Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Khảo sát chất lượng sống và các yếu tố liên quan đến chất lượng sống của bệnh nhân mắc hội chứng ruột kích thích

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.95 KB, 7 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019

Nghiên cứu Y học

KHẢO SÁT CHẤT LƯỢNG SỐNG VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN
CHẤT LƯỢNG SỐNG CỦA BỆNH NHÂN
MẮC HỘI CHỨNG RUỘT KÍCH THÍCH
Đoàn Phan Ngọc Thảo*, Nguyễn Ngọc Phúc*, Võ Duy Thông**, Bùi Thị Hương Quỳnh*

TÓMTẮT
Mở đầu: Hội chứng ruột kích thích (irritable bowel syndrome - IBS) là bệnh mạn tính đường tiêu hoá
liên quan đến rối loạn chức năng ruột, gây ra những triệu chứng khó chịu hưởng đến chất lượng sống
(CLS) của bệnh nhân (BN).
Mục tiêu: Khảo sát CLS của BN mắc IBS và xác định các yếu tố liên quan đến CLS của BN IBS.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên những BN mắc IBS được
chẩn đoán theo tiêu chuẩn Rome III tại phòng khám Tiêu hóa, bệnh viện Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí
Minh từ tháng 4/2018 đến tháng 6/2018. Phỏng vấn BN bằng bộ câu hỏi IBS-QoL phiên bản tiếng Việt.
Các yếu tố có liên quan đến chất lượng sống được thống kê bằng hồi quy tuyến tính đa biến.
Kết quả: Nghiên cứu thực hiện trên 181 BN mắc IBS. Điểm CLS trung bình là 75,79  12,63. Điểm
CLS ở khía cạnh Tình dục và Hình thể là cao nhất (91,44  18,70 và 90,30  12,19). Điểm CLS ở 2 khía
cạnh Chế độ ăn kiêng và Cản trở hoạt động là thấp nhất (56,91  22,87 và 70,56  18,54). Việc sử dụng đồ
uống có gas làm suy giảm CLS của BN mắc IBS (beta= -4,488, CI 95% (-8,676) – (-0,301), p = 0,036). Các
yếu tố khác như giới tính, tuổi, thời gian bệnh, loại IBS, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, căng thẳng,
hút thuốc, uống rượu, cà phê, vận động, thức khuya không liên quan đến CLS của BN IBS.
Kết luận: Điểm CLS của BN IBS ở mức trung bình. Cần tư vấn BN IBS hạn chế sử dụng đồ uống có gas.
Từ khóa: Hội chứng ruột kích thích (IBS), chất lượng sống (QoL), yếu tố liên quan.

ABSTRACT
INVESTIGATION OF QUALITY OF LIFE AND FACTORS RELATED TO
QUALITY OF LIFE OF PATIENTS WITH IRRITABLE BOWEL SYNDROME
Doan Phan Ngoc Thao, Nguyen Ngoc Phuc, Vo Duy Thong, Bui Thi Huong Quynh


* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 227-233
Background: Irritable bowel syndrome – IBS is a chronic gastrointestinal disease associated with bowel
dysfunction that causes uncomfortable symptoms and affects to quality of life (QoL) of patients.
Objective: to investigate the quality of life (QoL) and factors related to QoL in patients with IBS.
Methods: A cross-sectional study was conducted in patients diagnosed with IBS based on Rome III
Criteria at the GG stroenterology clinic of the University Medical Center Ho Chi Minh City from April
2018 to June 2018. Patients were asked to complete the Vietnamese version of the IBS-QoL questionnaire.
Factors related to QoL were analysed by multivariate regression models.
Results: We surveyed 181 patients with IBS. The mean QoL score was 75.79  12.63. The domains
with the highest score were Sexual and Body image with 91.44  18.70 and 90.30 ± 12.19, respectively. The
lowest scores were 56.91  22.87 for Dietary and 70.56  18.54 for Interference with activity. Carbonated
*

Bộ môn Dược lâm sàng, Khoa Dược, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Bộ môn Nội, Khoa Y, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: TS. Bùi Thị Hương Quỳnh
ĐT: 0912261353
Email:

