL (2012). Recommendations for neonatal
surfactant therapy – addendum. Paediatrics & Child Health,
17(3):pp.137-8.

10.

11.

12.

13.

14.

15.

16.


17.

18.

19.

Nghiên cứu Y học

Finer NN, Merritt TA, Bernstein G, Job L, Mazela J, Segal R
(2010). An open label, pilot study of Aerosurf® combined with
nCPAP to prevent RDS in preterm neonates. J Aerosol Med Pulm
Drug Deliv, 23(5):pp.303-9.
Fischer HS, Buhrer C (2013). Avoiding endotracheal ventilation
to prevent bronchopulmonary dysplasia: a meta-analysis.
Pediatrics, 132(5): pp.e1351–e1360.
Göpel W, Kribs A, Herting E (2016). Less Invasive Surfactant
Administration
(LISA)
for
the
Prevention
of
Bronchopulmonary. In: Bronchopulmonary Dysplasia. Humana
Press Cham, pp.315-324.
Ioannidis JP, Horbar JD, Ovelman CM, Brosseau Y, Thorlund K,
Buus-Frank ME, Mills EJ, Soll RF (2015). Completeness of main
outcomes across randomized trials in entire discipline: survey of
chronic lung disease outcomes in preterm infants. BMJ,
350:pp.h72.
Isayama T, Chai-Adisaksopha C, McDonald SD (2015).

Noninvasive ventilation with vs without early surfactant to
prevent chronic lung disease in preterm infants: a systematic
review and meta-analysis. JAMA Pediatrics, 169(8):pp.731-9.
Isayama T, Iwami H, McDonald S, Beyene J (2016). Association
of noninvasive ventilation strategies with mortality and
bronchopulmonary dysplasia among preterm infants: A
systematic review and meta-analysis. JAMA, 316(6):pp.611-24.
Kattwinkel J, Robinson M, Bloom BT, Delmore P, Ferguson JE
(2004). Technique for Intrapartum Administration of Surfactant
without Requirement for an Endotracheal Tube. J Perinatol,
24(6):pp.360-5.
Klotz D, Porcaro U, Fleck T, Fuchs H (2017). European
perspective on less invasive surfactant administration-a survey.
Eur J Pediatr, 176(2): pp.147-154.
Lau CS, Chamberlain RS, Sun S (2017). “Less Invasive
Surfactant Administration Reduces the Need for Mechanical
Ventilation in Preterm Infants”. Global Pediatric Health. (4).
Martin R (2018). Prevention and treatment of respiratory
distress
syndrome
in
preterm
infants.
Uptodate,
/>Mohammadizadeh M, Ardestani AG, Sadeghnia AR (2015).
Early administration of surfactant via a thin intratracheal
catheter in preterm infants with respiratory distress syndrome:
Feasibility and outcome. Journal of Research in Pharmacy Practice,
4(1):pp.31-6.
Papile LA, Baley JE, Benitz W, Cummings J, Eichenwald E,

Kumar P, Wang LS. (2014). “Respiratory support in preterm
infants at birth”. Pediatrics, 133(1):pp.171-4.
Ramos-Navarro C, Zeballos–Sarrato S, Sánchez–Luna M,
González–Pacheco N (2016). “Less invasive beractant
administration in preterm infants: a pilot study”. Clinics,
71(3):pp.128–134.

Ngày nhận bài báo:

22/01/2019

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

28/01/2019

Ngày bài báo được đăng:

20/04/2019

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch

291



×