Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Đặc điểm lâm sàng và yếu tố thúc đẩy vào đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính nhập viện thường xuyên ở nhóm nguy cơ cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (310.69 KB, 8 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018

ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ YẾU TỐ THÚC ĐẨY VÀO ĐỢT CẤP
BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH NHẬP VIỆN THƯỜNG XUYÊN
Ở NHÓM NGUY CƠ CAO
Trần Văn Ngọc*, Mã Vĩnh Đạt**

TÓM TẮT
Mở đầu: Một số đặc điểm lâm sàng và yếu tố nguy cơ của đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
(BPTNMT) đã được công bố trong các công trình nghiên cứu ở trong và ngoài nước. Tại Việt Nam, các yếu tố
thúc đẩy này chưa được nghiên cứu đầy đủ ở nhóm nguy cơ cao.
Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm lâm sàng và yếu tố thúc đẩy vào đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính nhập
viện thường xuyên ở bệnh nhân nhóm nguy cơ cao tại khoa Nội Hô Hấp Bệnh viện Chợ Rẫy.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả, phân tích 144 bệnh nhân BPTNMT
nhóm nguy cơ cao nhập viện tại khoa Nội hô hấp bệnh viện Chợ Rẫy trong thời gian từ tháng 01/2017 đến tháng
04/2017. Từ đó phân tích đa biến để tìm ra yếu tố thúc đẩy vào đợt cấp nhập viện thường xuyên ở nhóm bệnh
nhân này.
Kết quả: Trong 144 bệnh nhân tham gia nghiên cứu, có 90,3% nam giới, tuổi trung bình 72,59± 11,38 tuổi,
bệnh nhân còn đang hút thuốc lá chiếm 22,9%, đã ngừng hút thuốc lá chiếm 68,8%. Bệnh nhân thuộc phân nhóm
C chiếm 43,1%, nhóm D chiếm 56,9%. Bệnh nhân có thời gian phát hiện BPTNMT > 5 năm chiếm 36,1%. Bệnh
nhân có ít nhất 1 bệnh đồng mắc chiếm 60,4%, bệnh đồng mắc đi kèm phổ biến nhất là bệnh tim mạch. Về triệu
chứng lâm sàng: ho và khó thở gặp ở 100% bệnh nhân, ran rít, ran ngáy 88,9%, khạc đờm 82,6%, đờm mủ
75,7%, ran ẩm, nổ 68,1% và co kéo cơ hô hấp phụ 67,4%. Đợt cấp nặng chiếm 74,3%, trung bình chiếm 25,7%,
không có đợt cấp nhẹ. Bệnh nhân không tuân thủ điều trị thuốc chiếm 27,1%. Bệnh nhân sử dụng dụng cụ hít
không đúng kỹ thuật chiếm tỉ lệ 34,7%. Phân tích đơn biến cho thấy BMI < 18,5 kg/m2, thời gian phát hiện bệnh
> 5 năm, còn hút thuốc lá, không tuân thủ điều trị thuốc, không tái khám định kỳ, không sinh hoạt câu lạc bộ
BPTNMT và sử dụng dụng cụ hít không đúng kỹ thuật liên quan có ý nghĩa thống kê với nhập viện thường
xuyên do đợt cấp. Phân tích hồi qui đa biến cho thấy thời gian phát hiện bệnh > 5 năm (OR = 2,63), không tuân
thủ điều trị thuốc (OR = 3,42) và sử dụng dụng cụ hít không đúng kỹ thuật (OR = 3,94) liên quan độc lập và gia


tăng tỉ lệ nhập viện thường xuyên do đợt cấp ở bệnh nhân BPTNMT nhóm nguy cơ cao.
Kết luận: Những bệnh nhân vào đợt cấp BPTNMT thuộc nhóm nguy cơ cao đa phần là những bệnh nhân
lớn tuổi, bị bệnh lâu năm, nhiều bệnh đồng mắc, ý thức tuân thủ điều trị chưa tốt, còn gặp nhiều sai sót trong việc
sử dụng thuốc điều trị ngoại trú, thiếu điều kiện tái khám cũng như tiếp cận các hoạt động giáo dục sức khỏe
thường xuyên. Thời gian phát hiện bệnh > 5 năm, không tuân thủ điều trị thuốc, và sử dụng dụng cụ hít không
đúng kỹ thuật có liên quan độc lập đến việc gia tăng tỉ lệ nhập viện thường xuyên do đợt cấp ở bệnh nhân
BPTNMT nhóm nguy cơ cao.
Từ khóa: yếu tố thúc đẩy, đợt cấp, nhập viện, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, nhóm nguy cơ cao.