**

Chuyên Đề Dược

227


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019


beverages reduced the QoL of patients with IBS (beta = -4.488, CI95% (-8.676) - (-0.301), p = 0.036). Other
factors such as gender, age, duration of illness, type of IBS, educational level, marital status, stress,
smoking, alcohol, coffee, exercise, staying up late at night were not related to QoL of IBS patients.
Conclusions: Mean QoL score of IBS patients was not high. Healthcare provider should educate
patients to refrain from drinking carbonated beverages
Keywords: IBS, Quality of life, related factors

ĐẶTVẤNĐỀ
Hội chứng ruột kích thích (irritable bowel
syndrome - IBS) là bệnh mạn tính đường tiêu
hoá liên quan đến rối loạn chức năng ruột(4).
IBS được chẩn đoán theo tiêu chuẩn Rome III
dựa trên những triệu chứng phổ biến như
bụng đau, khó chịu ở bụng, bất thường ở hình
dạng phân và tần số đi tiêu(11). IBS chiếm tỷ lệ
khoảng 5-23% tổng dân số và khoảng 70% BN
tới các phòng khám tiêu hóa(8). Tỷ lệ này thay
đổi theo khu vực, quốc gia, giới tính, lứa tuổi.
Ở Hoa Kỳ, tỷ lệ này là 15-20% và ước tính tăng
1-2% mỗi năm(2,5). Trong khi đó, tỷ lệ IBS ở các
nước châu Á dao động từ 2,9-15,6%(17).
Mặc dù IBS không phải tình trạng nguy
cấp hay nghiêm trọng dẫn đến tử vong
nhưng bệnh gây ra những triệu chứng khó
chịu ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động và
cuộc sống thường ngày của BN, điều này
được chỉ ra trong nghiên cứu của Monnikes
H (2011)(12) và Kang SH (2011)(10). Ngoài ra,
tình trạng tái phát bệnh còn ảnh hưởng
đáng kể tới chi phí y tế trực tiếp và gián

tiếp, tới năng suất làm việc và chất lượng
sống (CLS)(11). Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng
BN mắc IBS có CLS thấp hơn một số bệnh
khác như trào ngược dạ dày-thực quản, đái
tháo đường và bệnh thận giai đoạn cuối(12,18).
Hiệu quả điều trị bệnh bị tác động bởi
nhiều yếu tố khác nhau vì vậy việc xác định
các yếu tố liên quan đến CLS là cần thiết và
quan trọng để hỗ trợ các bác sĩ can thiệp, điều
trị đúng cách giúp cải thiện các vấn đề của BN.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, vẫn chưa có những
nghiên cứu liên quan đến CLS của BN IBS.
Nghiên cứu về CLS của BN IBS đã được thực

228

hiện nhiều ở các nước phương Tây và một số
nước châu Á như Hàn Quốc, Trung Quốc(3,11,18).
Nghiên cứu được tiến hành với mục đích
khảo sát CLS của BN mắc IBS và xác định các
yếu tố liên quan đến CLS của BN IBS.

ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU
Đối tượng
Nghiên cứu cắt ngang mô tả được tiến
hành trên BN ngoại trú mắc IBS, đến khám và
điều trị tại phòng khám tiêu hóa, bệnh viện
Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh từ
tháng 4/2018 đến tháng 6/2018.
Tiêu chuẩn chọn mẫu:

BN được chẩn đoán mắc IBS theo tiêu
chuẩn Rome III.
Đủ 18 tuổi trở lên
BN đồng ý tham gia nghiên cứu.
Khám tại phòng khám tiêu hóa, Bệnh viện
Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh.
Tiêu chuẩn loại trừ:
BN không có đủ thông tin về các đặc điểm
khảo sát.
BN không biết chữ.
BN từ chối tham gia nghiên cứu.
Cỡ mẫu
Chúng tôi muốn ước tính điểm trung bình
CLS theo bộ câu hỏi IBS-QoL ở người Việt
Nam, và chấp nhận sai số trong vòng 2 điểm
(d = 2) với khoảng tin cậy 0,95 (tức α = 0,05) và
power = 0,9 (hay β = 0,1).
Trong nghiên cứu của Cho HS (2011)(3), độ
lệch chuẩn của điểm trung bình của bộ câu hỏi
IBS-QoL là 7,4 điểm.

