Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
Mục lục
Lời mở đầu
Trang 1
Chương 1: Tổng quan, một số vấn đề chung về tội xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp trong luật hình sự
Trang 2
1. Khái niệm tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Trang 2
2. Các đặc điểm cơ bản của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Trang 2
3. Tính hi ệ u qu ả của việc ghi nhận tội xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp trong luật hình sự
Trang 3
Chương 2: Quy định của luật hình sự về tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp
Trang 4
1. Những đặc điểm, dấu hiệu pháp lý của tội xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp
Trang 4
2. Hình phạt đối với tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Trang 7
3. Phân biệt tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp với một số tội
phạm khác trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ
Trang 9
Chương 3: nguyên nhân, thực trạng tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp hiện nay và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác
đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Trang 13
1. Nguyên nhân tình hình tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
13
1
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
2. Thực trạng tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp tại tỉnh Kiên
Giang
Trang 16
3. Một số giải pháp góp phần phòng, chống tội xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp
Trang 17
Kết luận
Trang 19
2
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
LỜI MỞ ĐẦU
Viêt Nam đang trong qua trinh hôi nhâp kinh tê Quôc tê, thi
̣
́ ̀
̣
̣
́
́ ́ ̀ phát triển
kinh tế có vai rò rất quan trọng; trong việc thực hiện kinh doanh, buôn bán,
sản xuất hàng hóa thì sở hữu công nghiệp là việc không thể thiếu.
Viêc thi
̣
ếu hiểu biết về sở hữu trí tuệ, sở hữu công nghiệp gây ra
những thiệt hại rất lớn cho chủ thể sản xuất, buôn bán và kinh tế đất nước .
Xuất phát từ nhu cầu va đòi h
̀
ỏi mới phát sinh từ thực tiễn trong nền kinh tế
thị trường, Nhà nước đã đặc biệt chú trọng tới công tác xây dựng, sửa đổi, bổ
sung hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tron đó có quyền sở
hữu công nghiệp. Tuy nhiên, do mặt trái của nền kinh tế thị trường kết hợp
nhiều nguyên nhân mà tình trạng vi phạm pháp luật về sở hữu ngày càng trở
nên phổ biến, tinh vi, gây nhiều hậu quả xấu tác động đến nên kinh tế trong
nước và các nhà đầu tư nước ngoài.
Vì vậy, tìm hiểu cơ sở pháp lý, quy định của tội xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp có ý nghĩa vô cùng to lớn. Thông qua tình hình thực tế
nắm bắt được, chúng ta có thể biết được xu hướng phát triển của tội phạm
qua đó tìm ra được những ph ươ ng pháp tuyên truy ề n pháp lu ậ t và đ ề
xu ấ t phương hướng hoàn thiện pháp luật cũng như những giải pháp đúng
đắn, sát thực nhằm đấu tranh phòng, chống có hiệu quả tội phạm này.
Hạn chế của đề tài: Do khi chọn đề tài đi vào nghiên cứu lý luận và sau
đó mới tìm số liệu xét xử Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trên địa
bàn tỉnh Kiên Giang. Do từ trước đến nay không điều tra, truy tố, xử vụ việc
nào có liên quan đến Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp nên không có
số liệu cho tiểu luận và trong quá trình làm bài không tránh khỏi những sai
sót. Mong quý Thầy niệm tình thông cảm bỏ qua, tạo điều kiện cho em hoàn
thành môn học.
Xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô!
3
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
Chương 1:
TỔNG QUAN, MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI XÂM PHẠM
QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP TRONG LUẬT HÌNH SỰ
1. Khái niệm tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là hành vi nguy hiểm cho xã
hội, trái pháp luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm quyền
sở hữu của cá nhân, pháp nhân đối với nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý đang
được bảo hộ tại Việt Nam với quy mô thươ ng mại.
2. Các đặc điểm cơ bản của tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp
Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp có bốn đặc điểm cơ bản
sau:
Thứ nhất, tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là hành vi nguy
hiểm cho xã hội:
Đó là hành vi gây nên thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội trong
lĩnh vực sở hữu công nghiệp được pháp luật hình sự bảo vệ. Đây căn cứ để
phân biệt hành vi là tội phạm với các hành vi vi phạm pháp luật khác.
Thứ hai, tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là hành vi bị luật
hình sự cấm (còn gọi là tính trái pháp luật hình sự của tội phạm):
Đặc điểm pháp lý về hình thức của tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp được quy định trong luật hình sự thể hiện ở Điều 2 Bộ luật hình
sự hiện hành: "Chỉ người nào phạm một tội đã được luật hình sự quy định
mới phải chịu trách nhiệm hình sự" và tại Điều 171 Bộ luật hình sự năm
1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009), đã áp dụng chế tài đối với người
thực hiện hành vi phạm tội là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc
phạt tù có thời hạn.
4
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
Thứ ba, tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp do người có năng lực
trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi
cố ý:
Chủ thể của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp phải là người ở
trong trạng thái bình thường (không bị bệnh tâm thần hoặc bệnh lý khác
làm mất hoàn toàn khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi) và tại thời
điểm thực hiện tội phạm, người này còn phải đạt đến một độ tuổi nhất
định mà luật hình sự quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Cùng với năng lực trách nhiệm hình sự, chủ thể khi thực hiện tội
phạm ngoài độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì yếu tố lỗi cũng là một đặc
điểm chủ quan (lỗi cố ý) mang tính bắt buộc; gây nguy hiểm cho xã hội,
thấy trước được hậu quả của hành vi do mình gây ra nhưng vẫn mong
muốn hậu quả xảy ra.