Bộ môn Nội Tổng Quát, Trường Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh.
Bệnh viện Đa khoa Thành phố Cần Thơ.
Tác giả liên lạc: PGS TS. Trần Văn Ngọc ĐT: 0903742939 Email:



186

Chuyên Đề Nội Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018

Nghiên cứu Y học

ABSTRACT
CLINCAL CHARACTERISTICS AND RISK FACTORS ASSOCIATED WITH FREQUENT
HOSPITALIZATION FOR ACUTE EXACERBATIONS OF CHRONIC OBSTRUCTIVE PULMONARY
DISEASE IN HIGH RISK PATIENTS

Tran Van Ngoc, Ma Vinh Dat * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 2- 2018: 186 - 193
Background: Many researches have described characteristics and pointed out risk factors relating to frequent
hospitalization in chronic obstructive pulmonary disease (COPD) patients with acute exacerbation yet the results
are poorly understood in high risk patients.
Objectives: To describe clinical characteristics and identify the risk factors associated with frequent
hospitalization for acute exacerbation of COPD in high risk patients in Respiratory Department of Cho Ray
Hospital.
Method: An observational study was conducted in the clinical practice setting over a 4 month-period
(January 2017 to April 2017) in Respiratory Department of Cho Ray Hospital. A total of 144 high risk
COPD patients were recruited. Multivariable regression analyses identified factors associated with
readmission for acute exacerbation.
Results: Among 144 patients, 90,3% were males, mean age was 72.59± 11.38 years. Of the patients, 22.9%
were current smokers, 68.8% were former smokers; 43.1% were group C, 56.9% were group D; 36.1% were
patients with duration > 5 years; 60.4% suffered from comorbidities, mainly cardiovascular diseases. Coughing
and dyspnea presented in 100% of the patients, while 88.9% had wheezing, 82.6% had sputum, 75.7% had
purulent sputum, 68.1% had crackles, 67.4% used accessory muscles of respiration. 74.3% of the acute
exacerbations were severe, 25.7% were moderate, none was mild. 27.1% of the patients did not adhere to
medication. 34.7% of the patients did not perform the correct technique for inhalers. Univariate analysis showed
that BMI < 18,5 kg/m2, duration >5 years, currently smokers, non-adherence to medication, not accessing follow
up activities, not attending COPD clubs and using inhalers incorrectly were significantly associated with
frequent hospitalization. Multivariable regression analyses revealed that non-adherence to medication (OR =
3.42), using the inhalers incorrectly (OR = 3.94) and duration > 5 years (OR = 2.63) were independently
associated with the increase in frequent hospitalization rates for acute exacerbations in high risk patients.
Conclusions: COPD high risk patients were often old, had been diagnosed with COPD for a long time,
suffered from many comorbidities, did not adhere to medication, used the inhalers incorrectly as well as did
not get access to follow-up activities. Non-adherence to medication, using the inhalers incorrectly and
duration > 5 years were independently associated with increase in frequent hospitalization rates for acute
exacerbations in high risk patients.
Keyword: risk factors, acute exacerbation, hospitalization, chronic obstructive pulmonary disease, high
risk patients.

trong cộng đồng dân cư Việt Nam từ 40 tuổi
ĐẶT VẤN ĐỀ
trở lên chiếm 4,2%; trong đó nam giới là 7,1%
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT)
và nữ giới là 1,9%(4).
là một trong những vấn đề y tế thời sự được
Trong diễn biến tự nhiên của BPTNMT có
quan tâm hàng đầu ở tất cả các nước trên thế
đợt kịch phát hay còn gọi là đợt cấp. Nguyên
giới cũng như tại Việt Nam nói riêng. Báo cáo
nhân thường gặp nhất của đợt cấp là nhiễm
dựa trên nghiên cứu dịch tễ học BPTNMT trên
trùng cây khí phế quản nhưng bên cạnh đó cần
toàn quốc 2006 – 2007 cho thấy tỉ lệ mắc chung

Chuyên Đề Nội Khoa

187


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018

phải có nhiều yếu tố nguy cơ tham gia mới dễ
dàng đẩy bệnh nhân vào đợt cấp và làm tăng
nguy cơ nhập viện(6). Trong những bệnh nhân
BPTNMT, bệnh nhân thuộc nhóm nguy cơ cao
có tần suất đợt cấp cao hơn, tốc độ suy giảm
chức năng phổi nhanh hơn, suy giảm sức khỏe

toàn thân nhanh hơn và tỉ lệ tử vong cao hơn.
Một số yếu tố nguy cơ của đợt cấp BPTNMT
đã được công bố, tuy nhiên kết quả của những
nghiên cứu này chưa mang tính thống nhất cao
và toàn diện, đặc biệt là trên nhóm bệnh nhân
nguy cơ cao. Xuất phát từ thực tế nêu trên,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Đặc điểm lâm
sàng và yếu tố thúc đẩy vào đợt cấp bệnh phổi
tắc nghẽn mạn tính nhập viện thường xuyên ở
nhóm nguy cơ cao”.

ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU
Nghiên cứu cắt ngang mô tả, phân tích.
Đối tượng nghiên cứu
Các bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn
tính >40 tuổi thuộc nhóm C, D theo GOLD 2016
vào đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính nhập
viện tại Khoa Hô Hấp bệnh viện Chợ Rẫy từ
tháng 1 năm 2017 đến tháng 4 năm 2017.
Các bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu được
chia làm 2 nhóm: nhóm nhập viện thường xuyên
(có ≥ 2 đợt cấp nhập viện trong năm qua), nhóm
nhập viện không thường xuyên (có 1 đợt cấp
nhập viện trong năm qua).

Tiêu chuẩn chọn mẫu
- Chẩn đoán BPTNMT theo GOLD 2016 ít
nhất 1 năm.
- Thuộc nhóm BPTNMT nguy cơ cao, tức
nhóm C và D theo GOLD 2016 (thỏa 1 trong 3

tiêu chí: FEV1 < 50% giá trị dự đoán; có ≥ 2 đợt
cấp trong một năm, có ≥ 1 đợt cấp nhập viện
trong năm qua).
- Chẩn đoán đợt cấp BPTNMT theo GOLD
2016 dựa vào biểu hiện lâm sàng của bệnh nhân.
Tiêu chuẩn loại trừ
- Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên

188

cứu.
- Chẩn đoán hen phế quản, suy tim sung
huyết, lao phổi tiến triển.
- Thay đổi chẩn đoán trong quá trình nằm
viện.
- Bệnh nhân không thu thập được thông tin
cần thiết theo mẫu số liệu.

KẾT QUẢ
Đặc điểm lâm sàng
- Tuổi nhập viện trung bình của bệnh nhân là
72,59±11,38 tuổi.
- Nam giới chiếm tỉ lệ cao 90,3%. Tỉ lệ
nam:nữ là 9,3:1.
- Tỉ lệ bệnh nhân hút thuốc lá 91,7%, 22,9%
bệnh nhân còn đang hút thuốc lá, số gói-năm
trung bình cao 38,76±11,34.
- 60,4% bệnh nhân có ít nhất một bệnh đồng
mắc, trong đó bệnh lý tim mạch là bệnh đồng
mắc thường gặp nhất, tiếp theo là đái tháo

đường típ 2.
- Ho và khó thở là các triệu chứng hiện diện
ở tất cả bệnh nhân.
- Đợt cấp nặng chiếm 74,3%, đợt cấp trung
bình chiếm 25,7%, không có đợt cấp nhẹ.
Các yếu tố thúc đẩy vào đợt cấp BPTNMT
nhập viện thường xuyên ở nhóm nguy cơ cao
Phân tích đơn biến cho thấy BMI < 18,5
kg/m2, thời gian phát hiện bệnh > 5 năm, còn hút
thuốc lá, không tuân thủ điều trị thuốc, không tái
khám định kỳ, không sinh hoạt câu lạc bộ
BPTNMT và sử dụng dụng cụ hít không đúng
kỹ thuật liên quan có ý nghĩa thống kê với nhập
viện thường xuyên do đợt cấp.
Chúng tôi đưa 7 yếu tố này vào mô hình
hồi quy đa biến thì có 3 yếu tố: thời gian phát
hiện bệnh > 5 năm (OR = 2,63), không tuân thủ
điều trị thuốc (OR = 3,42) và sử dụng dụng cụ

Chuyên Đề Nội Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
hít không đúng kỹ thuật (OR = 3,94) liên quan
độc lập và gia tăng tỉ lệ nhập viện thường

Nghiên cứu Y học

xuyên do đợt cấp ở bệnh nhân BPTNMT nhóm
nguy cơ cao.


