Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Đề cương Khóa luận tốt nghiệp: Kiến thức, thái độ về các biện pháp phòng ngừa nhiễm khuẩn bệnh viện của sinh viên tại Đại học Y Dược Hải Phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (727.11 KB, 61 trang )

  BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 

                      B Ộ Y T Ế

TRƯỜ NG ĐẠI HỌC Y DƯỢ C HẢI PHÒNG

­­­­­­­­­­­***­­­­­­­­­­­

KIẾN THỨC THÁI ĐỘ VỀ PHÒNG NGỪA NHIỄM 
KHUẨN BỆNH VIỆN CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG 
ĐẠI HỌC Y DƯỢC HẢI PHÒNG NĂM 2015

ĐỀ CƯƠNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP 

HẢI PHÒNG – 2018


   BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 

                      BỘ Y TẾ

  TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HẢI PHÒNG

­­­­­­­­­­­***­­­­­­­­­­­

KIẾN THỨC THÁI ĐỘ VỀ PHÒNG NGỪA NHIỄM 
KHUẨN BỆNH VIỆN CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG 
ĐẠI HỌC Y DƯỢC HẢI PHÒNG NĂM 2015
ĐỀ CƯƠNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên nghành: Bác sĩ Y học Dự Phòng
Mã số đào tạo:



Thầy hướng dẫn khoa học:

HẢI PHÒNG –  2018


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BSĐK         : Bác sỹ đa khoa
CDC 

: Centers for Disease Control and Prevention  

  

Trung tâm kiểm soát và ngăn ngừa bệnh tật Hoa Kì.
CNĐD

: Cử nhân điều dưỡng

KSNK

: Kiểm soát nhiễm khuẩn

KT

: Kiến thức

NB

: Người bệnh


NKBV

: Nhiễm khuẩn bệnh viện

NVYT

: Nhân viên y tế

PHCN         : Phòng hộ cá nhân
PNC

: Phòng ngừa chuẩn



: Thái độ

WHO          : Tổ chức y tế thế giới.


MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC BIỂU ĐỒ

DANH MỤC HÌNH



6

ĐẶT VẤN ĐỀ

 Nhiễm khuẩn bệnh viện là hậu quả  không mong muốn trong thực  
hành khám bệnh, chữa bệnh. Nhi ễm khuẩn b ệnh vi ện góp phần làm gia 
tăng tỷ  lệ  mắc bệnh, tăng sử  dụng thuốc kháng sinh, kéo dài ngày nằm 
viện cho người bệnh, gia tăng chi phí điều trị và tăng tỷ lệ tử vong.  Kiến 
thức về  phòng ngừa chuẩn là một phần cơ  bản trong kiến thức về  kiểm  
soát nhiễm khuẩn. Thực hiện các biện pháp của phòng ngừa chuẩn đóng 
góp quan trọng vào việc giảm tỷ lệ mắc nhiễm khu ẩn bệnh viện. T ừ đó  
hạn chế  sự  lây truyền bệnh cho nhân viên y tế  và ngườ i bệnh cũng như 
từ  người bệnh sang môi trường, đảm bảo an toàn ngườ i bệnh, góp phần 
làm tăng chất lượng khám bệnh, chữa bệnh của bệnh vi ện [1], [2].
 Những cơ sở  khám chữa bệnh không tuân thủ  đầy đủ  quy trình đảm 
bảo vô khuẩn trong chăm sóc và điều trị, những nơi chưa có kiến thức và 
thái độ đúng về phòng ngừa chuẩn có nguy cơ mắc nhiễm trùng bệnh viện  
cao hơn các cơ sở khác. Do vậy kiến thức và thái độ về phòng ngừa chuẩn 
có vai trò quan trọng đối với thực hành phòng ngừa chuẩn cho nhân viên y 
tế. Tại mỗi thời điểm, mỗi quốc gia khác nhau có các giải pháp thực hiện 
phòng ngừa chuẩn khác nhau tùy thuộc vào đặc điểm các bệnh nhiễm trùng 
nhưng đều dựa trên hướng dẫn của trung tâm ngăn ngừa và kiểm soát bệnh  
tật Hoa Kì về phòng ngừa chuẩn công bố năm 2007.
 Sinh viên y khoa là những nhân viên y tế  tương lai, chịu trách nhiệm 
trong chăm sóc và điều trị  cho người bệnh. Trong ch ương trình học, bên 
cạnh học lý thuyết tại  trường sinh viên còn học lâm sàng và trực tại 
bệnh viện với tính chất công việc tương tự như các ngành học. Sinh viên 
cũng là người trực tiếp thực hiện các thủ thuật chăm sóc, thăm khám trên 