Thứ tư, đối tượng của tội phạm này là xâm phạm đến nhãn hiệu và chỉ
dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam với quy mô thương mại của
quyền sở hữu công nghiệp cụ thể:
Bộ luật hình sự năm 1999 khi chưa sửa đổi, bổ sung thì đối tượng tác
động của tội phạm gồm rất nhiều: sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu
dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hóa v.v.. đang
được bảo hộ tại Việt Nam). Sau khi sửa đổi năm 2009 thì thì đối tượng tác
động của tội phạm này chủ yếu là nhãn hiệu gồm (nhãn hiệu tập thể, nhãn
hiệu chứng nhận, nhãn hiệu liên kết) và chỉ dẫn địa lý (chủ sở hữu chỉ dẫn
địa lý chỉ có thể là tổ chức hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền).
3. Tính hiệu quả của việc ghi nhận tội xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp trong luật hình sự.
Một là, tạo ra hành lang pháp lý an toàn cho các chủ thể trong xã hội,
khuyến khích khả năng sáng tạo các tài sản trí tuệ, tạo động lực để phát
triển kinh tế, phát triển khoa học kỹ thuật và hướng tới một môi trường kinh
doanh lành mạnh.
Hai là, việc quy định tội phạm này trong luật hình sự đã tạo cơ sở pháp
lý vững chắc đấu tranh phòng, chống các xâm phạm về sở hữu công
5
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
nghiệp nói chung và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp nói riêng.
Góp phần giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật về sở hữu công nghiệp.
Ba là, việc ghi nhận tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong luật
hình sự còn là một bước quan trọng để tiến tới hoàn thiện hệ thống pháp
luật về sở hữu trí tuệ trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
6
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
Chương 2:
QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI XÂM PHẠM
QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
1. Những đặc điểm, dấu hiệu pháp lý của tội xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp
Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp cũng như tất cả các tội phạm
khác bao giờ cũng là sự hợp thành của bốn yếu tố: Khách thể, mặt
khách quan, chủ thể, mặt chủ quan.. Bởi tính chất quyết định của chúng cho
nên khi nghiên cứu về tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp nói riêng và
tất cả các tội phạm khác nói chung, ta nhất thiết phải xem xét đánh giá một
cách toàn diện và đầy đủ cả bốn dấu hiệu này.
1.1. Khách thể của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự
bảo vệ và bị tội phạm xâm hại đến. Khách thể của tội phạm này chính là
quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu,
chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam.
Đối tượng tác động của tội phạm là nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý
đang được bảo hộ tại Việt Nam. Trong nhãn hiệu có một số trường hợp
như: nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu liên kết và nhãn
hiệu nổi tiếng. Nhãn hiệu có thể dùng được cho sản phẩm hoặc dịch vụ
nhưng chỉ dẫn địa lý chỉ dùng cho sản phẩm; chủ sở hữu nhãn hiệu là tổ
chức, cá nhân song chủ sở hữu chỉ dẫn địa lý lại chỉ có thể là tổ chức hoặc
cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đây chính là những điểm khác biệt dễ
nhận ra giữa nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý.
1.2. Mặt khách quan của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm bao gồm
các biểu hiện tội phạm diễn ra như: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu
quả của tội phạm, mối quan hệ giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu
quả; những biểu hiện khác thuộc mặt khách quan của tội phạm như định
7
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
lượng về giá trị, vật chất. Trong đó, dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội
phạm: Là hành vi "xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu,
chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam với quy mô thương mại".
Các hành vi thuộc mặt khách quan của tội xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp có thể làm rõ ở đây gồm có hai dạng hành vi:
Hành vi chiếm đoạt quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu,
chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam.
Hành vi này là hành động, người phạm tội cố ý dịch chuyển nhãn hiệu,
chỉ dẫn địa lý của người khác thành của mình bằng nhiều thủ đoạn như
dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực, gian dối hay lén lút.v.v.. Hành vi này đồng
thời làm cho chủ sở hữu nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý mất đi khả năng thực
tế thực hiện đầy đủ quyền năng của mình.
Hành vi chiếm đoạt này là tài sản trí tuệ (một loại tài sản vô hình), là
kết quả của sự sáng tạo đã được bảo hộ và được thể hiện dưới bất kỳ hình
thức nào.
Hành vi sử dụng bất hợp pháp nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được
bảo hộ tại Việt Nam.
Đây là hành vi khai thác lợi ích, công dụng của nhãn hiệu, chỉ dẫn địa
lý của chủ thể khác mà không được sự cho phép của chủ thể đó (có thể
chủ sở hữu hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý theo quy
định của pháp luật).
Các hành vi sử dụng bất hợp pháp có thể là:
+ Đối với nhẵn hiệu hàng hóa: Gắn nhãn hiệu được bảo hộ lên hàng
hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, phương tiện dịch vụ, giấy tờ
giao dịch trong hoạt động kinh doanh; Lưu thông, chào bán, quảng cáo để
bán, tàng trữ để bán hàng hóa mang nhãn hiệu được bảo hộ mà không
được phép của chủ sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu đó.