Bảng 1. Mối liên quan giữa các yếu tố thúc đẩy vào đợt cấp BPTNMT nhập viện thường xuyên ở nhóm
nguy cơ cao qua phân tích đơn biến
Yếu tố

Nhập viện thường Nhập viện không
xuyên n(%)
thường xuyên n(%)
Tổng
90 (100)
54 (100)
<60
7 (7,8)
11 (20,4)
60-75
43 (48,7)
25 (46,3)
>75
40 (44,4)
18 (33,3)
Nam
78 (86,7)
52 (96,3)
Nữ
12 (13,3)
2 (3,7)
< 18,5
58 (64,4)
19 (35,2)
≥ 18,5

32 (35,6)
35 (64,8)
≤5
51 (56,7)
41 (75,9)
>5
39 (43,3)
13 (24,1)
0
35 (38,9)
25 (46,3)
1
37 (41,1)
23 (42,6)
≥2
18 (20,0)
6 (11,1)
Đang hút
27 (30)
6 (11,1)
Đã ngừng hút và không hút
63 (70)
48 (88,9)
Không
34 (37,8)
5 (9,3)

56 (62,2)
49 (90,7)
Không

27 (28,5)
4 (7,4)

63 (71,5)
50 (92,6)

Tuổi

Giới tính
2
)

BMI (kg/m

Thời gian phát hiện
BPTNMT (năm)
Số bệnh đồng mắc

Hút thuốc lá
Tuân thủ điều trị
thuốc
Tái khám định kỳ
Sinh hoạt câu lạc bộ
BPTNMT

Không

Đúng kỹ thuật
Không đúng
kỹ thuật


Sử dụng dụng cụ hít

OR (KTC 95%)

p
--0,063
0,022
-0,059
0,001
--0,02
-0,709
0,153
0,009
-< 0,001
-0,001
--

<0,001

89 (98,9)
1 (1,1)
46 (51,1)

46 (85,2)
8 (14,8)
48 (88,9)

-1
2,7 (0,93 – 7,86)

3,5 (1,16 – 10,48)
1
4,0 (0,86–18,61)
3,34 (1,65–6,76)
1
1
2,41(1,14 – 5,11)
1
1,15 (0,55–2,39)
2,14(0,75-6,17)
3,43 (1,31–8,96)
1
5,95 (2,16–16,40)
1
5,36 (1,76–16,31)
1
15,48
(1,88-127,55)
1
1

44 (48,9)

6 (11,1)

7,65 (2,98–19,67)

0,001
--


Bảng 2. Mối liên quan giữa các yếu tố thúc đẩy vào đợt cấp BPTNMT nhập viện thường xuyên ở nhóm nguy cơ
cao qua phân tích đa biến
STT

Yếu tố

OR (KTC 95%)

p

1

BMI < 18,5 kg/m

2,06 (0,87-4,88)

0,099

2

Thời gian phát hiện bệnh > 5 năm

2,63 (1,08-6,42)

0,033

2

3


Còn hút thuốc lá

1,78 (0,58-5,41)

0,308

4

Không tuân thủ điều trị thuốc

3,43 (1,12-10,46)

0,030

5

Không tái khám định kỳ

3,40 (0,96-12,03)

0,057

6

Không sinh hoạt câu lạc bộ BPTNMT

9,38 (0,83-105,81)

0,070


7

Dùng dụng cụ hít không đúng kỹ thuật

3,94 (1,36-11,42)

0,011

BÀN LUẬN
Đặc điểm lâm sàng
Theo nghiên cứu của chúng tôi, tuổi trung
bình của bệnh nhân BPTNMT nhóm nguy cơ cao
là 72,59 ± 11,38 tuổi, có đến 87,5% bệnh nhân có
độ tuổi ≥ 60. Từ đó có thể thấy độ tuổi của các

Chuyên Đề Nội Khoa

đối tượng trong nghiên cứu này khá cao. Kết quả
nghiên cứu này phù hợp với các nghiên cứu
trong và ngoài nước khác(10,11). Theo y văn,
BPTNMT là một bệnh mạn tính khởi phát âm
thầm khi bệnh nhân còn trẻ, đến khi bệnh nhân
lớn tuổi thì các triệu chứng lâm sàng mới bắt đầu
biểu hiện rõ rệt kèm theo các đợt kịch phát xảy