Chuyên Đề Dược


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Như vậy, hệ số ảnh hưởng
ES=2/7,4=0,27 và hằng số C=10,51.

là:


Áp dụng công thức để ước tính cỡ mẫu
cần thiết cho nghiên cứu:
n = C/(ES)2 = 10,51/0,272 = 144
Như vậy, cỡ mẫu tối thiểu là 144 BN.
Trên thực tế chúng tôi tiến hành nghiên cứu
trên 181 BN.
Bộ câu hỏi
Nghiên cứu sử dụng bộ câu hỏi IBS-QoL

tuyến tính đa biến được dùng để xác định các
yếu tố liên quan đến CLS. Kết quả được xem
là có ý nghĩa khi p < 0,05.

KẾTQUẢ
Đặc điểm bệnh nhân
Tổng cộng có 181 BN thực hiện khảo sát.
Đặc điểm của BN khảo sát được trình bày
trong bảng 1.
Bảng 1: Đặc điểm của BN khảo sát
Đặc điểm

(Irritable Bowel Syndrome Quality of Life
Questionaire) phiên bản tiếng Việt. Bộ câu hỏi
phiên bản tiếng Việt đã được dịch thuật và
điều chỉnh ra tiếng Việt theo nguyên tắc thực

Giới tính
Nhóm tuổi

hành tốt quá trình dịch thuật và điều chỉnh

ngôn ngữ(13). Bộ câu hỏi IBS-QoL được tác giả
Pattrick và Drossman phát triển và thẩm định

Nghề
nghiệp

vào năm 1998(15). Bộ câu hỏi gồm 34 câu, đánh
giá ảnh hưởng của IBS trên 8 khía cạnh: sự
khó chịu, ảnh hưởng đến các hoạt động, vẻ bề
ngoài, lo lắng về sức khỏe, ăn kiêng, phản ứng

Hôn nhân
Thời gian
mắc bệnh

của xã hội, tình dục, mối quan hệ. Mỗi khía
cạnh được đo lường bởi tập hợp những câu
hỏi khác nhau trong 34 câu của thang đo. Mỗi

Loại IBS

câu hỏi được đo lường theo thang đo mức độ
ảnh hưởng: không ảnh hưởng, nhẹ, trung
bình, nặng, cực kì nặng. Kết quả được dùng để
tính điểm cho từng khía cạnh và được quy đổi
thành thang 0-100, điểm càng cao tương ứng
với CLS càng tốt. Tất cả các câu hỏi được tổng
kết để tính điểm tổng thể và cũng được
chuyển thành thang 0-100.
Phân tích thống kê

Dữ liệu được thống kê bằng phần mềm
SPSS 20. Dữ liệu được trình bày dưới dạng số
trung bình ± độ lệch chuẩn (Mean ± SD) hoặc
tỷ lệ phần trăm. Thống kê mô tả dược dùng để
xác định tần số, tỷ lệ phần trăm, số trung bình,
độ lệch chuẩn của các biến. Phân tích hồi quy

Chuyên Đề Dược

Nghiên cứu Y học

Trình độ
học vấn

Nam
Nữ
18-50
> 50
Nông dân/Công nhân
Trí thức/Kinh doanh
Nghỉ hưu/Nội trợ
Buôn bán
Khác
Có gia đình
Độc thân/Ly hôn
< 2 năm
2-4 năm
> 4 năm
IBS thể tiêu chảy
IBS thể táo bón

IBS thể vừa tiêu chảy,
vừa táo bón
IBS thể không tiêu
chảy/táo bón
Chưa tốt nghiệp trung
học phổ thông
Tốt nghiệp trung học
phổ thông
Cao đẳng/Đại học/Sau
đại học

Tần số
(n=181)
78
103
123
58
37
57
49
18
20
154
27
96
49
36
115
25
36

5

Tỷ lệ
(%)
43,1
56,9
68,0
32,0
20,4
31,5
27,1
9,9
11,1
85,1
14,9
53,0
27,1
19,9
63,5
13,8
19,9
2,8

104

57,5

18

9,9


59

32,6

Tỷ lệ BN nữ là 56,9% nhiều hơn nam là
43,1%. Độ tuổi trung bình của toàn mẫu
nghiên cứu là 43,02 ± 12,98 tuổi. BN có độ tuổi
từ 18-50 tuổi có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn so với
nhóm BN có độ tuổi trên 50 (68,0% so với
32,0%). BN mắc IBS-D chiếm gần 2/3 trong
tổng số BN. Đa số BN có thời gian mắc bệnh
dưới 2 năm, có trình độ học vấn ở mức chưa
tốt nghiệp THPT và BN đã có gia đình.