+ Đối với chỉ dẫn địa lý: Gắn chỉ dẫn địa lý được bảo hộ lên hàng
hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, giấy tờ giao dịch trong
hoạt động kinh doanh; Lưu thông, chào bán, quảng cáo nhằm để bán, tàng
8
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
trữ để bán hàng hóa có mang chỉ dẫn địa lý được bảo hộ mà không được
phép của chủ sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý đó.
9
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
1.3. Chủ thể của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Chủ thể của của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là cá nhân
hoặc nhóm người, có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi mà pháp
luật quy định phải chịu trách nhiệm hình sự quy định trong Bộ luật hình sự.
Điều 12 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009
quy định "Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về
mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng". Điều 171 Bộ luật hình sự hiện hành quy định
(mức phạt của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là từ sáu tháng đến
ba năm tù) vì vậy tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp thuộc vào loại
tội phạm ít nghiêm trọng. Chủ thể của tội phạm này có thể là người từ đủ
16 tuổi trở lên, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.
1.4. Mặt chủ quan của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm, bao gồm
các dấu hiệu về lỗi, động cơ phạm tội và mục đích phạm tội. Thực hiệ n
hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do hành vi đó gây ra, nó là dấu
hiệu chủ quan có tính bắt buộc đối với mọi tội phạm. Đối với tội xâm
phạm quyền sở hữu công nghiệp, lỗi được biểu hiện dưới hình thức lỗi cố
ý trực tiếp.
Cụ thể: người phạm tội biết hành vi chiếm đoạt, sử dụng bất hợp pháp
nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý của người khác đang được bảo hộ tại Việt Nam
mục đích với quy mô thương mại là nguy hiểm cho xã hội, nhận thức được
hậu quả có thể hoặc tất yếu xảy ra do hành vi của mình gây nên song vẫn
thực hiện với ý thức mong muốn cho hậu quả xảy ra.
Trường hợp có hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp với lỗi
cố ý gián tiếp (trường hợp người phạm tội nhận thức được hành vi của
mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả của hành vi đó,
tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra) hay hình
thức lỗi vô ý (tức là trường hợp người phạm tội tuy thấy trước hành vi của
mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả
10
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được (lỗi vô ý vì quá tự tin)
hoặc trường hợp khác là người phạm tội không thấy trước hành vi của
mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội mặc dù bắt buộc phải thấy
trước và có thể thấy trước hậu quả đó (lỗi vô ý do cẩu thả) thì không bị coi
là tội phạm và không phải chịu trách nhiệm hình sự.
2. Hình phạt đối với tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Theo Điều 171 Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm
2009) quy định về hình phạt đối với tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp như sau:
2.1. Hình phạt chính: Bao gồm hai khung hình phạt:
+ Khung 1: được áp dụng đối với trường hợp phạm tội có cấu thành
quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự hiện hành: "Phạt tiền từ
năm mươi triệu đồng đến năm trăm triệu đồng hoặc cải tạo không giam
giữ đến hai năm".
Phạt tiền: Nếu phạt tiền ở khung 1 được áp dụng là hình phạt chính
thì mức phạt tối đa là năm trăm triệu đồng, mức tối thiểu là năm mươi
nghìn đồng. Khi Tòa án quyết định hình phạt tiền đối với người bị kết án
không được vượt quá mức tối đa đã được điều luật quy định.
Cải tạo không giam giữ: Mức cải tạo không giam giữ đối người phạm
tội này là không quá hai năm. Khi Tòa án quyết định hình phạt cải tạo
không giam giữ đối với người bị kết án không được vượt quá mức tối đa
đã được điều luật quy định.
Người phạm tội bị xét xử theo khoản 1 của Điều 171 Bộ luật hình sự
thì chỉ bị Tòa án áp dụng hình phạt tiền hoặc là phạt cải tạo không giam
giữ, không được áp dụng đồng thời cả hai loại hình phạt này.
+ Khung hai: được quy định tại khoản 2 của Điều 171 Bộ luật hình sự:
"Phạt tiền từ bốn trăm triệu đồng đến một tỷ đồng hoặc phạt tù từ sáu
tháng đến ba năm" đối với người phạm tội có một trong các tình tiết sau:
a) Có tổ chức; (là hình thức đồng phạm có sự cấu kết chặt chẽ giữa
những người cùng tham gia tội phạm t ừ hai ng ườ i tr ở lên, cũng như có sự
11
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
phân công vai trò nhiệm vụ cụ thể, tính toán chu đáo và chuẩn bị kỹ càng
cho việc thực hiện tội phạm) được thể hiện dưới hai dạng:
Dạng thứ nhất: Những người đồng phạm cùng tham gia một tổ chức
phạm tội được hình thành với phương thức hoạt động có tính chất lâu
dài, bền vững;
Dạng thứ hai: Những người đồng phạm cùng nhau thực hiện hành vi
xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp nhiều lần (mỗi lần đều đủ yếu tố
cấu thành tội phạm) theo một kế hoạch đã được thống nhất vạch ra từ
trước.
b) Phạm tội nhiều lần (chủ thể phạm tội từ hai lần trở lên, mỗi lần
phạm tội đều có đủ yếu tố cấu thành tội phạm nhưng chưa lần nào bị truy
cứu trách nhiệm hình sự và khi đưa ra xét xử vẫn còn trong thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự).