189


Nghiên cứu Y học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018

ra thường xuyên. Ngoài ra, nguy cơ mắc
BPTNMT sẽ tăng lên gấp đôi sau mỗi 10 năm
tuổi đời ở bất kỳ đối tượng nào(18).
Nam giới chiếm hầu hết trong dân số nghiên
cứu với tỉ lệ cao 90,3%, nữ giới chỉ chiếm tỉ lệ
9,7%. Tỉ lệ nam mắc BPTNMT cao hơn nữ đã
được ghi nhận trong hầu hết các nghiên cứu trên
thế giới và Việt Nam(10,15). Điều này được giải
thích bằng một số nguyên nhân: nam hút thuốc
lá nhiều hơn nữ, nam thường tiếp xúc với các
yếu tố nguy cơ bụi nghề nghiệp nhiều hơn nữ.
Hút thuốc lá chủ động là yếu tố nguy cơ
chính của BPTNMT. Tỉ lệ hút thuốc lá ở Việt
Nam rất cao, ở thời điểm năm 2010 có 23,8%
những người Việt Nam tuổi từ 15 trở lên (bao
gồm 47,4% nam giới và 1,4% nữ giới) đang hút
thuốc(12). Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ
bệnh nhân hút thuốc lá rất cao, chiếm 91,7% số
bệnh nhân nhập viện, trong đó 22,9% bệnh
nhân nhập viện vẫn còn đang hút thuốc lá. Số
gói-năm trung bình của dân số nghiên cứu là
38,76 ± 11,34.
Có 60,4% bệnh nhân của chúng tôi có ≥ 1
bệnh đồng mắc. Tỉ lệ này khá cao do đối tượng
bệnh nhân chúng tôi nghiên cứu chủ yếu là
những bệnh nhân lớn tuổi và tình trạng
BPTNMT nặng nên nguy cơ mắc các bệnh đồng
mắc cao hơn. Bệnh đồng mắc đi kèm phổ biến

nhất là bệnh tim mạch chiếm tỉ lệ 50,7%. Theo y
văn, bệnh tim mạch là bệnh đồng mắc chính và
có thể là bệnh thường gặp nhất và quan trọng
nhất với BPTNMT(5).

ran ẩm, nổ 68,1% và co kéo cơ hô hấp phụ với tỉ
lệ lần lượt là 67,4%, các triệu chứng khác có tỉ lệ
thấp hơn như sốt, lồng ngực hình thùng. Theo y
văn, đây là những triệu chứng chính hiện diện ở
bệnh nhân vào đợt cấp BPTNMT. Đối tượng
nghiên cứu của chúng tôi là những bệnh nhân
vào đợt cấp với mức độ từ vừa đến nặng, nhập
viện do đó các triệu chứng ho, khó thở và khạc
đờm gần như hiện diện ở tất cả bệnh nhân. Các
nghiên cứu khác cũng cho kết quả ho, khó thở và
khạc đờm là triệu chứng chiếm tỉ lệ cao nhất ở
đợt cấp BPTNMT(2,16).
Bệnh nhân thuộc phân loại đợt cấp nặng
chiếm 74,3%, trung bình chiếm 25,7%, không có
đợt cấp nhẹ. Tác giả Anthonisen phân loại độ
nặng đợt cấp BPTNMT dựa trên sự hiện diện
của các triệu chứng lâm sàng mà 3 tiêu chuẩn
chính là tăng khó thở, tăng ho khạc đờm và tăng
đờm mủ(1), các tiêu chuẩn này chiếm tỉ lệ cao ở
nhóm bệnh nhân nghiên cứu như đã trình bày ở
trên (khó thở 100%, khạc đờm 82,6%, đờm mủ
75,7%). Bên cạnh đó, nghiên cứu của chúng tôi
không có đợt cấp nhẹ nhập viện do nghiên cứu
được tiến hành tại bệnh viện Chợ Rẫy, nơi tiếp
nhận 70% bệnh nhân đợt cấp BPTNMT nặng từ

tuyến dưới chuyển đến, tình trạng quá tải
thường xuyên dẫn đến tiêu chuẩn nhập viện khá
gắt gao.
Các yếu tố thúc đẩy vào đợt cấp BPTNMT nhập
viện thường xuyên ở nhóm nguy cơ cao

Trong số 144 bệnh nhân, bệnh nhân thuộc
phân nhóm C chiếm 43,1%, nhóm D chiếm
56,9%. Số đợt cấp nhập viện trung bình 12
tháng qua của mẫu nghiên cứu là 1,9 ± 0,87
thay đổi từ 1 đến 5 đợt cấp. Kết quả chúng tôi
tương đồng với kết quả của tác giả trong và
ngoài nước khác(2,19).

Suy dinh dưỡng có liên quan đến sự suy
giảm sức mạnh và sức bền của cơ hô hấp, làm
gia tăng sự giới hạn đường thở của bệnh nhân
BPTNMT. Theo nghiên cứu của chúng tôi, bệnh
nhân với BMI < 18,5 kg/m2 có nguy cơ nhập viện
thường xuyên cao hơn 3,34 lần so với bệnh nhân
với BMI ≥ 18,5 kg/m2, điều này có ý nghĩa thống
kê với p = 0,001, tương đồng với một số nghiên
cứu trong và ngoài nước khác(10,16).