229


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019

Nghiên cứu Y học

Lối sống, thói quen sinh hoạt của bệnh nhân
Đặc điểm về lối sống, thói quen sinh hoạt
của BN khảo sát được trình bày trong bảng 2.
Bảng 2: Đặc điểm lối sống, thói quen của BN
Đặc điểm

Không


Hút thuốc lá
Không
Không
Uống rượu
Thỉnh thoảng (< 3 lần/tuần)
bia
Thường xuyên ( 3 lần/tuần)
Không
Thỉnh
thoảng
(< 3 lần/tuần)
Cà phê
Thường xuyên ( 3 lần/tuần)
Không
Đồ uống có
Thỉnh thoảng (< 3 lần/tuần)
gas
Thường xuyên ( 3 lần/tuần)
Vận động
Rất ít (< 2 lần/tuần)
(tương Thỉnh thoảng (2 - 4 lần/tuần)
đương với
Thường xuyên (5 - 7
tập thể dục
lần/tuần)
30 phút/lần)

Thức khuya
Không
Căng thẳng


Tần số
(n=181)
108
73
19
162
129
41
11
122
33
26
130
44
7
76
42
63

Tỷ lệ
(%)
59,7
40,3
10,5
89,5
71,3
22,7
6,1
67,4

18,2
14,4
71,8
24,3
3,9
42,0
23,2
34,8

97
84

53,6
46,4

BN IBS có lo lắng, căng thẳng có tỷ lệ là
59,7%, chiếm hơn 1/2 tổng số mẫu khảo sát. Tỷ
lệ BN hút thuốc lá không cao chỉ 10,5% và tất
cả BN hút thuốc đều là nam giới. Đa số BN
khảo sát không uống rượu bia (71,3%), không
uống cà phê (67,4%), không dùng đồ uống có
gas (71,8%) và ít vận động (42,0%) (Bảng 2).
Khảo sát chất lượng sống của bệnh nhân IBS
Kết quả điểm CLS tổng cộng và ở từng
khía cạnh được trình bày trong bảng 3.
Bảng 3: Điểm chất lượng sống ở các khía cạnh
Khía cạnh
Sự khó chịu
Cản trở hoạt động
Hình thể

Lo lắng sức khỏe
Chế độ ăn kiêng
Phản ứng của xã hội
Tình dục
Mối quan hệ
Điểm tổng

230

Điểm CLS
71,93  15,63
70,56  18,54
90,30 12,19
70,73 

18,60

56,91  22,87
80,87  17,80
91,44  18,70
85,77  16,54
75,79  12,63

Điểm CLS tổng thể của BN trong nghiên
cứu là 75,79  2,63. Điểm CLS ở khía cạnh Chế
độ ăn kiêng là thấp nhất (56,91  22,87). Điểm
CLS thấp thứ hai là ở khía cạnh Cản trở hoạt
động (70,56  18,54). Điểm CLS ở khía cạnh
Hình thể và Tình dục là cao nhất (90,30  12,19
và 91,44  18,70).

Các yếu tố liên quan đến chất lượng sống của
bệnh nhân IBS
Kết quả phân tích hồi quy tuyến tính đa
biến xác định các yếu tố liên quan đến CLS
được trình bày trong bảng 4.
Bảng 4: Mối liên quan giữa điểm chất lượng sống
và các yếu tố liên quan
Yếu tố liên quan

Giá trị
CI 95%
Giá trị p
Beta
Giới tính
1,754 -2,686 – 6,193
0,437
Tuổi
-0,071 -0,263 – 0,120
0,464
Thời gian bệnh
-1,579 -4,056 – 0,862
0,202
Phân loại IBS
0,212 -1,961 – 2,385
0,848
Trình độ học vấn -0,100 -2,505 – 2,306
0,935
Tình trạng hôn nhân 3,050 -3,174 – 9,273
0,335
Căng thẳng