Phạt tiền: Tươn tự khung 1, hình phạt tiền ở khung 2 được áp dụng là
hình phạt chính thì mức phạt nâng lên tối đa là năm trăm triệu đồng lên
mức tối đa là một tỷ đồng, mức tối thiểu là bốn trăm triệu đồng. Khi Tòa án
quyết định hình phạt tiền đối với người bị kết án không được vượt quá
mức tối đa đã được điều luật quy định.
Hình phạt tù: buộc người bị kết án phải cách ly khỏi xã hội trong một
thời gian nhất định (tối thiểu là sáu tháng và tối đa là ba năm). Tuy nhiên
Tòa án vẫn có thể áp dụng mức hình phạt thấp hơn mức tối thiểu đã được
quy định trong trường hợp người bị kết án có nhiều tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự và đủ điều kiện để được hưởng Điều 47 Bộ luật hình
sự "Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật".
2.2. Hình phạt bổ sung:
Ngoài hình phạt chính, tại khoản 3 Điều 171 còn có quy định về hình
phạt bổ sung để hỗ trợ cho hình phạt chính nhằm đạt được mục đích của
hình phạt. Hình phạt bổ sung không áp dụng một cách độc lập mà chỉ có
thể được áp dụng đồng thời với hình phạt chính. Các hình phạt bổ sung cụ
thể là: "Phạt tiền từ hai mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng, cấm đảm
12
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một
năm đến năm năm".
Hình phạt bổ sung là biện pháp có tính chất phòng ngừa, được Tòa án
áp dụng đối với người bị kết án khi xét thấy nếu để người này tiếp tục đảm
nhiệm chức vụ, tiếp tục hành nghề hoặc tiếp tục làm công việc nhất định
nào đó thì họ có thể lại có điều kiện để phạm tội mới hoặc tiếp tục gây
nguy hại cho xã hội.
So hình phạt áp dụng đối với chủ thể của tội xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp nhẹ hơn hầu hết hình phạt ở các tội khác trong cùng
Chương "Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế", như: tội buôn lậu
(Điều 153, mức hình phạt cao nhất có thể được áp dụng lên đến tù chung
thân; tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới (Điều 154)
mức hình phạt cao nhất là 10 năm tù; tội sản xuất, buôn bán hàng giả
(Điều 156) mức hình phạt cao nhất là 15 năm tù; tội sản xuất buôn bán hàng
giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều
157) mức phạt cao nhất lên đến tử hình…
3. Phân biệt tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp với một số
tội phạm khác trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ
3.1 Phân biệt tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp với tội
xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan:
* Gi
ống nhau :
Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 171) và tội xâm phạm
quyền tác giả, quyền liên quan (Điều 170a) có những điểm giống nhau cơ bản
là:
Đều là những tội xâm phạm quyền sở hữu đối với tài sản trí tuệ và
được bố trí nằm trong cùng Chươ ng "Các tội xâm phạm trật tự quản
lý kinh tế".
Các tội phạm này thường được thực hiện có tính tổ chức cao, số lượng
đồng phạm đông đảo và khả năng tái phạm nhiều.
13
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
Về mặt khách quan: Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
hay hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan chỉ bị coi là tội phạm
khi các hành vi đó xâm phạm với "quy mô thương mại".
Về chủ thể: Cả hai tội phạm đều có chủ thể là người có năng lực
trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên.
Về mặt chủ quan: Cả hai tội phạm đều được thực hiện dưới hình
thức lỗi cố ý. Người phạm tội biết hành vi mình thực hiện là nguy hiểm cho
xã hội, nhận thức được hậu quả nguy hại có thể hoặc tất yếu xảy ra
nhưng vẫn thực hiện.
Về hình phạt: Hai tội phạm này được Bộ luật hình sự năm 1999 (được
sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định về hình phạt tương đối giống nhau
ở khung hình phạt cơ bản và hình phạt bổ sung áp dụng kèm theo.
* Khác
nhau :
Mỗi tội phạm đều có những đặc điểm riêng nhất định cho phép phân
biệt tội phạm này với tội phạm khác. Tội xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp và tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan có những
điểm khác nhau cơ bản sau:
Về khách thể:
+ Quyền sở hữu công nghiệp: Chủ thể đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn
địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam.
+ Quyền tác giả, quyền liên quan: Là quyền tác giả, quyền liên quan
của chủ thể đối với tác phẩm, bản ghi âm, bản ghi hình hoặc bản sao
của chúng được pháp luật bảo hộ
Về đối tượng tác động của tội phạm:
+ Quyền sở hữu công nghiệp: Là nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được
bảo hộ tại Việt Nam (căn cứ để nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được bảo hộ
chủ yếu dựa trên quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền).
14
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
+ Quyền tác giả, quyền liên quan: Là tác phẩm, bản ghi âm, bản ghi
hình hoặc bản sao của chúng (được mặc nhiên bảo hộ không phụ thuộc
vào việc đăng ký bảo hộ hay chưa)
Về mặt khách quan
+ Quyền sở hữu công nghiệp: gồm hai dạng hành vi: (1) hành vi
chiếm đoạt quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý
đang được bảo hộ tại Việt Nam; và (2) hành vi sử dụng bất hợp pháp nhãn
hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam.
