Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Kiến thức, sự tuân thủ điều trị kháng đông đường uống ở bệnh nhân rung nhĩ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.01 KB, 6 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ BảnTập 23 * Số 2 * 2019

KIẾN THỨC, SỰ TUÂN THỦ ĐIỀU TRỊ KHÁNG ĐÔNG ĐƯỜNG UỐNG
Ở BỆNH NHÂN RUNG NHĨ
Châu Ngọc Hoa*, Trần Kim Hoa**

TÓMTẮT
Mở đầu: Điều trị dự phòng đột quỵ cũng như thuyên tắc hệ thống ở bệnh nhân rung nhĩ bằng thuốc kháng
đông đường uống mang lại lợi ích rõ rệt. Hiệu quả và tính an toàn của việc điều trị kháng đông chỉ được đảm bảo
khi bệnh nhân có kiến thức và tuân thủ điều trị.
Mục tiêu: Khảo sát kiến thức, sự tuân thủ điều trị kháng đông đường uống ở bệnh nhân rung nhĩ.
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện trên 307 bệnh nhân
rung nhĩ đang dùng kháng đông đường uống tại phòng khám Nội Tim mạch – Bệnh viện Nhân dân Gia Định từ
tháng 9/2017 đến tháng 4/2018. Thuốc kháng đông bao gồm kháng đông đối kháng vitamin K và kháng đông
không đối kháng vitamin K. Kiến thức về thuốc kháng đông đường uống được đánh giá dựa trên bộ câu hỏi của
tác giả Obamiro đã được chuyển ngữ và thích ứng văn hóa. Tuân thủ được xác định bằng phương pháp đếm số
viên thuốc còn lại.
Kết quả: Trên 307 bệnh nhân rung nhĩ có sử dụng thuốc kháng đông, tỉ lệ bệnh nhân có kiến thức đúng là
42% với điểm số trung bình là 51,6 ± 17,9 (đánh giá theo bộ câu hỏi Obamiro). Tỉ lệ tuân thủ điều trị kháng đông
đường uống là 96,4%. Sau khi phân tích mối liên quan giữa các đặc điểm dân số, kinh tế, xã hội, kiến thức với sự
tuân thủ điều trị, tuổi và giới tính không có sự liên quan với tuân thủ điều trị kháng đông đường uống. Tỉ lệ
tuân thủ điều trị cao hơn ở nhóm bệnh nhân có kiến thức về thuốc kháng đông đường uống (p = 0,03).
Kết luận: Tỉ lệ bệnh nhân có kiến thức đúng về thuốc kháng đông đường uống còn thấp, bệnh nhân chưa có
kiến thức đúng chủ yếu liên quan đến các vấn đề về xử trí khi dùng quá liều thuốc, ngưỡng INR, tương tác
thuốc, thức ăn, rượu. Tỉ lệ bệnh nhân rung nhĩ tuân thủ điều trị kháng đông đường uống cao và có liên quan với
kiến thức đúng.
Từ khóa: kiến thức, thuốc kháng đông đường uống, tuân thủ điều trị

ABSTRACT


KNOWLEDGE, ADHERENCE TO ORAL ANTICOAGULANTS IN PATIENTS
WITH ATRIAL FIBRILLATION
Chau Ngoc Hoa, Tran Kim Hoa
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Suplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 164-169
Introduction: Oral anticoagulant therapy is highly effective for stroke and systemic embolism prevention in
patients with atrial fibrillation. Good knowledge and high adherence are essential to ensure both efficacy and
safety with oral anticoagulant therapy.
Objectives: The aim of this study was to investigate the level of knowledge, the proportion of patients who
have optimal adherence to oral anticoagulant therapy in patients with atrial fibrillation.
Methods: A cross-sectional survey was conducted in a sample of 307 patients with atrial fibrillation taking
oral anticoagulants in the cardiology clinic of Gia Đinh People Hospital, from September 2017 to April 2018.
Oral anticoagulants consist of vitamin K antagonists (VKA) and non-vitamin K antagonist oral anticoagulants
*Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Khoa Nội Tim Mạch, Bệnh viện Nhân dân Gia Định
Tác giả liên lạc: BS. Trần Kim Hoa ĐT: 0909409973

164

Email:

Chuyên Đề Nội Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019

Nghiên cứu Y học

(NOACs). Anticoagulation knowledge was evaluated by using the Anticoagulation Knowledge Tool (AKT),
developed and validated by Obamiro. The latter was translated and culturally adapted into Vietnamese.
Adherence to oral anticoagulants was assessed by pill counts.

