Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân cấp xã qua thực tiễn ở tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (508.15 KB, 26 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ NỮ

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ QUA THỰC TIỄN Ở TỈNH THỪA THIÊN - HUẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2012

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ NỮ

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ QUA THỰC TIỄN Ở TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Chuyên ngành

: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật

Mã số

: 60 38 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Duy Phương

HÀ NỘI - 2012

2


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU .......................................................................................................1
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI
ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ .......................................................................11

1.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về
cơ quan đại diện của nhân dân ...................................................................11
1.1.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về cơ quan đại diện của nhân
dân ..............................................................................................................11
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ quan đại diện của nhân dân .............13
1.2 Khái quát về quá trình hình thành và phát triển của Hội đồng nhân dân
cấp xã trong lịch sử lập pháp của nước ta ..................................................17
1.3 Những quy định của pháp luật hiện hành về tổ chức và hoạt động của
Hội đồng nhân dân cấp xã ..........................................................................24
1.3.1 Vị trí, tính chất, chức năng của Hội đồng nhân dân cấp xã...............24
1.3.2 Nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp xã ...................27
1.3.3. Thường trực Hội đồng nhân dân cấp xã ...........................................31
1.3.4. Kỳ họp của Hội đồng nhân dân cấp xã ............................................33
1.3.5. Đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã .................................................34

1.4. Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân cấp xã với Ủy ban nhân dân cấp
xã và với các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội ở địa phương.................36
1.4.1. Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân cấp xã với Ủy ban nhân dân
cấp xã .........................................................................................................36
1.4.2. Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân cấp xã với Đảng ủy cấp xã...38
1.4.3. Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân cấp xã với Mặt trận tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận tổ quốc Việt Nam ........39
1


CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN CẤP XÃ Ở TỈNH THỪA THIÊN - HUẾ ....................................42

2.1. Đặc điểm về tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Thừa Thiên - Huế .....42
2.2. Thực trạng tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã ở tỉnh
Thừa Thiên - Huế .......................................................................................43
2.2.1. Thực trạng tổ chức của Hội đồng nhân dân cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên
- Huế. .........................................................................................................43
2.2.2. Thực trạng hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã ở tỉnh Thừa
Thiên - Huế ................................................................................................45
CHƢƠNG III. NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ Ở TỈNH
THỪA THIÊN - HUẾ...................................................................................52

3.1. Sự cần thiết phải đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của
Hội đồng nhân dân cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên - Huế ..................................52
3.2. Những giải pháp đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của
Hội đồng nhân dân cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên - Huế ..................................53
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động
của Hội đồng nhân dân cấp xã ...................................................................54

3.2.2. Những giải pháp cụ thể đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt
động của Hội đồng nhân dân cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên - Huế ..................61
KẾT LUẬN .................................................................................................68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................71

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Xã, phường, thị trấn gọi chung là cấp xã, là chính quyền cấp thấp nhất ở
cơ sở có lịch sử lâu dài ở nước ta. Đây là cấp chính quyền có quan hệ trực
tiếp đến từng người dân là cầu nối chuyển tải mọi chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của nhà nước vào cuộc sống.
Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật thì Hội đồng nhân dân
(HĐND) là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu
ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp
trên. HĐND xã, phường, thị trấn gọi chung là HĐND cấp xã là cơ quan
quyền lực Nhà nước ở cấp xã.
Từ trước đến nay qua thực tiễn hoạt động vị trí, vai trò của HĐND trong
hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước ta ngày càng được khẳng định. Tuy
nhiên, trong thời gian những năm gần đây thì hoạt động của HĐND các
cấp đã thể hiện nhiều bất cập, hoạt động còn mang tính hình thức, chưa
đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong đó có HĐND cấp xã.
Tỉnh Thừa Thiên - Huế là tỉnh có tốc độ đô thị hóa khá cao, tiềm năng
phát triển kinh tế - xã hội khá lớn. Hiện nay tỉnh có 152 đơn vị hành chính
cấp xã trong đó có 105 xã và 39 phường và 8 thị trấn. Nhìn chung HĐND
cấp xã tại tỉnh Thừa Thiên - Huế trong những năm qua đã đạt được những
thành tựu nhất định như ban hành các cơ chế cải cách hành chính, thực