+ Quyền tác giả, quyền liên quan: gồm hai dạng hành vi: (1) hành vi
sao chép tác phẩm, bản ghi âm, bản ghi hình mà không được phép của
chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan; (2) hành vi phân phối đến công
chúng bản sao tác phẩm, bản sao bản ghi âm, bản sao bản ghi hình mà
không được phép của chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan.
+ Quyền sở hữu công nghiệp:
+ Quyền tác giả, quyền liên quan:
3.2 Phân biệt tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp với tội vi
phạm các quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 171) và tội vi phạm
các quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (Điều
170) có những điểm giống và khác nhau cơ bản như sau:
* Giống nhau:
Cả hai tội phạm này đều nằm trong nhóm các tội phạm trong lĩnh vực
sở hữu công nghiệp, là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, được thực
hiện với lỗi cố ý và đều có khách thể bị xâm hại là trật tự quản lý kinh
của Nhà nước trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp (như xác lập quyền sở
hữu công nghiệp và thực thi quyền sở hữu công nghiệp...).
Do cả hai tội phạm đều thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng (có khung
hình phạt cao nhất không quá ba năm tù) nên chủ thể của hai tội này đều
phải là người từ đủ 16 tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình
sự.
15
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
* Khác nhau:
Về mặt khách quan
+ Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp: Hành vi thuộc mặt khách
quan của tội phạm này được thực hiện bằng hành động bao gồm 02 dạng
đó là: hành vi chiếm đoạt và hành vi sử dụng bất hợp pháp nhãn hiệu, chỉ
dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam với quy mô thương mại.
+ Tội vi phạm các quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền SHCN:
được thực hiện bằng hành động hoặc không hành động, bao gồm 04 dạng
hành vi: (1) không cấp văn bằng bảo hộ cho chủ thể đã có đủ điều kiện
được cấp; (2) đưa những thông tin sai lệch về các vấn đề có liên quan đến
việc cấp văn bằng bảo hộ; (3) cấp văn bằng bảo hộ không đúng quy định
về thời gian, thủ tục; (4) cấp văn bằng bảo hộ đối tượng sở hữu công
nghiệp mà trước đó đối tượng này đã được cấp văn bằng bảo hộ cho một
chủ sở hữu công nghiệp khác. Ngoài ra, hành vi nêu trên chỉ cấu thành tội
phạm khi đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi này mà
còn vi phạm, gây hậu quả nghiêm trọng.
Về chủ thể
+ Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp: Là bất kỳ người nào có
năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên.
+ Tội vi phạm các quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền SHCN: chỉ
những người có thẩm quyền trong hoạt động cấp các loại văn bằng bảo
hộ quyền sở hữu công nghiệp.
16
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
Chương 3:
NGUYÊN NHÂN, THỰC TRẠNG TỘI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ
HỮU CÔNG NGHIỆP HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÔNG TÁC ĐẤU TRANH PHÒNG,
CHỐNG TỘI PHẠM XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
1. Nguyên nhân tình hình tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp
1.1. Nguyên nhân do mặt trái của nền kinh tế thị trường.
Với quy luật cạnh tranh khốc liệt của kinh tế thị trường và khi đất
nước bước vào giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế đã đem đến cho xã hội
sự phân hóa. Các chủ thể trong xã hội, nhất là hoạt động trong cùng lĩnh
vực cạnh tranh đã tìm nhiều cách, nhiều thủ đoạn để cạnh tranh nhau; hành
vi sản xuất, buôn bán hàng giả, xâm phạm sở hữu trí tuệ, xâm phạm quyền
sở hữu công nghiệp luôn tạo ra “siêu lợi nhuận” nên rất có sức hút, lôi kéo
được nhiều đối tượng tham gia, trên nhiều địa bàn, nhiều lĩnh vực khác nhau,
ngang nhiên xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp một cách trái pháp luật.
Ngoài ra trong quá trình hội nhập, ngoài những tác động tích cực, còn
phát sinh những yếu tố tiêu cực xâm nhập vào nền kinh tế nhiều thành phần
với tính cạnh tranh cao và diễn biến phức tạp của nước ta. Các mặt hàng nội
địa đa dạng, phong phú nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cho người
tiêu dùng, nhất là trong điều kiện thu nhập bình quân thấp, giá hàng hoá sản
phẩm phục vụ sinh hoạt cao tạo nên sự bất cân đối. Vì vậy mà người tiêu
dùng lựa chọn những sản phẩm nhái, giả nhưng mẫu mã, kiểu dáng công
nghiệp “như thật” mà lại có giá bán thấp. Lợi dụng tình trạng này, không ít
doanh nghiệp thiếu ý thức tôn trọng pháp luật, thiếu sự tôn trọng người tiêu
dùng, vì mục tiêu lợi nhuận đã làm giả, làm nhái những sản phẩm được bảo
hộ có uy tín, chất lượng, kiểu dáng để gây nhầm lẫn đối với người tiêu
dùng. Vì vậy, việc sao chụp, mô phỏng, làm nhái các sản phẩm của nhau để
giành giật thị trường trở thành hiện tượng phổ biến. Đây là một trong những
17
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
nguyên nhân chính dẫn đến sản xuất, buôn bán hàng giả và xâm phạm sở
hữu trí tuệ tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô hoạt động.