Results: Among 307 patients with atrial fibrillation taking oral anticoagulants, patients with good
knowledge accounted for 42% and the mean score on the AKT was 51.6 ± 17.9. Of the 307 patients with atrial
fibrillation, 96,4% reported a high level of adherence to oral anticoagulants. After analyzing the relationship
between demographic, socio-economic factors, knowledge and adherence, age and gender had no relation with
adherence. Patients with good anticoagulation knowledge had higher rate of adherence (p= 0.03).
Conclusions: Patients with good anticoagulation knowledge had a limited rate. Factors with regard to
suboptimal knowledge in patient with atrial fibrillation included management of taking too much drug, INR
threshold, drug-drug interactions, diet, alcohol. The rate of adherence to oral anticoagulants in patient with atrial
fibrillation was significantly high and had a good relationship with anticoagulation knowledge.
Keywords: anticoagulation knowledge, adherence, oral anticoagulants
biến, trong đó việc sử dụng thuốc kháng đông
ĐẶTVẤNĐỀ
không đối kháng vitamin K ngày càng nhiều.
Rung nhĩ là rối loạn nhịp thường gặp trên
Tuy nhiên, cho đến nay chỉ có vài công trình
lâm sàng, làm gia tăng tần suất bệnh tật và tử
nghiên cứu về kiến thức, tuân thủ kháng đông
vong với tỉ lệ hiện mắc là 1 - 3% và tỉ lệ này tăng
đối kháng vitamin K trên đối tượng bệnh nhân
theo tuổi, từ 1% ở những người nhỏ hơn 60 tuổi
van tim cơ học, rất ít nghiên cứu đánh giá kiến
đến 9% ở những người trên 80 tuổi(2,9). Rung nhĩ
thức, sự tuân thủ kháng đông đường uống ở
làm tăng nguy cơ đột quỵ lên 5 lần, và là nguyên
bệnh nhân rung nhĩ.
nhân của 20-30% đột quỵ(25). Việc điều trị dự
Mục tiêu nghiên cứu
phòng đột quỵ cũng như thuyên tắc hệ thống ở
Khảo sát kiến thức, sự tuân thủ điều trị
bệnh nhân rung nhĩ bằng thuốc kháng đông

kháng
đông đường uống ở bệnh nhân rung nhĩ.
đường uống mang lại lợi ích rõ rệt. Warfarin,
Ba mục tiêu cụ thể bao gồm:
thuốc kháng đông đối kháng vitamin K giảm đột
quỵ 64%, giảm tử vong chung do mọi nguyên
nhân 26%(12). Sự ra đời của thuốc kháng đông
không đối kháng vitamin K bao gồm
Dabigatran, Rivaroxaban, Apixaban, Edoxaban
qua nhiều thử nghiệm lâm sàng so sánh với
warfarin cho thấy kháng đông không đối kháng
vitamin K ít nhất an toàn và hiệu quả như
warfarin trong dự phòng đột quỵ cũng như
thuyên tắc hệ thống ở bệnh nhân rung
nhĩ(5,8,11,17,19). Hiệu quả và tính an toàn của việc
điều trị kháng đông chỉ được đảm bảo khi bệnh
nhân tuân thủ điều trị(1). Bên cạnh đó, kiến thức
về điều trị kháng đông đối kháng vitamin K kém
cũng như không đạt mục tiêu điều trị làm tăng
nguy cơ xuất huyết, đột quỵ và làm giảm chất
lượng cuộc sống của bệnh nhân(6,13). Hiện nay tại
Việt Nam vấn đề sử dụng kháng đông đường
uống dự phòng đột quỵ cũng hiệu quả và phổ

Chuyên Đề Nội Khoa

Xác định tỉ lệ bệnh nhân rung nhĩ có kiến
thức đúng về kháng đông đường uống.
Xác định tỉ lệ bệnh nhân rung nhĩ tuân thủ
điều trị kháng đông đường uống.