Theo nghiên cứu của chúng tôi, ho và khó
thở là triệu chứng gặp ở 100% bệnh nhân, các
triệu chứng chiếm tỉ lệ cao tiếp theo là ran rít, ran
ngáy 88,9%, khạc đờm 82,6%, đờm mủ 75,7%,

Theo y văn, BPTNMT là bệnh lý tiến triển,

nặng dần theo thời gian. Các đợt cấp ban đầu
thưa, về sau càng lúc càng gần hơn. Từ đó có thể
thấy, nguy cơ nhập viện vì đợt cấp tăng tỉ lệ

190

Chuyên Đề Nội Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
thuận với thời gian phát hiện bệnh BPTNMT.
Theo nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ thời gian
phát hiện bệnh giữa hai nhóm nhập viện thường
xuyên và không thường xuyên khác nhau có ý
nghĩa thống kê với p = 0,02, bệnh nhân với thời
gian phát hiện bệnh > 5 năm có nguy cơ nhập
viện cao hơn 2,41 lần so với bệnh nhân có thời
gian phát hiện bệnh ≤ 5 năm. Kết quả nghiên cứu
này cũng tương tự như kết quả nghiên cứu của
một số tác giả khác(3,10,15).
Hút thuốc lá chủ động là yếu tố nguy cơ
chính của BPTNMT. Theo y văn, khi ngưng hút
thuốc lá, chức năng hô hấp của bệnh nhân sẽ hồi
phục một phần, đặc biệt khi đó tốc độ giảm chức
năng hô hấp hàng năm sẽ giảm về gần giới hạn
tốc độ giảm của người không hút thuốc lá. Trong
các biện pháp ngăn ngừa tình trạng tiến triển của
bệnh thì cai thuốc lá là can thiệp hiệu quả nhất,
kinh tế nhất. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi
cho thấy nhóm đang hút thuốc lá có nguy cơ

nhập viện thường xuyên cao hơn 4,5 lần so với
nhóm không hút thuốc lá, cao hơn 3,3 lần so với
nhóm đã từng hút thuốc lá, có ý nghĩa thống kê
với p lần lượt là 0,033 và 0,012. Kết quả này phù
hợp với một số nghiên cứu trước đây(7,8).
Tuân thủ điều trị trong BPTNMT đã được
chứng minh là tối ưu hóa hiệu quả điều trị, giảm
chi phí điều trị đồng thời nâng cao chất lượng
sống cho bệnh nhân và việc bỏ thuốc điều trị
duy trì BPTNMT là một trong những nguyên
nhân dẫn đến đợt cấp. Tuy nhiên so với các bệnh
mạn tính khác, tuân thủ trong điều trị BPTNMT
thấp hơn đáng kể(9,15). Theo nghiên cứu của
chúng tôi, tỉ lệ bệnh nhân không tuân thủ điều
trị thuốc trong dân số mẫu chiếm 27,1%, và bệnh
nhân không tuân thủ điều trị thuốc có nguy cơ
nhập viện cao hơn 5,95 so với bệnh nhân tuân
thủ điều trị thuốc, sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê với p = 0,001.
Việc tái khám thường xuyên theo hẹn là
cần thiết ở bất kỳ giai đoạn nào của BPTNMT
cũng như bệnh mạn tính khác. Thông qua việc
tái khám bệnh nhân được theo dõi, đánh giá
lại tình trạng bệnh tại thời điểm tái khám từ

Chuyên Đề Nội Khoa

Nghiên cứu Y học

đó giúp điều chỉnh trị liệu phù hợp hơn, phát

hiện ra các biểu hiện nguy cơ diễn tiến nặng
để can thiệp kịp thời. Với một bệnh mạn tính
điều trị bằng nhiều loại thuốc và dụng cụ hít
phức tạp như BPTNMT, việc tái khám cũng
giúp người thầy thuốc kiểm tra, duy trì việc
tuân thủ điều trị của bệnh nhân và hướng dẫn
các kỹ thuật sử dụng thuốc đúng cho bệnh
nhân. Theo nghiên cứu của chúng tôi, bệnh
nhân không tái khám định kỳ theo hẹn có
nguy cơ nhập viện thường xuyên cao hơn 5,36
lần so với bệnh nhân có tái khám định kỳ theo
hẹn, có ý nghĩa thống kê với p=0,001.
Câu lạc bộ BPTNMT được thành lập ở các
bệnh viện, trung bình sinh hoạt một lần mỗi
tháng với những chủ đề gần gũi, thiết thực liên
quan đến BPTNMT. Đây là cơ hội để những
bệnh nhân BPTNMT, người thân của bệnh nhân
và những người quan tâm đến bệnh trực tiếp
gặp gỡ và trao đổi với nhau, cũng như trao đổi
các bác sĩ chuyên khoa hô hấp về những chủ đề
liên quan đến việc phòng ngừa, theo dõi cũng
như điều trị bệnh ngoài thời gian tiếp xúc còn
tương đối ngắn ở bệnh viện. Nghiên cứu của
chúng tôi cho thấy bệnh nhân không sinh hoạt
câu lạc bộ BPTNMT có nguy cơ nhập viện
thường xuyên cao hơn 15,48 lần so với bệnh
nhân có sinh hoạt câu lạc bộ BPTNMT. Có nhiều
lí do bệnh nhân không tham gia sinh hoạt câu lạc
bộ BPTNMT: không biết có câu lạc bộ BPTNMT,
điều kiện kinh tế, đi lại khó khăn, phụ thuộc vào