2,857 -0,996 - 6,711
0,145
Hút thuốc
-1,686 -9,065 – 5,694
0,653
Uống rượu
1,420 -2,508 – 5,347
0,476
Cà phê
0,771 -1,991 – 3,534
0,582
Đồ uống có gas
-4,488 -8,676 – (-0,301) 0,036
Vận động
-1,798 -3,995 – 0,400
0,108
Thức khuya
1,818 -2,228 – 5,864
0,376

Việc sử dụng đồ uống có gas làm giảm
CLS của những BN mắc (beta=-4,488, CI95%
(-8,676)-(-0,301), p=0,036) ngay cả khi đã kiểm
soát các yếu tố khác như giới tính, tuổi, thời
gian bệnh, căng thẳng,… trong phân tích đa
biến. Các yếu tố khác như giới tính, tuổi, thời
gian bệnh, loại IBS, trình độ học vấn, tình
trạng hôn nhân, căng thẳng, hút thuốc, uống
rượu, cà phê, vận động, thức khuya không
liên quan đến CLS của BN IBS.


BÀNLUẬN
Đặc điểm bệnh nhân
Nhiều nghiên cứu trên thế giới đều cho kết
quả tỷ lệ BN nữ mắc IBS cao hơn nam giới.
Nghiên cứu của chúng tôi cho kết quả tương
tự các nghiên cứu khác với tỷ lệ BN nữ là

Chuyên Đề Dược


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
56,9% nhiều hơn nam là 43,1%. Trong một
nghiên cứu của Võ TTK (2014)(16) tại bệnh viên
Nhân dân Gia Định, tỷ lệ nữ cũng nhiều hơn
nam (50,3% so với 49,7%). Nhiều giả thuyết
khác nhau được đề xuất để giải thích cho tỷ lệ
IBS cao hơn ở nữ. Park DW (2010)(14) giải thích
rằng ở nữ giới, sự tổng hợp serotonin trong
não và hormon nữ cao hơn ảnh hưởng đến
nhu động đường ruột, tăng khả năng mắc IBS.
BN có độ tuổi từ 18-50 tuổi có tỷ lệ mắc bệnh
cao hơn so với nhóm BN có độ tuổi trên 50
trong nghiên cứu của chúng tôi, tương tự
nghiên cứu của Jang SH (2017)(9), Agarwal N
(2011)(1), Liu L (2014)(11) do nhóm tuổi dưới 50
là nhóm tuổi lao động chính, có thể chịu nhiều
áp lực tâm lý nên có nguy cơ mắc IBS cao hơn.
BN mắc IBS thể tiêu chảy chiếm tỷ lệ cao nhất
là 50,8% so với IBS thể táo bón (24,2%) và IBS

thể vừa tiêu chảy vừa táo bón (25,0%) trong
nghiên cứu của Cho HS (2011)(3). IBS thể tiêu
chảy chiếm tỷ lệ cao hơn do triệu chứng bệnh
rõ ràng, không kiểm soát được vấn đề tiêu
chảy nên BN phải đi khám sớm. Tuy nhiên
trong một số nghiên cứu khác, các thể IBS
khác có thể chiếm ưu thế hơn so với IBS thể
tiêu chaỷ như IBS thể vừa tiêu chảy vừa táo
bón chiếm tỷ lệ cao nhất trong nghiên cứu của
Jang SH (2017)(9) (47,7%) và trong nghiên cứu
của Jamali R (2012)(7) (48%). Sự khác biệt này
có thể do quá trình lấy mẫu với các tiêu chí
chọn mẫu khác nhau giữa các nghiên cứu.
Lối sống, thói quen sinh hoạt của bệnh nhân
Lo lắng, căng thẳng thường gặp ở những
BN mắc IBS. Một số nghiên cứu trên thế giới
cho kết quả tương tự. Trong nghiên cứu của
Cho HS (2011)(3), điểm lo âu ở nhóm BN IBS
cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm khỏe
mạnh (6,8  4,5 so với 4,7  3,4, p < 0,05) và
điểm trầm cảm ở nhóm mắc IBS cũng cao hơn
có ý nghĩa thống kê so với nhóm khỏe mạnh
(7,1  4,4 so với 4,2  3,5, p < 0,05). Trong
nghiên cứu của Jang SH (2017)(9), điểm lo âu
GAD-7 và điểm trầm cảm PHQ-9 của BN IBS
cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm người