Xác định mối liên quan giữa các đặc điểm
dân số, kinh tế, xã hội, kiến thức với sự tuân
thủ điều trị kháng đông đường uống ở bệnh
nhân rung nhĩ.

ĐỐITƯỢNG- PHƯƠNG PHÁPNGHIÊNCỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả.
Cỡ mẫu
N= 307 bệnh nhân rung nhĩ có sử dụng
kháng đông đường uống.
Dân số nghiên cứu
Bệnh nhân rung nhĩ trên 18 tuổi có điều trị

165


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ BảnTập 23 * Số 2 * 2019

kháng đông đường uống tại phòng khám Nội
Tim mạch Bệnh viện Nhân dân Gia Định từ
tháng 9/2017 đến tháng 4/2018. Tiêu chuẩn loại
trừ bao gồm: bệnh nhân trong tình trạng bệnh
nặng cần nhập viện, không thể giao tiếp bằng lời
nói, không thể hiểu và giao tiếp bằng tiếng Việt,
bệnh nhân đã được chẩn đoán các bệnh lý về
thần kinh như: sa sút trí tuệ, tâm thần phân liệt,
cơn hoảng loạn, rối loạn lo âu.

Phương pháp thu thập số liệu
Tất cả bệnh nhân rung nhĩ có sử dụng kháng
đông đường uống thỏa tiêu chí nhận vào được
hỏi các đặc điểm dân số, xã hội, kinh tế, tiền căn
bệnh lý. Bệnh nhận trả lời phỏng vấn của nghiên
cứu viên bằng bộ câu hỏi của tác giả Obamiro đã
được chuyển ngữ và thích ứng văn hóa. Phương
pháp đếm số viên thuốc còn lại được thực hiện
bằng cách đếm số viên thuốc kháng đông còn lại
bệnh nhân mang theo của lần khám trước và
tính toán dựa theo công thức: (số viên thuốc đã
phát  số viên thuốc còn lại) / (số viên thuốc
được kê toa trong một ngày × số ngày giữa hai
lần khám).
Phương pháp thống kê
Kết quả nghiên cứu được xử lý thống kê
bằng phần mềm SPSS 20.0. Kết quả nghiên cứu
được phân tích bằng thống kê mô tả và thống kê
phân tích. Để so sánh sự khác biệt giữa các biến
định tính dùng phép kiểm Chi bình phương và
hiệu chỉnh theo kiểm định chính xác Fisher khi
vọng trị nhỏ. Phép kiểm Mann Whitney để kiểm
định sự khác biệt về giá trị trung bình của 2
nhóm khác nhau. Sự khác biệt được xem là có ý
nghĩa thống kê khi p < 0,05.
Y đức
Nghiên cứu đã được chấp thuận của Hội
đồng Đạo đức trong nghiên cứu y sinh học Đại
học Y Dược ngày 4/8/2017.


KẾTQUẢ
Trong khoảng thời gian từ 9/2017 đến 4/2018
có 307 bệnh nhân rung nhĩ đang sử dụng kháng
đông đường uống tại phòng khám Nội Tim
mạch Bệnh viện Nhân dân Gia Định tham gia