7

người bệnh do đó cũng đóng góp một phần lớn vào việc giảm thiểu các  
rủi ro liên quan đến các hậu quả do nhiễm khu ẩn bệnh vi ện [ 3  ].
   Sinh viên có nguy cơ  cao tiếp xúc với máu và dịch tiết do thời gian  
tiếp xúc lâm sàng của sinh viên chưa nhiều so với nhân viên y tế, các kỹ 
năng thăm khám hay kỹ  năng thực hiện các thủ  thuật chăm sóc trên người 
bệnh chưa thuần thục như  những nhân viên y tế  [ 4]. Ngoài ra, sinh viên 
trước khi học tại viện cần phải được cung cấp đầy đủ  các kiến thức về 
phòng ngừa chuẩn là một điều kiện cần thiết cho sự tuân thủ các thủ thuật  
đảm bảo vô khuẩn. Tuy nhiên phần lớn sinh viên thực tập tại lâm sàng 
đều chưa hoàn thiện đầy đủ  các kĩ năng lâm sàng, chưa hiểu rõ về  hệ 
thống   quản   lí   bệnh   viện   và   liên   tục   phải   thay   đổi   môi   trườ ng   thực 
tập[5].
Do vậy nghiên cứu “Kiến thức, thái độ về các biện pháp phòng ngừa 
nhiễm khuẩn bệnh viện của sinh viên tại Đại học Y Dược Hải Phòng” 
được tiến hành với hai mục tiêu sau:
1.

Mô tả  kiến thức, thái độ  về  phòng ngừa nhiễm khuẩn bệnh viện  
của sinh viên trường Đại học Y Hải Phòng

2.

Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ về phòng ngừa  
nhiễm khuẩn bệnh viện


8


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1.

THỰC TRẠNG NHIỄM KHUẨN BỆNH VIỆN
Nhiễm khuẩn bệnh viện hay còn gọi là nhiễm khuẩn liên quan tới  

chăm sóc y tế  (Healthcare Associated Infection ­ HAI) là các nhiễm khuẩn 
xảy ra trong quá trình người bệnh được chăm sóc, điều trị tại cơ  sở  khám 
bệnh, chữa bệnh mà không hiện diện hoặc  ủ  bệnh khi nhập viện. Nhìn 
chung, các nhiễm khuẩn xảy ra sau nhập viện 48 giờ (2 ngày) thường được 
coi là NKBV.
Tỷ  lệ  nhiễm khuẩn bệnh viện  ở  các nước phát triển khác nhau dao 
động trong khoảng 3,5% – 12%. Trung tâm phòng ngừa và Kiểm soát bệnh 
dịch châu Âu (ECDC) báo cáo tỷ lệ  hiện nhiễm  ở các nước châu Âu trung  
bình là 7,1%. Số liệu về nhiễm khuẩn bệnh viện tại các quốc gia chậm và 
đang phát triển thường không đầy đủ và không có sẵn. Tuy nhiên, phân tích 
gần đây của Tổ  chức Y tế  thế  giới (WHO) cho thấy các ca nhiễm khuẩn 
bệnh viện  ở các nước đang phát triển thường xảy ra với tần suất cao hơn  
do hạn chế  nguồn lực so với các nước phát triển. Tổn thất tài chính hằng 
năm do nhiễm khuẩn bệnh viện cũng rất lớn, ước tính khoảng 7 tỷ Euro ở 
châu Âu, khoảng 6,5 tỷ USD ở Mỹ. 
Hiện nay, tại Việt Nam tỷ lệ NKBV chung  ở NB nhập viện từ 5%­
10% tùy theo đặc điểm và quy mô bệnh viện. Những bệnh viện tiếp nhận  
càng nhiều NB nặng, thực hiện càng nhiều thủ  thuật xâm lấn (TTXL) thì 


9


nguy cơ  mắc NKBV càng cao. Tỷ  lệ  NKBV có thể  lên tới 20%­30%  ở 
những khu vực có nguy cơ cao như Hồi sức tích cực, sơ sinh, ngoại khoa…  
Các loại NKBV thường gặp là viêm phổi bệnh viện (bao gồm viêm phổi 
thở   máy),   nhiễm   khuẩn   huyết,   nhiễm   khuẩn   vết   mổ   (NKVM),   nhiễm  
khuẩn tiết niệu (NKTN). NKBV thường biểu hiện chủ yếu dưới dạng dịch 
lưu hành (endemic rate), là tỷ lệ thường xuyên xuất hiện NKBV trong một  
quần thể xác định. Có khoảng 5%­10% NKBV biểu hiện ở dạng dịch hoặc  
bùng phát dịch (epidemic)[7].
Nhiễm khuẩn bệnh viện làm tăng thời gian viện, tăng chi phí điều trị,  
tăng tỷ lệ mắc bệnh và đặc biệt làm tăng tỷ lệ tử vong. Nhiễm khuẩn bệnh 
viện sẽ  tăng  ở  các cơ  sở  khám bệnh, chữa bệnh không tuân thủ  nghiêm 
ngặt các quy tình vô khuẩn trong chăm sóc người bệnh và ở những nơi kiến 
thức và thái độ về KSNK còn hạn chế [6].