18
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
1.2. Nguyên nhân thuộc về chính sách, pháp luật nhà nước.
Các quy định về sở hữu trí tuệ và hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ còn
chưa tập trung, mà rải rác trong quá nhiều văn bản từ Hiến pháp, Bộ luật
Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Khoa học và Công nghệ, Bộ luật Hình sự
và nhiều văn bản hướng dẫn, thi hành các luật trên; những quy định về sở
hữu trí tuệ và hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ chưa thật đầy đủ, chưa đồng
bộ, đặc biệt là những quy định về các biện pháp và chế tài xử lý chủ yếu là
hình thức xử lý hành chính, rất ít xử lý hình sự, cụ thể là tại tỉnh Kiên Giang
từ trước đến nay hoàn toàn không xử lý hình sự đối với tội xâm phạm quyền
sở hữu công nghiệp mà chủ yếu là áp dụng các biện pháp xử lý hành chính,
chưa phù hợp với tình hình thực tế, chưa đủ sức răn đe đối tượng vi phạm.
Chế tài về hình sự chỉ được áp dụng với cá nhân, trong khi nhóm tội về sở
hữu trí tuệ chủ yếu là do tổ chức thực hiện, vì vậy, không thể truy cứu trách
nhiệm hình sự với pháp nhân được.
1.3. Nguyên nhân chủ quan từ chủ sở hữu công nghiệp.
Hiện nay, ít doanh nghiệp có bộ phận chuyên chăm lo về sở hữu trí tuệ,
ít có doanh nghiệp nào có chiến lược về sở hữu trí tuệ, coi vấn đề sở hữu trí
tuệ là bộ phận trong chiến lược phát triển của mình. Tài sản trí tuệ chưa trở
thành đối tượng quản lý như quản lý tài sản thông thường nên phần lớn các
chủ sở hữu trí tuệ chưa thực sự chú ý đến việc bảo vệ quyền lợi của mình,
chưa có ý thức cao trong việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá, trong khi
trình độ và hiểu biết về tác hại của xâm phạm sở hữu trí tuệ đối với sức
khoẻ, lợi ích của cộng đồng còn rất hạn chế.
Các doanh nghiệp đã có sự chú trọng vào việc xây dựng thương hiệu,
kiểu dáng công nghiệp, tên gọi, chất lượng hàng hóa nhưng lại quên mất
khâu đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá của mình ở những khu vực thị
trường đã và sẽ phát triển. Nhiều doanh nghiệp chưa có ý thức trong việc
phát hiện và ngăn ngừa việc làm giả các sản phẩm của mình, chưa chủ động
phối hợp với các cơ quan chức năng trong việc kiểm tra, kiểm soát. Có
những doanh nghiệp do sợ bị ảnh hưởng đến doanh số và mức tiêu thụ sản
phẩm, không dám công khai về sản phẩm bị làm giả. Có những sản phẩm
19
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
làm giả tinh vi đến mức chính doanh nghiệp sản xuất cũng không phát hiện
được, đến khi biết, tuy có một số biện pháp khắc phục nhưng không đáng
kể.
1.4. Hoạt động và sự phối hợp của các cơ quan bảo vệ pháp luật, cơ
quan quản lý nhà nước trong đấu tranh phòng chống các tội phạm xâm
phạm quyền sở hữu công nghiệp.
Công tác phối hợp trên thực tế của các tổ chức và hoạt động của các cơ
quan có trách nhiệm đấu tranh với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ còn thiếu đồng bộ và chồng chéo, nhiều tầng nấc xử lý khiến hiệu lực
thực thi bị phân tán, phức tạp. Hiện có nhiều cơ quan (UBND các cấp, thanh
tra khoa học và công nghệ, thanh tra văn hóa, cảnh sát kinh tế, quản lý thị
trường, hải quan) cùng có thẩm quyền xử phạt vi phạm. Theo thông lệ ở các
nước trên thế giới thì tòa án phải đóng vai trò rất quan trọng trong việc xử lý
các vi phạm về sở hữu trí tuệ, nhưng ở Việt Nam thì ngược lại, vai trò của
tòa án rất mờ nhạt so với các cơ quan hành chính. Mỗi năm có tới hàng nghìn
vụ vi phạm sở hữu trí tuệ được xử lý bởi các cơ quan hành chính, nhưng số
vụ được đưa ra xét xử tại tòa án lại quá ít trường hợp, một số địa phương ở
cấp tỉnh và huyện không xét xử tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
(điển hình như tại Tòa án tỉnh Kiên Giang). Chưa kể, trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ của phần lớn đội ngũ cán bộ làm công tác bảo vệ pháp luật còn
hạn chế, đặc biệt là trong các lĩnh vực liên quan đến sở hữu trí tuệ, tài chính,
ngân hàng, chứng khoán, công nghệ máy tính… Ngoài ra chúng ta còn phải
phối hợp công tác phòng, chống xử lý các tội về xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp với các nước trong khu vực và quốc tế.
1.5. Công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật trong đấu
tranh phòng, chống tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.