Chuyên Đề Dược

Nghiên cứu Y học


khỏe mạnh (5,72  4,45 so với 3,14  4,15,
p< 0,001 và 8,17  5,63 so với 4,65  5,17,
p<0,001). Một số thực phẩm sẽ làm tăng triệu
chứng khó chịu hay đau sau ăn, BN thường
than phiền sau khi ăn các thực phẩm có gas,
chất béo, caffein. Lối sống cũng là một yếu tố
ảnh hưởng đến tình trạng bệnh. Trong nghiên
cứu của chúng tôi, tỷ lệ BN hút thuốc lá không
cao, đa số BN không uống rượu bia, không
uống cà phê và không dùng đồ uống có gas.
Nguyên nhân có thể là do BN đã được bác sĩ
nhắc nhở về việc kiêng cữ những thực phẩm,
những chất kích thích làm trầm trọng hơn
triệu chứng bệnh.
Khảo sát chất lượng sống của bệnh nhân IBS
Điểm CLS của BN trong nghiên cứu của
chúng tôi (75,79  12,63) thấp hơn điểm CLS
trong nghiên cứu của Cho HS (2011)(3) khảo sát
CLS của BN Hàn Quốc (78,9  7,4) và nghiên
cứu của Liu L. (2014) (11) tiến hành trên các y
tá làm việc tại bệnh viện ở Trung Quốc
(77,18  21,93). Tuy nhiên, khảo sát của
chúng tôi lại cho kết quả điểm CLS cao hơn
nghiên cứu của Zhu L. (2015)(18) (71,68  18,54)
do nghiên cứu của Zhu L. chỉ đo lường CLS của
BN IBS-D trong khi đối tượng nghiên cứu của
chúng tôi là tất cả các BN mắc IBS. Những BN
IBS-D thường có triệu chứng trầm trọng, rõ
ràng và rất cấp bách nên thường có điểm CLS

thấp hơn.
Điểm CLS ở khía cạnh Chế độ ăn kiêng
là thấp nhất (56,91 22,87). Điểm CLS thấp
thứ hai là ở khía cạnh Cản trở hoạt động
(70,56  18,54). Nghiên cứu của Zhu L.
(2015)(18) tiến hành khảo sát trên 227 BN IBS-D,
sử dụng phiên bản tiếng Trung của bộ câu hỏi
IBS-QoL, cho kết quả là khía cạnh Chế độ ăn
kiêng có điểm CLS thấp nhất (53,71  26,92).
Điều này phù hợp với những thói quen, sinh
hoạt của BN. Ăn uống luôn là vấn đề chịu tác
động dễ thấy nhất đối với BN đặc biệt là BN
mắc IBS – bệnh lý đường tiêu hóa. Những BN
mắc IBS phải có chế độ ăn nghiêm ngặt, theo
dõi thức ăn hàng ngày để kiểm soát bệnh nếu

231


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019

không các triệu chứng bệnh sẽ trầm trọng hơn.
Các triệu chứng của IBS thường kéo dài, liên
tục, dễ tái phát ảnh hưởng hoạt động, công
việc của BN. Chính vì thế Cản trở hoạt động là
khía cạnh có điểm CLS thấp thứ hai. Điểm
CLS ở khía cạnh Hình thể và Tình dục là cao
nhất (90,30  12,19 và 91,44  18,70) có thể do