1.2.

KHÁI NIỆM VỀ PHÒNG NGỪA CHUẨN

1.2.1. Phòng ngừa chuẩn và vai trò của phòng ngừa chuẩn tới kiểm soát  
nhiễm khuẩn.
Năm   1970,   trung   tâm   kiểm   soát   và   phòng   ngừa   bệnh   tật   Hoa   Kì 
(CDC) đưa ra khái niệm về cách ly phòng ngừa lần đầu tiên với 7 phương  
pháp cách ly theo mã màu khác nhau bao gồm: phòng ngừa tuyệt đối, phòng 
ngừa bảo vệ, phòng ngừa lây truyền qua hô hấp, đường ruột, vết thương,  
chất thải và máu. Năm 1985 CDC ban hành hướng dẫn phòng ngừa mới gọi  
là phòng ngừa phổ  cập (Universal Precautions) nhằm đối phó với đại dịch 
HIV/AIDS. Trong đó, máu được xem như  là nguồn lây truyền quan trọng 
nhất và dự  phòng những phơi nhiễm qua đường máu là cần thiết. Năm 
1995,   khái   niệm   phòng   ngừa   phổ   cập   được   chuyển   thành   phòng   ngừa 



10

chuẩn (Standard Precautions) là tổng hợp của hai biện pháp phòng ngừa 
phổ cập và cách ly với chất tiết của cơ thể [7].
  Theo hướng dẫn về  PNC của Bộ  Y tế, PNC là tập hợp các biện  
pháp phòng ngừa cơ  bản áp dụng cho tất cả  NB trong các cơ  sở  khám 
bệnh, chữa bệnh, dựa trên nguyên tắc coi tất cả máu, chất bài tiết (trừ mồ 
hôi) đều có nguy cơ lây truyền bệnh [1].
Nhằm hướng dẫn thực hành PNC cho NVYT, các tổ chức y tế uy tín 
như WHO và CDC đã tiến hành nghiên cứu và đề xuất các biện pháp rất cụ 
thể. Tuy nhiên khi xem xét các khuyến cáo này có thể   thấy, bên cạnh các 
giải pháp tương đối thống nhất, thì cũng có những giải pháp thể hiện quan 
điểm của từng tổ chức.
Với các bằng chứng rõ ràng và có độ tin cậy cao về tác dụng của vệ 
sinh bàn tay, cả WHO và CDC đều cho rằng, NVYT cần phải tuân thủ tốt 
các thời điểm vệ sinh bàn tay và vệ sinh ho và hô hấp. Bên cạnh đó, mỗi cơ 
sở y tế và nhân viên cũng cần phải chuẩn bị, cung cấp và thực hiện các yêu 
cầu trong cung cấp dụng cụ  và đồ  vải đạt tiêu chuẩn. Nhận thấy vai trò  
quan trọng của môi trường chăm sóc, khuyến cáo về vệ sinh và khử khuẩn  
môi trường cũng được hai tổ chức này coi là một biện pháp quan trọng [8],  
[9].
Với các bằng chứng về  việc lây lan nhiễm khuẩn do chưa tuân thủ 
việc tự  bảo vệ  hoặc không có đủ  trang thiết bị  tự  bảo vệ, WHO khuyến 
cáo rằng các NVYT cần phải sử dụng khẩu trang, kính bảo hộ, găng tay và  
áo choàng thích hợp. Tương tự, CDC đã tóm gọn các giải pháp trên trong  
một khuyến cáo chung là cần phải có các phương tiện phòng hộ  cá nhân 
yêu cầu của mỗi lần tiếp xúc với các nguy cơ lây nhiễm. Nhận thấy vai trò 
quan trọng trong việc bảo vệ NVYT khỏi các tác nhân phơi nhiễm, khuyễn  