166

nghiên cứu. Trong đó có 257 (83,7%) bệnh nhân
rung nhĩ không do bệnh van tim và 50 (16,3%)
bệnh nhân rung nhĩ do bệnh van tim.
Đặc điểm dân số khảo sát
Tuổi trung bình của bệnh nhân rung nhĩ có
sử dụng kháng đông đường uống là 68,9 ±
11,1, bệnh nhân trẻ nhất 38 tuổi, lớn nhất 95
tuổi, tỉ lệ các nhóm tuổi từ 18 đến 64 tuổi, từ 65
đến 74 tuổi và trên 75 tuổi lần lượt là 34,5%,
31,3% và 34,2%. Nữ giới chiếm tỉ lệ 55,4% cao
hơn nam giới.
Tỉ lệ các loại thuốc kháng đông được dùng
Tỉ lệ dùng thuốc kháng đông đối kháng
vitamin K (VKA) là 57,0% và nhóm thuốc không
đối kháng vitamin K chiếm tỉ lệ thấp hơn 43,0%.
Tỉ lệ dùng thuốc kháng đông Acenocoumarol,
Warfarin, Dabigatran và Rivaroxaban lần lượt là
55,7%, 1,3%, 23,1% và 19,9%.
Tỉ lệ bệnh nhân có kiến thức đúng về kháng
đông đường uống
Tỉ lệ trả lời đúng dao động từ 5% đến 40%
các câu hỏi liên quan đến các vấn đề như tính an

toàn của thuốc khi uống chung với thuốc kháng
viêm, thuốc bổ, thảo dược, rượu, việc làm để
giảm nguy cơ tác dụng phụ của thuốc, giá trị
INR mục tiêu, giá trị INR trên ngưỡng, giá trị
INR dưới ngưỡng, tương tác với thức ăn,
vitamin K.
Tỉ lệ bệnh nhân có kiến thức về kháng đông
đường uống là 42,0% không có kiến thức là
58,0%, điểm trung bình của bộ câu hỏi là 51,6 ±
17,9, cao nhất là 88,0, nhỏ nhất là 8,0.
Điểm trung bình trả lời bộ câu hỏi kiến thức
của nhóm bệnh nhân dùng VKA là 49,8 ± 18,3
thấp hơn của nhóm bệnh nhân dùng NOAC là
53,9 ± 17,1, và sự khác biệt này có ý nghĩa thống
kê với p = 0,04 (phép kiểm Mann - Whitney U).
Tuân thủ điều trị kháng đông đường uống
Tỉ lệ tuân thủ điều trị kháng đông đường
uống ở bệnh nhân rung nhĩ là 96,4%, tỉ lệ tuân
thủ VKA là 94,3% và của NOAC là 99,2%. Tỉ lệ
tuân thủ điều trị ở nhóm bệnh nhân dùng kháng
đông không đối kháng vitamin K cao hơn nhóm

Chuyên Đề Nội Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
đối kháng vitamin K với sự khác biệt có ý nghĩa.
Mối liên quan giữa các đặc điểm dân số, kinh
tế, xã hội, kiến thức với sự tuân thủ
Giới tính, tuổi, trình độ học vấn, tình trạng

kinh tế, nơi cư trú, dân tộc, hoàn cảnh sống,
thông tin về thuốc và thời gian dùng thuốc
không có sự khác biệt giữa hai nhóm tuân thủ và
không tuân thủ.
Bệnh nhân có kiến thức về thuốc kháng đông
đường uống có tỉ lệ tuân thủ cao hơn bệnh nhân
không có kiến thức về kháng đông đường uống
với OR= 1,1 (KTC 95% 1,02- 1,1).

BÀNLUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi tỉ lệ bệnh
nhân có kiến thức về thuốc kháng đông đường
uống còn hạn chế với tỉ lệ 42% và điểm số trung
bình là 51,6 ± 17,9. Điểm số trung bình của bộ
câu hỏi kiến thức về thuốc kháng đông đường
uống trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn
nghiên cứu của Destege L, Roll lần lượt là 55,8 ±
18,6 và 61,6 ± 15,8(7,18) và nhìn chung thấp hơn
các nghiên cứu khác. Mặc dù phương pháp tiến
hành nghiên cứu khác nhau phỏng vấn trực tiếp
hay qua mạng xã hội, phương tiện khảo sát khác
nhau bằng bộ câu hỏi AKT hay JAKQ và cỡ mẫu
khác nhau giữa các nghiên cứu, nghiên cứu của
chúng tôi một phần phản ánh thực trạng kiến
thức chung về kháng đông đường uống của
bệnh nhân rung nhĩ còn kém(7,14,16,18). Các khía
cạnh bệnh nhân chưa có kiến thức đúng được
phản ánh trong nghiên cứu của chúng tôi cũng
tương tự với các tác giả Roll, Konieczyńska, Ye
Wang, Smith như tương tác với thuốc khác, thảo