Trong những năm, thời điềm sau khi mở cửa phát triển kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa và gia nhập tổ chức thương mại thế giới
WTO Việt Nam thì việc xâm phạm đến quyền sở hữu trí tuê trong đó có
quyền sở hữu công nghiệp diễn ra ngày một phức tạp bằng nhiều thủ đoạn
tinh vi, bằng công nghệ cao nhưng công tác tuyên truyền, phồ biến giáo dục
20
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
pháp luật trong đấu tranh phòng, chống hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ và các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp chưa cao, chưa rộng,
chưa đi vào chiều sâu, chưa phản ảnh đúng tính chất và mức độ của loại tôi
phạm này. Việc xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp vẫn đang diễn ra
nhưng chúng ta chưa có biện pháp tuyên truyền giáo dục hiệu quả, chưa kèm
cế được hành vi vi phạm làm cho các nhà đầu tư nước ngoài rất ngán ngại khi
đầu tư vào Việt Nam.
1.6. Hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng chống các tội xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp.
Song song với các nguyên nhân trên thì hợp tác quốc tế trong đấu tranh
phòng, chống các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là một trong
những nguyên nhân dẫn đến các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
trong nước, như những trường hợp các công ty nước ngoài làm hàng giả,
hàng kém chất lượng sử dụng bao bì, nhãn mác và chỉ dẫn địa lý nước ngoài
(nhất là hàng Trung Quốc) gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng Việt Nam
nhưng chưa có biện pháp phòng, chống hiệu quả trong đó có nguyên nhân từ
hợp tác quốc tế trong công tác đấu tranh phòng chống và thực hiện. Xúc tiến
nghiên cứu ký kết các điều ước quốc tế, hợp tác quốc tế trong đấu tranh
phòng chống các loại tội phạm về kinh tế trong đó có tội xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp.
2. Thực trạng tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp tại tỉnh
Kiên Giang
Trong những năm qua tình hình xâm phạm quyền sở hữu trên điạ bàn
tỉnh Kiên Giang diễn biến hết sức phức tạp, việc buôn bán làm hàng giả,
hàng nhái, hàng kém chất lượng sử dụng bao bì nhãn mác hoặc chỉ dẫn địa lý
của các công ty lớn có uy tín gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng diễn ra hàng
ngày nhưng nhiều người tiêu dùng (nhất là ở nông thôn) chưa có biện pháp
để hạn chế gây thiệt hại đáng kể cho kinh tế như trường hợp bán phân bón
giả cho nông dân ở các huyện Hòn Đất, Tân Hiệp và Giồng Riềng những
năm trước, người tiêu dùng do chưa được tuyên truyền, phổ biến giáo dục
pháp luật nên không biết tố giác hành vi vi phạm như thế nào và cơ quan nào
thụ lý nên dẫn đến nhiều người bị thiệt hại do hàng kém chất lượng còn
21
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
Doanh nghiệp sản xuất chân chính thì bị thiệt hại do hành vi xâm phạm này
gây ra còn phía người bán lãng tránh trách nhiệm nên chưa xử lý được triệt
để, nếu có xử lý thì chỉ dùng lại ở hành vi hành chính, xử phạt hành chính.
Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp cả nước diễn ra đối với
hầu hết các loại sản phẩm ở hầu hết các khâu sản xuất, lưu thông, xuất
nhập khẩu.v.v. nhiều nhất là hành vi sao chép nhãn hiệu hàng hóa. Hàng
nghìn vụ việc xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đã bị phát hiện nhưng
chủ yếu được xử lý bằng biện pháp hành chính.
Về tình trạng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp thì số vụ việc bị
xử lý bằng biện pháp hành chính tương đối nhiều song vì nhiều lý do khác
nhau mà cho tới nay Việt Nam mới chỉ có một vài trường hợp được đưa ra
xử lý bằng biện pháp hình sự.
Về tình hình xử lý hình sự các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
trên địa bàn tỉnh Kiên Giang thì tác giả cũng đã tìm đủ mọi cách, tìm nhiều
nguồn số liệu của nhiều cơ quan, theo số liệu cung cấp của Công an tỉnh,
Viện kiểm sát tỉnh và Tòa án tỉnh Kiên Giang thời gian qua thì trên địa bàn
tỉnh Kiên Giang (đến thời điểm hiện tại) chưa truy tố, xét xử vụ việc nào liên
quan đến tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo Điều 171 Bộ Luật
hình sự năm 1999 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật hình sự
năm 2009, nên đề tài có phần hạn chế về việc đánh giá thực trạng, chủ yếu
đánh giá nguyên nhân và giải pháp để nâng cao hiệu quả trong phòng, chống
tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, rất mong được sự thông cảm của
quý thầy, cô.
III. Một số giải pháp góp phần phòng, chống tội xâm phạm quyền
sở hữu công nghiệp
Để đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần
tạo ra một môi trường lành mạnh cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất,
kinh doanh, tạo sự hấp dẫn, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, góp phần bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng và quan trọng hơn là bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của chủ sở hữu, trong thời gian tới cần tiến hành một số giải pháp sau:
22
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
1.1. Tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về sở hữu trí tuệ, sở hũu
công nghiệp và xử lý vi phạm cho phù hợp, đáp ứng được các yêu cầu thực
tế. Hiện nay, các quy định về các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ vẫn còn
tồn tại nhiều vấn đề, dẫn đến hiệu quả thực thi còn hạn chế và chưa đáp
ứng được yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nói chung (quyền sở hữu
công nghiệp) nói riêng một cách đầy đủ. Đây là một trong những bất lợi của
Việt Nam trong tiến trình hội nhập thương mại quốc tế.