11

cáo về tiêm an toàn và phòng ngừa tổn thương do vật sắc nhọn cũng được 
hai tổ chức này khuyến khích thực hiện [8], [9].
Về  các biện pháp bổ  sung, WHO cho rằng việc quản lý chất thải y  
tế cũng là một biện pháp PNC, mức độ lây nhiễm sẽ giảm đi nhiều khi các 
cơ sở y tế và nhân viên chủ động phân loại, thu gom, lưu trữ và xử lý chất  
thải y tế đúng. Trong khi đó, CDC lại nhận thấy rằng việc sắp xếp người  
bệnh hợp lý sẽ giúp làm giảm nguy cơ lây nhiễm và khuyến cáo rằng sắp  
xếp người bệnh cần phải được coi là một biện pháp PNC. Bên cạnh đó, tổ 
chức này cũng cho rằng việc thực hành theo đúng các quy định về  KSNK 
đối với các thủ  thuật, đặc biệt là thủ  thuật xâm lấn không chỉ  làm giảm  
nguy cơ NKBV mà còn giúp phòng ngừa các lây nhiễm cho NVYT [8], [9].
Việc áp dụng các khuyến cáo về  PNC của WHO và CDC tại mỗi 
quốc gia tùy thuộc vào đặc điểm y tế của quốc gia đó. Năm 2013, trung tâm  
kiểm soát nhiễm trùng tại Saudi, Ả rập đã ban hành các giải pháp thực hiện 
PNC dựa trên các khuyến cáo của WHO và CDC. Tổ chức này cũng đồng 
thuận với WHO, CDC về  tầm quan trọng của các biện pháp vệ  sinh bàn  
tay, vệ  sinh khi ho và hô hấp trong việc bảo vệ  NVYT, NB khỏi các tác  
nhân lây nhiễm. Các biện pháp về  xử  lí dụng cụ  chăm sóc, xử  lí đồ  vải 
bẩn, các biện pháp vệ  sinh môi trường chăm sóc, sắp xếp người bệnh, 
quản lí và xử  lí chất thải, cũng được tổ  chức này khuyến khích thực hiện  
nhằm giảm tỷ  lệ  NKBV. Bên cạnh đó, tổ  chức này đã bổ  sung thêm giải 
pháp về quản lí mẫu xét nghiệm do nhận thấy hiệu quả của giải pháp này  
trong hạn chế  sự  lây nhiễm các tác nhân gây bệnh và giảm tỷ  lệ  nhiễm 
khuẩn [10].
Tại Việt Nam, các giải pháp thực hiện PNC được xây dựng trên sự 
thống nhất với WHO, CDC về các nội dung: vệ sinh bàn tay; vệ sinh khi ho 



12

và hô hấp; làm sạch và khử khuẩn môi trường; khử khuẩn/tiệt khuẩn dụng  
cụ; xử  lí đồ  vải; sử  dụng phương tiện phòng hộ  cá nhân; tiêm an toàn và 
phòng ngừa tổn thương do vật sắc nhọn. Bộ Y tế cũng đồng nhất với quan 
điểm của WHO về tầm quan trọng của các biện pháp xử  lí chất thải y tế 
nhằm hạn chế  tác nhân lây truyền bệnh, quan điểm của CDC về  vai trò 
của biện pháp sắp xếp người bệnh hợp lí nhằm hạn chế  sự  lây truyền 
chéo giữa NB, tạo điều kiện quản lí NB dễ  dàng hơn. Tháng 9/2012 Cục 
quản lí khám, chữa bệnh, Bộ Y tế đã ban hành hướng dẫn về phòng ngừa 
chuẩn trong các cơ sở khám, chữa bệnh với 9 nội dung như trên [1].
Thực hiện PNC giúp phòng ngừa và kiểm soát lây nhiễm với máu,  
chất tiết, chất bài tiết (trừ mồ hôi) ngay cả khi không nhìn thấy có sự phơi 
nhiễm với máu và dịch tiết qua da, niêm mạc. PNC được coi là nền tảng  
cho việc phòng ngừa nhiễm khuẩn bệnh viện được sử dụng trong chăm sóc 
sức khỏe cho NB [8].
Việc tuân thủ các biện pháp của PNC đóng vai trò:
 Ngăn ngừa sự  lây nhiễm trong bệnh viện từ đó giảm tỷ  lệ  tử 

vong, giảm thời gian nằm viện, rút ngắn chi phí điều trị  cho  
NB
 Là một nội dung chủ yếu trong chương trình KSNK bệnh viện.

 Thực hiện các biện pháp PNC nhằm mục đích hạn chế sự lây truyền  
cho NVYT và NB cũng như từ NB sang môi trường nhằm bảo đảm an toàn 
và nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh.
1.2.2. Thực trạng của thực hiện PNC
Nghiên cứu của Nguyễn Việt Hùng và Lê Bá Nguyên năm 2008 tại  