người thân, bệnh nặng. Bên cạnh đó, câu lạc bộ
BPTNMT chưa được tổ chức đồng bộ và thường
xuyên ở các tỉnh trong khi có đến 89,6% bệnh
nhân trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi cư
ngụ ở tỉnh.
Trong phác đồ điều trị BPTNMT ở giai đoạn
ổn định, các thuốc dạng hít đóng vai trò quan
trọng vì hiệu quả cao và ít tác dụng toàn thân.
Mỗi thuốc dạng hít đều có kỹ thuật sử dụng
riêng qua nhiều bước, do đó bệnh nhân cần phải
sử dụng đúng kỹ thuật để đạt hiệu quả tối đa.
Tuy nhiên sai sót trong việc sử dụng dụng cụ hít
ở bệnh nhân BPTNMT hiện nay rất phổ

191


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018

biến(13,14,17). Nghiên cứu của chúng tôi cho kết quả
34,7% bệnh nhân sử dụng dụng cụ hít không
đúng kỹ thuật. Bệnh nhân sử dụng MDI thường
sai kỹ thuật ở các bước như quên lắc hộp thuốc
trước khi ấn xịt, phối hợp ấn hộp thuốc và hít
vào thật sâu chưa tốt, không nín thở tối đa sau
khi hít thuốc. Bệnh nhân sử dụng DPI thường sai
ở các bước thở ra hết sức trước khi hít, hít không
đủ sâu và không nín thở tối đa sau khi hít thuốc.

Cũng theo nghiên cứu của chúng tôi bệnh nhân
sử dụng dụng cụ hít không đúng kỹ thuật có
nguy cơ nhập viện cao gấp 7,65 lần so với nhóm
sử dụng dụng cụ hít đúng kỹ thuật.
Phân tích đơn biến cho thấy có 7 yếu tố: BMI
< 18,5 kg/m2, thời gian phát hiện bệnh > 5 năm,
còn hút thuốc lá, không tuân thủ điều trị thuốc,
không tái khám định kỳ, không sinh hoạt câu lạc
bộ BPTNMT và sử dụng dụng cụ hít không
đúng kỹ thuật liên quan có ý nghĩa thống kê với
nhập viện thường xuyên do đợt cấp. Chúng tôi
đưa 7 yếu tố này vào mô hình hồi quy đa biến
thì có 3 yếu tố: thời gian phát hiện bệnh > 5 năm,
không tuân thủ điều trị thuốc và sử dụng dụng
cụ hít không đúng kỹ thuật liên quan độc lập và
gia tăng tỉ lệ nhập viện thường xuyên do đợt cấp
ở bệnh nhân BPTNMT nhóm nguy cơ cao.

KẾT LUẬN
Từ kết quả nghiên cứu chúng tôi nhận
thấy những bệnh nhân vào đợt cấp BPTNMT
thuộc nhóm nguy cơ cao đa phần là những
bệnh nhân lớn tuổi, tỉ lệ bệnh đồng mắc và
suy dinh dưỡng cao, ý thức tuân thủ điều trị
chưa tốt, còn gặp nhiều sai sót trong việc sử
dụng thuốc điều trị ngoại trú, thiếu điều kiện
tái khám cũng như tiếp cận các hoạt động giáo
dục sức khỏe thường xuyên. Thời gian phát
hiện bệnh > 5 năm, không tuân thủ điều trị
thuốc, và sử dụng dụng cụ hít không đúng kỹ

thuật có liên quan độc lập đến việc gia tăng tỉ
lệ nhập viện thường xuyên do đợt cấp ở bệnh
nhân BPTNMT nhóm nguy cơ cao.

192

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.

8.

9.