IBS thường chỉ gây ra triệu chứng đường tiêu
hóa còn vấn đề ăn mặc, đi lại ít bị ảnh hưởng.
Hai khía cạnh Hình thể và Tình dục cũng có
điểm cao nhất trong nghiên cứu Kang SH.
(2011)(10) (87,30  13,61 và 92,42  13,41), và
nghiên cứu của Zhu L. (2015)(18) (86,18  15,67
và 83,09  25,22). Nhưng điểm CLS ở 2 khía
cạnh này trong nghiên cứu của chúng tôi cao
hơn trong 2 nghiên cứu trên do khác nhau về
tỷ lệ giới tính. Trong nghiên cứu của chúng
tôi, tỷ lệ nữ cao hơn nam (43,1% nam giới)
trong khi các nghiên cứu kia tỷ lệ nam cao hơn
nữ (82% nam giới trong nghiên cứu của Kang
SH và 58,6% trong nghiên cứu của Zhu L).
Trong nghiên cứu Zhu L. trên các BN IBS thể
tiêu chảy có thời gian mắc bệnh trung bình dài
hơn nghiên cứu của chúng tôi (7,00  7,32 năm
so với 2,53  3,15 năm), các triệu chứng kéo
dài, lặp lại liên tục làm BN suy kiệt, mệt mỏi
do đó làm suy giảm CLS.
Các yếu tố liên quan đến chất lượng sống của
bệnh nhân IBS
Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối liên
quan giữa đồ uống có gas với CLS. Việc sử
dụng đồ uống có gas làm giảm CLS của những
BN mắc IBS. Khi sử dụng đồ uống có gas BN
sẽ xuất hiện những triệu chứng điển hình hay
không điển hình của IBS. Đồ uống có gas sẽ
tạo ra khí trong đường tiêu hóa, làm BN cảm
thấy khó tiêu, đầy hơi, ợ hơi, trào ngược dạ

dày, thực quản. Ngoài ra, chính lượng khí này
sẽ kích thích các thụ thể ở ruột làm tăng nhạy
cảm, tăng tính thẩm thấu qua hàng rào biểu
mô ruột, thay đổi vận động đường ruột(10). Do
đó BN sẽ cảm thấy đau, đi tiêu với cảm giác
khẩn cấp, không kiểm soát được. Ngoài ra
nước ngọt có gas còn chứa một lượng đường

232

và các chất hóa học khác nên càng làm trầm
trọng hơn triệu chứng bệnh. Các triệu
chứng xảy ra ồ ạt làm BN mệt mỏi, khó chịu,
ảnh hưởng đến sinh hoạt, cuộc sống hàng
ngày, CLS suy giảm trên nhiều khía cạnh
khác nhau. Chính vì vậy mà nhiều khuyến
cáo trên thế giới về chế độ ăn cho BN mắc
IBS đều khuyên rằng cần hạn chế thực phẩm
có gas, đồ uống có gas trong khẩu phần ăn
để cải thiện tình trạng bệnh(6,10).
Nghiên cứu của chúng tôi có một số hạn
chế. Kích thước cỡ mẫu khảo sát nhỏ và
chưa thực hiện được một số bộ câu hỏi khác
để đánh giá chính xác triệu chứng và tình
trạng bệnh của các BN.

KẾTLUẬN
Tóm lại, nghiên cứu này là nghiên cứu đầu
tiên đánh giá CLS của BN mắc IBS tại Việt
Nam. Việc sử dụng đồ uống có gas làm giảm

CLS của những BN. Các nghiên cứu sâu hơn
có thể kết hợp với các biện pháp tư vấn đặc
biệt trong việc hạn chế sử dụng đồ uống có
gas và nhắc nhở tuân thủ điều trị để cải thiện
CLS của BN.
Lời cảm ơn: Các tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến
Bệnh viên Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh cùng các
bác sĩ và cán bộ y tế tại phòng khám Tiêu hóa, Bệnh viên Đại
học Y dược thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện cho quá
trình lấy mẫu tại bệnh viện.

TÀILIỆUTHAMKHẢO
1.

2.

3.

4.

5.

Agarwal N, Spiegel B. M. (2011), "The effect of irritable
bowel syndrome on health-related quality of life and
health care expenditures", Gastroenterol Clin North Am,
40(1), pp. 11-19.
Cash BD, Chey WD (2003), "Advances in the management
of irritable bowel syndrome", Curr Gastroenterol Rep, 5(6),
pp. 468-475.
Cho HS, Park J, Lim CH, Cho YK, Lee IS, Kim SW, Choi

MG, Chung IS, Chung YK (2011), "Anxiety, depression and
quality of life in patients with irritable bowel syndrome",
Gut Liver, 5(1), pp. 29-36.
Grundmann O, Yoon SL (2010), "Irritable bowel syndrome:
epidemiology, diagnosis and treatment: an update for
health-care practitioners", J Gastroenterol Hepatol, 25(4), pp.
691-699.
Hattori T, Fukudo S (2006), "Effects of gender on irritable
bowel syndrome", Nihon Rinsho, 64(8), pp. 1549-1551.