các bệnh viện khu vực phía Bắc chỉ ra rằng tỷ lệ tuân thủ  đúng thực hành 


13

PNC ở NVYT chưa cao, chỉ có ít hơn 20% số nhân viên y tế được quan sát 
thực hành tốt các yêu cầu về PNC khi thực hành nghề nghiệp [11]. 
Tỷ lệ tuân thủ rửa tay theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Hà và 
cộng sự năm 2012 tại bệnh viên Nhi Đồng 1 là 62% tổng số cơ hội quan sát 
được, đối tượng tuân thủ  rửa tay cao nhất là kỹ  thuật viên với tỷ  lệ  trên  
70%, bác sỹ  và sinh viên là đối tượng tuân thủ  vệ  sinh tay kém nhất, chỉ 
chiếm 41%­43% tổng số bác sỹ và sinh viên tham gia nghiên cứu. [12]. 
Nghiên cứu của Lê Thị  Anh Thư  năm 2010 tại bệnh viên Chợ  Rẫy  
cho thấy, từ  tháng 2/2000­ tháng 6/2009, tổng số  NVYT bị  tai nạn nghề 
nghiệp do phơi nhiễm với các tác nhân đường máu trong khi thao tác là 327 
trường hợp, trong  đó phơi nhiễm trên bệnh nhân HIV dương tính là 65 
trường hợp. Điều dưỡng là đối tượng thường  gặp nhất các tai nạn nghề 
nghiệp với 116 trường hợp chiếm 35.5%, tiếp đó là đối tượng học viên/sinh 
viên với 48 trường hợp chiếm14.7% [13]. Do còn nhiều hạn chế trong việc 
thực hiện các thủ thuật thăm khám và các thủ thuật chăm sóc vậy nên sinh 
viên là đối tượng có nguy cơ  cao phơi nhiễm với các tác nhân gây bệnh 
[14].
Theo nghiên cứu của Huson Amin Ghalya và Youssreya Ibrahim chỉ ra 
rằng có sự  thiếu kiến thức và tuân thủ  về  thực hành PNC của NVYT và 
sinh viên y [15]. Trong khi đó sự tuân thủ thực hành PNC lại có vai trò đáng  
kể trong việc giảm tỷ lệ NKBV [1].
1.3. KIẾN THỨC, THAI  ĐỘ  VỀ  PNC CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ  VÀ 
SINH VIÊN Y KHOA
NKBV là mối quan tâm chung của ngành y tế  tại mọi quốc gia trên 
thế  giới. Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, công tác KSNK luôn  

phải đối mặt với nhiều trở ngại như ngân sách đầu tư hạn chế, tình trạng 


14

quá tải bệnh viện, thiếu thốn cơ sở vật chất, phần lớn NVYT và các nhà  
quản lý chưa nhận thức được đầy đủ tầm quan trọng của công tác này [10].  
Nguyên nhân gây nhiễm khuẩn bệnh viện có nhiều, tuy nhiên một trong 
những nguyên nhân quan trọng là kiến thức, thái độ  của NVYT về  kiểm  
soát NKBV chưa tốt dẫn đến việc chấp hành các quy định/quy trình KSNK 
gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là các nội dung về PNC [11].
NKBV xuất hiện nhiều  ở những cơ sở không tuân thủ  nghiêm ngặt 
quy tắc vô khuẩn trong chăm sóc và điều trị  người bệnh, ngoài ra nguồn 
lực dành cho đào tạo KSNK còn thiếu. PNC là nội dung quan trọng trong  
chương trình KSNK. Để  làm thay đổi hành vi của một cá nhân cần phải  
cung cấp cho các đối tượng các kiến thức đúng, thay đổi thái độ  của đối 
tượng, từ đó tác động tới hành vi của đối tượng. Việc cung cấp kiến thức  
cho NVYT và sinh viên y khoa về PNC là cần thiết để làm giảm NKBV và 
giảm thiểu các rủi ro không mong muốn cho NVYT và sinh viên. 
Tại Việt Nam, theo một số nghiên cứu cho thấy kiến thức về KSNK cơ 
bản còn thấp, trong 100 NVYT được phỏng vấn ở 10 bệnh viện đại diện khu 
vực phía Bắc, không có NVYT nào hiểu đầy đủ về PNC [16]. Tuy nhiên chưa 
có nghiên cứu nào tại Việt Nam mô tả kiến thức và thái độ của sinh viên y về 
PNC.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Việt Hùng và Lê Bá Nguyên năm 2008, 
đánh giá kiến về vệ sinh tay thường quy của NVYT tại một số bệnh viện  
khu vực phía Bắc năm 2005 cho thấy tỉ lệ nhân viên trả lời đúng tất cả các 
câu hỏi liên quan đến vệ sinh tay chỉ chiếm 43.5% [11]. 
Theo tác giả Lê Thị Anh Thư, từ sau khi triển khai huấn luyện và các  
biện pháp phòng hộ, số lượng NVYT (bao gồm cả học viên/sinh viên) bị tai 

nạn nghề nghiệp đã giảm xuống một cách đáng kể [13]. 