dược, vitamin, chế độ ăn, rượu, cũng như những
biện pháp để làm giảm nguy cơ tác dụng phụ
của thuốc, ngưỡng điều trị an toàn của INR
(international Normalized Ratio)(14,18,23,24).
Trong nghiên cứu của chúng tôi tỉ lệ tuân
thủ điều trị kháng đông khá cao là 96,4% do
phương pháp đánh giá về tuân thủ khác nhau
giữa các nghiên cứu. Bên cạnh đó, các báo cáo về
tuân thủ kháng đông không đối kháng vitamin
K qua các nghiên cứu rất thay đổi từ 38,0% của

Chuyên Đề Nội Khoa

Nghiên cứu Y học

Coleman tại Mỹ đến 99,7% của Schulman tại
Canada(4,20). Chúng tôi nhận thấy có 2 lí do cho
sự dao động lớn về tỉ lệ tuân thủ của các nghiên
cứu là thời gian theo dõi và phương pháp đánh
giá sự tuân thủ. Về khía cạnh thời gian theo dõi
để đánh giá sự tuân thủ trong các nghiên cứu
cũng dao động từ 1 tháng trong nghiên cứu của
Shore tại Mỹ lên đến 2 năm của Coleman và tỉ lệ
tuân thủ giảm dần theo thời gian dùng
thuốc(4,22). Về phương pháp đánh giá sự tuân
thủ, không có phương pháp nào là tiêu chuẩn
vàng, đây cũng là lí do đưa đến sự dao động
trong tỉ lệ tuân thủ. Schulman sử dụng phương
pháp tỉ số sở hữu thuốc (MPR) với tỉ lệ tuân thủ
rất cao gần 100%, Coleman sử dụng phương

pháp tỉ lệ những ngày có thuốc (PDC) với tỉ lệ
tuân thủ giảm dần theo thời gian theo dõi và khá
kiêm tốn chỉ 38%. Obamiro đánh giá sự tuân thủ
điều trị kháng đông trên bệnh nhân rung nhĩ tại
Úc sử dụng bộ câu hỏi 8 thông số của Morisky
với tỉ lệ tuân thủ trên 50%(15). Trong nghiên cứu
của chúng tôi sử dụng phương pháp đếm số
viên thuốc còn lại của bệnh nhân có thể ước
lượng quá mức sự tuân thủ của bệnh nhân nếu
bệnh nhân làm mất thuốc hay giấu số viên thuốc
còn lại. Kết quả tỉ lệ tuân thủ trong nghiên cứu
của chúng tôi cao hơn các nghiên cứu khác có
thể lí giải một phần do thiết kế nghiên cứu của
chúng tôi là nghiên cứu cắt ngang mô tả chỉ
đánh giá sự tuân thủ tại một thời điểm, còn
Schulman, Coleman, Shore theo dõi trong một
khoảng thời gian nhất định để đánh giá sự tuân
thủ(4,20,22).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, không có
sự khác biệt có ý nghĩa về tuân thủ điều trị
kháng đông ở hai giới nam và nữ, độ tuổi
tương tự nghiên cứu của Shiga, Obamiro,
Castellucci L.A, Gorst-Rasmussen(3,9,15,21). Về
loại thuốc kháng đông đường uống có sự khác
biệt về sự tuân thủ điều trị trong nghiên cứu
của chúng tôi với sự tuân thủ cao hơn ở nhóm
kháng đông không đối kháng vitamin K. Kết
quả này không nhất quán giữa các nghiên cứu,
theo Shiga sự tuân thủ điều trị thấp hơn ở


167


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ BảnTập 23 * Số 2 * 2019

nhóm sử dụng kháng đông không đối kháng
vitamin K so với warfarin trong khi một vài
nghiên cứu cho thấy điều ngược lại. Chúng tôi
nhận thấy những bệnh nhân có kiến thức về
thuốc kháng đông đường uống có tỉ lệ tuân
thủ cao hơn, và có mối liên quan giữa kiến
thức với sự tuân thủ điều trị, kết quả này
tương đồng với kết quả nghiên cứu của Roll(18).