Chuyên Đề Dược


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
6.

7.

8.

9.

10.

11.

12.

13.


“Irritable bowel syndrome in adults: diagnosis and
management", nice.org.uk, April, 2017. [Online]. Available:
[Accessed:
April 15, 2018].
Jamali R, Jamali A, Poorrahnama M, Omidi A, Jamali B,
Moslemi N, Ansari R, Dolatshahi S, Ebrahimi Daryani N
(2012), "Evaluation of health related quality of life in
irritable bowel syndrome patients", Health Qual Life
Outcomes, 10, pp. 12.
Jamali R, Raisi M, Matini M, Moravveji A, Omidi A, Amini
J (2015), "Health related quality of life in irritable bowel
syndrome patients, Kashan, Iran: A case control study",
Adv Biomed Res, 4, pp. 75.
Jang SH, Ryu HS, Choi SC, Lee S. (2017), "Psychological
Factors Influence the Irritable Bowel Syndrome and Their
Effect on Quality of Life among Firefighters in South
Korea", Psychiatry Investig, 14(4), pp. 434-440.
Kang SH, Choi SW, Lee SJ, Chung WS, Lee HR, Chung KY,
Lee ES, Moon HS, Kim SH, Sung JK, Lee BS, Jeong HY
(2011), "The effects of lifestyle modification on symptoms
and quality of life in patients with irritable bowel
syndrome: a prospective observational study", Gut Liver,
5(4), pp. 472-477.
Liu L, Xiao Q, Zhang Y, Yao S (2014), "A cross-sectional
study of irritable bowel syndrome in nurses in China:
prevalence and associated psychological and lifestyle
factors", J Zhejiang Univ Sci B, 15(6), pp. 590-597.
Monnikes H. (2011), "Quality of life in patients with
irritable bowel syndrome", J Clin Gastroenterol, 45, pp. 98101.
Nguyễn NP, Đoàn PNT, Bùi THQ, Võ DT (2018), "Thẩm

định bộ câu hỏi Irritable Bowel Syndrome Quality of Life

Chuyên Đề Dược

14.

15.

16.

17.

18.

Nghiên cứu Y học

Questionaire (IBS - QoL) phiên bản tiếng Việt", Y học Thành
phố Hồ Chí Minh.
Park DW, Lee OY, Shim SG, Jun DW, Lee KN, Kim HY,
Lee HL, Yoon BC, Choi HS. (2010), "The Differences in
Prevalence and Sociodemographic Characteristics of
Irritable Bowel Syndrome According to Rome II and Rome
III", J Neurogastroenterol Motil, 16(2), pp. 186-193.
Patrick DL, Drossman DA, Frederick IO, DiCesare J, Puder
KL (1998), "Quality of life in persons with irritable bowel
syndrome: development and validation of a new measure",
Dig Dis Sci, 43(2), pp. 400-411.
Võ TTK. (2014), "Khảo sát tỷ lệ, các yếu tố nguy cơ và việc
điều trị hội chứng ruột kích thích", Vietnam Journal of
Medicine and Pharmacy

Wang YT, Lim HY, Tai D, Krishnamoorthy TL, Tan T,
Barbier S, Thumboo J (2012), "The impact of Irritable Bowel
Syndrome on health-related quality of life: a Singapore
perspective", BMC Gastroenterol, 12, pp. 104.
Zhu L, Huang D, Shi L, Liang L, Xu T, Chang M, Chen W,
Wu D, Zhang F, Fang X (2015), "Intestinal symptoms and
psychological factors jointly affect quality of life of patients
with irritable bowel syndrome with diarrhea", Health Qual
Life Outcomes, 13, pp. 49.

Ngày nhận bài báo:

18/10/2018

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

01/11/2018

Ngày bài báo được đăng:

15/03/2019

233



×