15

Tại Trung Quốc, do thiếu các kiến thức căn bản về PNC nên 90 nhân 
viên trong tổng số  149 người được phỏng vấn bày tỏ  sự  lo ngại khi chăm 
sóc người bệnh nhiễm HIV/AIDS [17]. Bên cạnh việc cung cấp đầy đủ 
phương tiện để  thực hiện PNC, việc cung cấp kiến thức về PNC là thực 
sự  cần thiết, nghiên cứu của tác giả  Askarian cho thấy 90% sinh viên y 
khoa  ở Shiraz đã không nhận được giáo dục về  PNC, 75% số người được 
hỏi muốn học nhiều hơn về các biện pháp PNC [18].
Giáo dục về vấn đề KSNK không chỉ nên tập trung vào NVYT, mà nên 
bao gồm cả sinh viên. Sinh viên cần phải được đào tạo về PNC trước khi đến 
bệnh viện là một trong những điều kiện cần thiết cho sự thực hành các quy 
trình vô khuẩn [19]. Trong các nghiên cứu về thực trạng thực hành rửa tay của 
sinh viên cho kết quả kém, sinh viên hiếm khi rửa tay khi thăm khám NB [20]. 
Sinh viên là đối tượng dễ  có nguy cơ  bị  phơi nhiễm với các tác nhân 
gây truyền bệnh qua đường máu do chưa thuần thục trong thực hiện các thủ 
thuật vô khuẩn, sinh viên điều dưỡng và sinh viên đa khoa chiếm 15% tổng số 
phơi nhiễm liên quan đến vật sắc nhọn [22]. Kiến thức của sinh viên còn thấp 
trong các nội dung về  vệ  sinh tay, phòng hộ  cá nhân, tiêm an toàn và xử  trí 
phơi nhiễm với vật sắc nhọn theo nghiên cứu của tác giả Tarek Tawfik Amin 
[5]. 
Việc cung cấp đầy đủ  kiến thức về  PNC đóng vai trò quan trọng  
trong việc thực hành PNC của sinh viên. Nghiên cứu của Elliott SK và cộng 
sự nhằm so sánh kết quả trước và sau khi cung cấp các kiến thức về phòng 
ngừa tai nạn do kim đâm và xử lí tai nạn cho sinh viên đã cho thấy có sự cải 
thiện đáng kể  về  kiến thức của sinh viên so với các nghiên cứu trước đó 
[19]. Sinh viên là đối tượng chưa được nhận đầy đủ  tất cả  các kiến thức  



16

liên quan đến chuyên môn so với NVYT, do đó sinh viên dễ gặp các rủi ro 
trong chăm sóc hơn so với NVYT.
  Sinh viên trước khi ra trường nên được cung cấp đầy đủ  các kiến 
thức về PNC để bảo vệ  bản thân đồng thời chăm sóc, điều trị  cho NB tốt 
hơn [23], nghiên cứu của  Koenig S  và  Chu J  năm 1993 chỉ  ra rằng nhiều 
sinh viên trước khi tốt nghiệp vẫn chưa có đầy đủ kiến thức về PNC [24].
Nghiên cứu của Verena G. Herbert và cộng sự tiến hành giữa các sinh 
viên đa khoa tại Australia cho thấy chỉ có 49% số sinh viên được phỏng vấn  
tuân thủ rửa tay, 70% số người được hỏi có kiến thức đúng về rửa tay [25]. 
Nghiên cứu cũng chỉ  ra rằng việc nâng cao nhận thức về  rửa tay của sinh  
viên trong giáo dục đại học có thể  tác động tới hành vi của sinh viên ra  
trường và làm giảm NKBV. 
1.4. CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VỀ PNC
1.4.1. Các đặc điểm của đối tượng.
1.4.1.1. Số năm học, số năm đào tạo
Thời gian học là các yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức và thái độ  về 
PNC. Các sinh viên năm cuối thường có nhận thức tốt hơn về  PNC, bên 
cạnh đó do có thời gian học lâm sàng nhiều hơn, các sinh viên có thể được  
chứng kiến các trường hợp bị phơi nhiễm với vật sắc nhọn nhiều hơn do  
đó có sự  cảnh giác cao hơn. Nghiên cứu của Huson Amin Ghalya và Prof. 
Youssreya Ibrahim chỉ ra rằng có sự liên quan giữa số năm được đào tạo và 
kiến thức về  PNC, các sinh viên năm cuối có kiến thức tốt hơn về  PNC  
[15], [26], [27].
1.4.1.2 Ngành học
Có sự  liên quan giữa ngành học tới việc tuân thủ  thực hiện PNC.  
Nghành học thường xuyên tiếp xúc với máu và dịch tiết của NB, có kiến 