10.

11.

12.


13.

14.

15.

16.

Anthonisen NR, Manfreda J, Warren CP, et al (1987)
"Antibiotic therapy in exacerbations of chronic obstructive
pulmonary disease". Ann Intern Med, 106 (2), 196-204.
Cao Văn Hội (2008) "Vi trùng học trong đợt kịch phát bệnh
phổi tắc nghẽn mạn tính tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương",
Luận văn Thạc sĩ Y học, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí
Minh.
Cao Z, Ong KC, Eng P, et al (2006) "Frequent hospital
readmissions for acute exacerbation of COPD and their
associated factors". Respirology, 11 (2), 188-195.
Đinh Ngọc Sỹ, Nguyễn Viết Nhung và cộng sự (2010)
"Nghiên cứu dịch tễ tình hình bệnh phổi tắc nghẽn mạn
tính ở Việt Nam". Y học thực hành, 704 (2), 8-11.
Feary JR, Rodrigues LC, Smith CJ, et al (2010) "Prevalence of
major comorbidities in subjects with COPD and incidence of
myocardial infarction and stroke: a comprehensive analysis
using data from primary care". Thorax, 65 (11), 956-962.
Garcia-Aymerich J, Monso E, Marrades RM, et al (2001)
"Risk factors for hospitalization for a chronic obstructive
pulmonary disease exacerbation. EFRAM study".Am J Respir
Crit Care Med, 164 (6), 1002 -1007.

Godtfredsen NS, Vestbo J, Osler M, et al (2002) "Risk of
hospital admission for COPD following smoking cessation
and reduction: a Danish population study". Thorax, 57 (11),
967-972.
Josephs L, Culliford D, Johnson M, et al (2017) "Improved
outcomes in ex-smokers with COPD: a UK primary care
observational cohort study". Eur Respir J, 49 (5).
Kardas P., Lewek P. and Strzondala M. (2015) "Adherence
to treatment in asthma and COPD patients in their doctors'
assessment". Pneumonol Alergol Pol, 83 (6), 436-444.
Kim M.H, Lee K., Kim K.U et al (2010) "Risk Factors
Associated with Frequent Hospital Readmissions for
Exacerbation of COPD". Tuberculosis and Respiratory Diseases,
69 (4).
Lê Thị Huyền Trang (2006) "Đánh giá bước đầu áp dụng
thông khí áp lực dương không xâm lấn trong điều trị bệnh
phổi tắc nghẽn mạn tính", Luận văn Thạc sĩ Y học, Đại học Y
Dược thành phố Hồ Chí Minh.
Lương Ngọc Khuê và Hoàng Văn Minh (2011) "Nghiên cứu
tần suất và mức độ hút thuốc lá ở người Việt Nam", Y học
TP. Hồ Chí Minh, 15 (2), 94-100.
Melani AS, Bonavia M, Cilenti V, et al (2011) "Inhaler
mishandling remains common in real life and is associated
with reduced disease control". Respir Med, 105 (6), 930-938.
Nguyễn Hoài Thu (2016) "Đánh giá tuân thủ điều trị và kỹ
thuật sử dụng các thuốc dạng hít trên bệnh nhân bệnh phổi
tắc nghẽn mạn tính tại bệnh viện Bạch Mai", Luận văn Thạc
sĩ Dược học, Trường Đại học Dược Hà Nội.
Nguyễn Tấn Bảy (2011) "Khảo sát các yếu tố nguy cơ nhập
viện trong đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính", Luận văn

Thạc sĩ Y học, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Trung Thành (2015) "Khảo sát đặc điểm lâm sàng
và tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân bệnh phổi tắc
nghẽn mạn tính nhập bệnh viện Nguyễn Tri Phương", Luận
án Chuyên khoa cấp II, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí
Minh.

Chuyên Đề Nội Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
17.

18.
19.

Pothirat C, Chaiwong W., Phetsuk N., et al (2015)
"Evaluating inhaler use technique in COPD patients". Int J
Chron Obstruct Pulmon Dis, 10, 1291-1298.
Pride N.B (2005) "Ageing and changes in lung mechanics".
Eur Respir J, 26 (4), 563-565.
Wilkinson T.M, Patel I.S, Wilks M. et al (2003) "Airway
bacterial load and FEV1 decline in patients with chronic
obstructive pulmonary disease". Am J Respir Crit Care Med,
167 (8), 1090-1095.

Chuyên Đề Nội Khoa

Nghiên cứu Y học


Ngày nhận bài báo:

16/11/2017

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

27/11/2017

Ngày bài báo được đăng:

15/03/2018

193



×