HẠNCHẾ
Thiết kế nghiên cứu của đề tài là nghiên
cứu cắt ngang mô tả, thời gian nghiên cứu là 8
tháng, cỡ mẫu nhỏ, ở một trung tâm nên chưa
đại diện được dân số. Bên cạnh đó, do đặc thù
về quản lí y tế cung cấp thuốc khám chữa
bệnh, khó xác định một bệnh nhân dùng nhất
quán một loại thuốc kháng đông trong thời
gian dài mà không có những giai đoạn ngắt
quãng gây khó khăn cho việc đánh giá kiến
thức về thuốc kháng đông của bệnh nhân. Việc
đánh giá sự tuân thủ chưa có một phương
pháp nhất quán và chính xác, phương pháp
đánh giá tuân thủ của chúng tôi đánh giá sự

tuân thủ tại một thời điểm chưa phản ánh
được hết sự tuân thủ trong thời gian dài.

2.

3.

4.

5.

6.

7.

8.

9.

10.

11.

KẾT LUẬN
Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 307 bệnh
nhân rung nhĩ đang dùng thuốc kháng đông
đường uống cho thấy tỉ lệ bệnh nhân có kiến
thức đúng về thuốc kháng đông còn thấp
(42%), bệnh nhân chưa có kiến thức đúng chủ
yếu liên quan đến các vấn đề về xử trí khi

dùng quá liều thuốc, ngưỡng INR, tương tác
thuốc, thức ăn, rượu. Tỉ lệ bệnh nhân rung nhĩ
tuân thủ điều trị kháng đông đường uống cao
(96,4%) với phương pháp đánh giá tuân thủ
bằng đếm số viên thuốc còn lại. Kiến thức về
thuốc kháng đông đường uống có liên quan
với sự tuân thủ mặc dù sự liên quan chưa chặt
chẽ về mặt thống kê.

12.

13.

14.

15.

16.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

168

Beyer-Westendorf J, Ehlken B, Evers T (2016). “Real-world
persistence and adherence to oral anticoagulation for stroke
risk reduction in patients with atrial fibrillation”. Europace, 18
(8), pp.1150-7.

17.


18.

Bjorck S, Palaszewski B, Friberg L et al (2013). “Atrial
fibrillation, stroke risk, and warfarin therapy revisited: a
population-based study”. Stroke, 4 (11), pp.3103-8.
Castellucci LA, Shaw J, van der Salm K et al (2015). “Selfreported adherence to anticoagulation and its determinants
using the Morisky medication adherence scale”. Thromb Res,
136 (4), pp.727-31.
Coleman CI, Tangirala M, Evers T (2016). “Medication
adherence to rivaroxaban and dabigatran for stroke
prevention in patients with non-valvular atrial fibrillation in
the United States”. Int J Cardiol, 212, pp.171-3.
Connolly SJ, Ezekowitz MD, Yusuf S et al (2009). “Dabigatran
versus warfarin in patients with atrial fibrillation”. N Engl J
Med, 361 (12), pp.1139-51.
Davis NJ, Billett HH, Cohen HW et al (2005). “Impact of
adherence, knowledge, and quality of life on anticoagulation
control”. Ann Pharmacother, 3 (4), pp.632-6.
Desteghe L, Engelhard L, Raymaekers Z et al (2016).
“Knowledge gaps in patients with atrial fibrillation revealed
by a new validated knowledge questionnaire”. Int J Cardiol,
223, pp.906-914.
Giugliano RP, Ruff CT, Braunwald E et al (2013). “Edoxaban
versus warfarin in patients with atrial fibrillation. N Engl J
Med 369 (22), pp.2093-104.
Go AS, Hylek EM, Phillips KA et al (2001). “Prevalence of
diagnosed atrial fibrillation in adults: national implications for
rhythm management and stroke prevention: The
AnTicoagulation and Risk Factors in Atrial Fibrillation