17

thức và thái độ  tốt hơn về  PNC so với các nghành khác. Theo nghiên cứu  
của tác giả  Rajinder Kaur và cộng sự  (2007) điểm các phần kiến thức và 
thái độ  của sinh viên điều dưỡng là cao hơn so với các ngành kĩ thuật y 
học, bác sỹ đa khoa [28]. Nghiên cứu của Kim và cộng sự năm 2000 chỉ ra  
rằng kiến thức của sinh viên điều dưỡng cao hơn sinh viên đa khoa [29].  
Sinh viên điều dưỡng là đối tượng tiếp xúc với bệnh nhân nhiều hơn do  
thực hiện các công việc như  các điều dưỡng thực hiện, hơn nữa trong 
chương trình đào tạo sinh viên điều dưỡng được giảng dạy về  PNC trong  
một môn học riêng, được cung cấp các kiến thức về bảo vệ cá nhân trước  
khi học lâm sàng. Các sinh viên được đào tạo về PNC có kiến thức và thực  
hành tốt hơn sinh viên không được nhận đào tạo [29].
Hệ BSĐK được đào tạo 6 năm, trong thời gian học tại bệnh viên sinh 
viên học các kĩ năng thăm khám, hỏi bệnh; ngoài ra còn phụ giúp các bác sỹ 
thực hiên các thủ thuật trên NB. Tại bệnh viện, sinh viên điều dưỡng học 
các kĩ năng thăm khám và hỏi bệnh, ngoài ra còn thực hành các thủ  thuật 
chăm sóc như: tiêm truyền, lấy máu xét nghiệm, phụ giúp NVYT trong vận 
chuyển người bệnh, phân loại rác thải, vệ sinh khoa phòng.
Thời gian đào tạo của sinh viên CNĐD là 4 năm, đối với hệ BSĐK là 
6 năm, sinh viên BSĐK có thời gian tiếp xúc lâm sàng muộn hơn so với đối 
tượng CNĐD. Thời gian tiếp xúc lâm sàng của sinh viên đa khoa là từ đầu 
năm thứ 3. Đối với sinh viên CNĐD là từ kì 2 năm thứ  2. Ngoài ra có một  
số  sinh viên đã đi trực và tự  học lâm sàng ngày từ  năm thứ  nhất với các  
công việc như  những điều dưỡng, khi mà sinh viên chưa được cung cấp 
bất kì kiến thức nào liên quan đến lâm sàng, chủ yếu là các môn cơ sở.



18

1.4.2. Nội dung KSNK trong chương trình đào tạo
Nghiên cứu của Ginny Kaushal cho thấy, NVYT được đào tạo về 
PNC có kiến thức, thái độ  và thực hành tốt hơn nhóm chưa được đào tạo 
về  PNC. Cụ  thể, kiến thức của nhóm được đào tạo về  PNC là cao hơn  
nhóm không được đào tạo về PNC với tỷ lệ lần lượt là 85% và 75%, nhóm 
được đào tạo về PNC có tỷ lệ tuân thủ thực hành cao hơn so với nhóm còn  
lại lần lượt là 95% và 86% [30].
Giáo dục về  PNC là một trong những yếu tố   ảnh hướng đến kiến  
thức, thái  độ  và thực hành về  PNC của sinh viên, theo nghiên cứu của 
Marie­Pierre Tavolacci, đánh giá kiến thức, thái độ  của sinh viên sau khi 
giảng dạy về chương trình PNC tại Pháp[31]
Việc đào tạo về  PNC cho sinh viên y tại trường Đại học Y Hà Nội 
đã được tiến hành từ  năm 2014 do khoa Điều dưỡng phụ  trách. Chương 
trình giảng dạy môn KSNK của khoa Điều dưỡng bắt đầu từ kì 2 năm thứ 
2 dành cho đối tượng CNĐD trước khi học lâm sàng. Các nội dung về 
KSNK bao hàm các nội dung của PNC. Trong quá trình học các sinh viên sẽ 
được học kết hợp cả lí thuyết và thực hành trên phòng lab và tại bệnh viện  
để sinh viên áp dụng được những kiến thức lí thuyết trên thực tế. Ngoài ra  
trong quá trình giảng dạy, các giảng viên sẽ  cung cấp các câu hỏi tình 
huống cho sinh viên trả  lời và thảo luận để  sinh viên ghi nhớ  và áp dụng  
các kiến thức ngay trên những tình huống mô phỏng.
Ngoài ra, một số kiến thức của PNC cũng được cung cấp cho tất cả 
sinh viên trong các môn cơ sở như các nội dung về:
 Vệ sinh bàn tay. 


19


 Thực hiện tiêm an toàn và phòng ngừa tổn thương do vật sắc  

nhọn, phòng ngừa cá nhân.
 Về xử lí dụng cụ y tế. 


20

CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1.

ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU

2.1.1. Tiêu chuẩn chọn vào
   Sinh viên thuộc các chương trình đào tạo của Trường Đại học Y  
Hải Phòng, từ năm thứ 2 tới năm thứ 4. Trong đó, sinh viên CNĐD từ năm 
thứ 2 tới năm thứ 4, sinh viên BSĐK từ năm thứ 3 tới năm thứ 5.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
Các sinh viên đủ  các tiêu chuẩn trên nhưng không đồng ý tham gia  
nghiên cứu.
2.1.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu  tiến hành  tại trường  Đại  học Y  Hải Phòng  từ   tháng 
9/2018 đến tháng 12 /2018.