Đối với pháp luật dân sự, pháp luật chuyên ngành về sở hữu trí tuệ,
cần tiếp tục tổng kết thực tiễn thi hành những năm qua để bổ sung các quy
định đầy đủ và cụ thể hơn, pháp điển hoá các quy định, các văn bản pháp
luật về sở hữu trí tuệ, đơn giản hoá thủ tục, tạo điều kiện cho các chủ sở
hữu tham gia bảo hộ quyền sở hữu của mình đối với tài sản sở hữu trí tuệ.
Đối với pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, mặc dù đã được sửa
đổi, bổ sung nhưng tác giả cho rằng, các quy định về mức xử phạt vẫn còn
quá nhẹ, chưa đủ sức răn đe các hành vi vi phạm. Do đó, cần nghiên cứu điều
chỉnh cách tính mức phạt nghiêm khắc hơn đối với hành vi vi phạm, sao cho
mức phạt tối thiểu cũng phải cao hơn lợi nhuận xác định được do hành vi vi
phạm gây ra.
Đối với Luật hình sự cần ban hành văn bản pháp luật giải thích rõ như
thế nào là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, chỉ
dẫn địa lý với "quy mô thương mại" cũng như giải thích rõ sự khác nhau
giữa hành vi thuộc mặt khách quan của tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp quy định tại Điều 171 với hành vi thuộc mặt khách quan của các
tội sản xuất, buôn bán hàng giả quy định tại các Điều 156, 157, 158 Bộ luật
hình sự hiện hành; và nên coi tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là
một loại "tội phạm nghiêm trọng" chứ không phải là "tội phạm ít nghiêm
trọng" như hiện nay và cần kiên quyết đấu tranh phòng, chống bằng cách
đe dọa áp dụng chế tài hình sự nghiêm khắc hơn mới đủ sức răn đe đối với
tội phạm này.
1.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, động viên và phát huy
sức mạnh toàn dân tích cực tham gia phòng ngừa và đấu tranh chống sản
xuất, buôn bán hàng giả, xâm phạm sở hữu trí tuệ, xâm phạm sở hữu công
23
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
nghiệp đưa nội dung giáo dục vào nhà trường, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu
pháp luật về sở hữu trí tuệ trong các doanh nghiệp, cơ quan, đoàn thể, đồng
thời kết hợp với các phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền như
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng báo chí, đài phát thanh, truyền
hình đ ặc biệt là mạng internet. Với phương tiện này, người dân có thể
truy cập thông tin về sở hữu trí tuệ một cách dễ dàng và nhanh chóng.
Thông qua các buổi nói chuyện chuyên đề, các cuộc hội nghị, hội thảo
về pháp luật sở hữu công nghiệp, các sách, tạp chí, bài viết có liên quan.
Các kênh truyền hình nên đưa ra các cuộc thi tìm hiểu pháp luật về sở
hữu công nghiệp như một gameshow. Qua đó, đưa ra các tình huống, các câu
hỏi để mọi người nhận biết được đâu là hành vi vi phạm pháp luật sở hữu
công nghiệp, tác hại của nó và cần phải làm gì khi quyền sở hữu công
nghiệp của mình hoặc của người khác bị xâm phạm... Từ đó xây dựng ý
thức, trách nhiệm của người dân trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm.
1.3. Tăng cường hơn nữa công tác thanh tra, kiểm tra; phối hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan chức năng và chủ sở hữu, thông qua các biện pháp nghiệp
vụ để phát hiện tội phạm, kiên quyết xử lý đúng pháp luật, công khai trên các
phương tiện thông tin đại chúng để toàn dân được biết. Nâng cao hơn nữa
vai trò của tòa án trong việc xét xử nghiêm minh các hành vi xâm phạm
nghiêm trọng quyền sở hữu trí tuệ. Đồng thời, tổ chức xây dựng lực lượng
chuyên trách về sở hữu trí tuệ, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, tăng cường cơ sở vất chất kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ.
Tiếp tục tăng cường vai trò quản lý và điều hành của nhà nước, sửa đổi
cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích sản xuất hàng hoá trong nước đủ sức
cạnh tranh đối với hàng hóa ngoại, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
1.4. Đối với các doanh nghiệp, chủ sở hữu tài sản công nghiệp nên có
một hệ thống nhân sự và kỹ thuật chuyên bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, sở
hữu công nghiệp. Coi trọng vấn đề thương hiệu, nhãn hiệu sản phẩm, hàng
hóa để bảo vệ quyền lợi của chính mình và quyền lợi của cộng đồng.
24
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
1.5. Mở rộng hợp tác quốc tế, tham gia xây dựng lực lượng cảnh sát
chuyên trách chống tội phạm đặt trụ sở tại một số quốc gia trong khu vực
nhằm phát hiện kịp thời những hành vi vi phạm, nâng cao hiệu quả công tác
đấu tranh phòng chống tội phạm về xâm phạm sở hữu công nghiệp.
25