(ATRIA) Study. Jama, 285(18), pp.2370-5.
Gorst-Rasmussen A, Skjoth F, Larsen TB et al (2015).
“Dabigatran adherence in atrial fibrillation patients during the
first year after diagnosis: a nationwide cohort study”. J Thromb
Haemost, 13(4), pp.495-504.
Granger CB, Alexander JH, McMurray JJ et al (2011).
“Apixaban versus warfarin in patients with atrial fibrillation”.
N Engl J Med, 365(11), pp.981-92.
Hart RG, Pearce LA, Aguilar MI (2007). “Meta-analysis:
antithrombotic therapy to prevent stroke in patients who have
nonvalvular atrial fibrillation”. Ann Intern Med, 146(12),
pp.857-67.
Kimmel SE, Chen Z, Price M, et al (2007). “The influence of
patient adherence on anticoagulation control with warfarin:
results from the International Normalized Ratio Adherence
and Genetics (IN-RANGE) Study”. Arch Intern Med, 167(3),
pp.229-35.
Konieczynska M, Sobieraj E, Bryk AH et al (2018).
“Differences in knowledge among patients with atrial
fibrillation receiving non-vitamin K antagonist oral
anticoagulants and vitamin K antagonists. Kardiol Pol, 76(7),
pp.1089-1096.
Obamiro KO, Chalmers L, Lee K, et al (2018). “Adherence to
Oral Anticoagulants in Atrial Fibrillation: An Australian
Survey”. J Cardiovasc Pharmacol Ther, 23(4), pp.337-343.
Obamiro KO, Chalmers L, Lee K, et al (2018).
“Anticoagulation knowledge in patients with atrial
fibrillation: An Australian survey”. Int J Clin Pract, 72(3),
pp.e13072.
Patel MR, Mahaffey KW, Garg J, et al (2011). “Rivaroxaban

versus warfarin in nonvalvular atrial fibrillation”. N Engl J
Med, 365 (10), pp.883-91.
Rolls CA, Obamiro KO (2017). “The relationship between

Chuyên Đề Nội Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019

19.

20.

21.

22.

knowledge, health literacy, and adherence among patients
taking oral anticoagulants for stroke thromboprophylaxis in
atrial fibrillation”. Cardiovascular therapeutics, 35(6), doi:
10.1111/1755-5922.12304.
Ruff CT, Giugliano Robert P, Braunwald Eugene, et al (2014).
“Comparison of the efficacy and safety of new oral
anticoagulants with warfarin in patients with atrial
fibrillation: a meta-analysis of randomised trials”. Lancet, 383
(9921), pp.955-62.
Schulman S, Shortt B, Robinson M, et al (2013). “Adherence to
anticoagulant treatment with dabigatran in a real-world
setting”. J Thromb Haemost, 11(7), pp.1295-9.
Shiga T, Naganuma M, Nagao T et al (2015). “Persistence of

non-vitamin K antagonist oral anticoagulant use in Japanese
patients with atrial fibrillation: A single-center observational
study”. J Arrhythm, 31 (6), pp.339-44.
Shore S, Ho PM, Lambert-Kerzner A et al (2015). “Site-level
variation in and practices associated with dabigatran

Chuyên Đề Nội Khoa

23.

24.

25.

Nghiên cứu Y học

adherence”. Jama, 313(14), pp.1443-50.
Smith MB, Christensen N, Wang S et al (2010). “Warfarin
knowledge in patients with atrial fibrillation: implications for
safety, efficacy, and education strategies”. Cardiology, 116 (1),
pp.61-9.
Wang Y, Kong MC, Lee LH, et al (2014). “Knowledge,
satisfaction, and concerns regarding warfarin therapy and
their association with warfarin adherence and anticoagulation
control”. Thromb Res, 133(4), pp.550-4.
Wolf Philip A, Abbott RD, Kannel WB (1991). “Atrial
fibrillation as an independent risk factor for stroke: the
Framingham Study”. Stroke, 22(8), pp.983-988.

Ngày nhận bài báo:


08/11/2018

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

10/12/2018

Ngày bài báo được đăng:

10/03/2019

169



×