2.2.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


2.3.1. Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt ngang
2.3.2. Chọn mẫu:  Theo phương pháp ngẫu nhiên: dựa trên số  lượng sinh 
viên của các khối từ năm thứ 2 đến năm thứ 5 của hệ BSĐK và hệ CNĐD.
2.3.3. Phương pháp và công cụ thu thập thông tin


21

Hình 2.1. Quá trình xây dựng và hoàn thiện bộ câu hỏi.
2.3.

NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Bộ câu hỏi nghiên cứu bao gồm 2 phần :
Thông tin cơ bản của đối tượng 
Các nội dung về phòng ngừa chuẩn

Phương pháp thu  Công cụ thu thập
thập
Thông tin cơ bản của đối tượng
­ Tỷ   lệ  ­     Phỏng   vấn  ­ Bộ câu hỏi 
Giới
nam, 
(Tự   điền   vào 
Năm thứ mấy
nữ
phiếu câu hỏi )
Hình thức đào tạo
Đã   được   đào   tạo 
trước đây về PNC
Đã   nhận   được   tài 

liệu về PNC
Nội dung về PNC
Kiến   thức   về   vệ  ­   Tỷ   lệ   trả   ­ Phỏng vấn (Tự  ­ Bộ câu hỏi
lời đúng
điền   vào   phiếu 
sinh tay
câu hỏi )
Kiến   thức   về   vệ 
sinh tay
Kiến  thức về  tiêm 
an   toàn   và   phòng 
ngừa   tổn   thương 
do vật sắc nhọn
Kiến   thức   về   vệ 
sinh   khi   ho   và   hô 
hấp
Kiến   thức   về   sắp 
xếp   người   bệnh 
thích hợp
Tên biến

Chỉ số


22

Kiến thức về  xử  lí 
dụng cụ y tế
Kiến thức về  xử  lí 
đồ vải

Kiến   thức   về   bảo 
vệ môi trường
Kiến thức về quản 
lí chất thải
Thái   độ   của   sinh 
viên   về   chương 
trình đào tạo PNC
Bảng 2.1: Nội dung nghiên cứu
2.4.

PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ SỐ LIỆU
Nhập liệu bằng Epidata
Nhập và xử lý số liệu bằng phần mềm thống kê Y học SPSS 20.0.
Các thuật toán được sử  dụng trong nghiên cứu: Tần suất, kiểm định 
khi bình phương, so sánh sự khác biệt giữa các nhóm

1.2.1. Sai số

Do thu thập số liệu 
Sai sót trong quá trình nhập liệu, xử lý số liệu
1.2.2. Khống chế sai số

Làm sạch số liệu trước khi phân tích
Nhập số liệu vào máy 2 lần để  tránh sai sót, phát hiện và giải 
quyết nhanh chóng, chính xác.
2.5.

ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU
Kết quả nghiên cứu chỉ nhằm phục vụ sinh viên. 
Mọi thông tin cá nhân của sinh viên luôn được đảm bảo bí 

mật.


23

Đề  tài được sự  đồng ý của phòng đào tạo và khoa Y tế  Công 
Cộng đại học trường Đại học Y Dược Hải Phòng
Người tham gia nghiên cứu có quyền dừng tham gia bất cứ khi  
nào trong quá trình  nghiên cứu.




24

CHƯƠNG 3
DỰ KIẾN KẾT QUẢ
3.1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
Bảng 3.1.Thông tin chung của đối tượng
BSĐK

TỔNG

CNĐD

Các thông tin chung

Số 
lượng
(n)


Tỷ 
lệ
(%)

Số 
lượng
(n)

Nam
Giới
Nữ
Năm 
thứ 2
Năm 
thứ

Năm 
thứ 3
Năm 
thứ 4
Năm 
thứ 5
SV được nhận tài liệu về PNC

SV được đào tào về PNC
Nhận xét:.

Tỷ 
lệ

(%)

Số 
lượng
(n)

Tỷ 
lệ
(%)


25

3.2. Kiến thức về phòng ngừa chuẩn
3.2.1. Kiến thức về vệ sinh tay

Bảng 3.2.  Kiến thức về mục đích của rửa tay
Trả lời đúng
Mã câu hỏi

Nội dung

Số lượng  
(n)

1.1.

Rửa tay giảm thiểu các vi sinh vật gây hại 
có trên tay bẩn (Đ).


1.2

Rửa tay làm giảm tỷ lệ mắc các nhiễm trùng 
liên quan đến chăm sóc sức khỏe (Đ).

Tỷ  
lệ  
(%)

Nhận xét
Bảng 3.3. Kiến thức về các kỹ thuật rửa tay
Trả lời đúng
Mã câu hỏi

Nội dung

1.3

Rửa tay thường quy bao gồm rửa cả  bàn tay  
và cổ tay (Đ).

1.9

Trong rửa tay thường quy, thời gian tối thiểu 
là từ 40­ 60 giây (Đ).

Số lượng
(n)

Tỷ  

lệ  
(%)


×