hiện giao dịch một cửa liên thông…góp phần đưa tỉnh Thừa Thiên - Huế
từng bước phát triển đi lên. Tuy nhiên HĐND cấp xã tại đây vẫn còn nhiều
bất cập, hạn chế trong tổ chức và hoạt động, chưa đáp ứng với yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Chất lượng hoạt động của HĐND chưa
phản ánh rõ nét qua các kỳ họp, năng lực, trình độ và nhận thức của đại
biểu HĐND chưa xứng tầm với yêu cầu đòi hỏi của nền kinh tế thị trường
và nguyện vọng của cử tri.
3


Với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về phương thức tổ chức và hoạt động
của HĐND nói chung cũng như HĐND cấp xã nói riêng qua đó đưa ra một
số giải pháp hy vọng có thể góp một phần vào công cuộc đổi mới, hoàn
thiện bộ máy cơ quan quyền lực mà Nhà nước ta đang đặt ra trong giai
đoạn hiện nay nên tác giả đã mạnh dạn chọn vấn đề: “Tổ chức và hoạt
động của Hội đồng nhân dân cấp xã – qua thực tiễn ở tỉnh Thừa Thiên
Huế” để làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu.
* Tiến sỹ Văn Tất Thu, Thứ trưởng Bộ Nội vụ bàn về “chủ trương,
quan điểm của Đảng và Nhà nước về tổ chức hợp lý chính quyền địa
phương ở nước ta” đăng trên Tổ chức nhà nước số 12/2008 xây dựng
chính quyền địa phương ở nước ta
* TS. Văn Tất Thu khi bàn về “Cơ sở lý luận tổ chức hợp lý chính
quyền địa phương (không tổ chức hội đồng nhân dân huyện, quận,
phường) ở nước ta hiện nay” đăng trên Tổ chức Nhà nước số 3/2009.
* PGS.TS. Trương Đắc Linh, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí
Minh, Từ hai sắc lệnh số 63/SL và số 77/SL năm 1945 do Chủ tịch Hồ Chí
Minh ký ban hành đến các bản Hiến pháp, pháp luật về Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân và vấn đề đổi mới hiện nay, Hội thảo chính quyền
địa phương Việt Nam – Sự hình thành, phát triển trên cơ sở Hiến pháp,

pháp luật qua các thời kỳ và một số bài học kinh nghiệm.
* PGS. TS. Bùi Xuân Đức, Tổ chức chính quyền địa phương giai
đoạn các Hiến pháp năm 1946, 1959 và 1980 và những bài học kinh
nghiệm, Hội thảo chính quyền địa phương Việt Nam – Sự hình thành, phát
triển trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật qua các thời kỳ và một số bài học
kinh nghiệm.
* GS.TS Nguyễn Đăng Dung, Tổ chức chính quyền địa phương Việt
Nam theo Hiến pháp 1992, Hội thảo chính quyền địa phương Việt Nam –
Sự hình thành, phát triển trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật qua các thời kỳ
và một số bài học kinh nghiệm.
4


* PGS.TS. Nguyễn Cửu Việt, PGS.TS. Trương Đắc Linh, Tổ chức
chính quyền địa phương của một số nước trên thế giới, của Việt Nam qua
các bản Hiến pháp và vấn đề đổi mới tổ chức chính quyền địa phương ở
Việt Nam hiện nay, Hội thảo chính quyền địa phương Việt Nam – Sự hình
thành, phát triển trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật qua các thời kỳ và một số
bài học kinh nghiệm.
* Th.S. Phan Văn Ngọc, Mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và
chính quyền địa phương hiện nay, Hội thảo chính quyền địa phương Việt
Nam – Sự hình thành, phát triển trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật qua các
thời kỳ và một số bài học kinh nghiệm.
* Lê Tư Duyến, Chính quyền điạ phương ở Việt Nam và vấn đề đổi
mới hiện nay, Hội thảo chính quyền địa phương Việt Nam – Sự hình
thành, phát triển trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật qua các thời kỳ và một số
bài học kinh nghiệm.
* Đặng Đình Luyến, Một số vấn đề về thực hiện thí điểm không tổ
chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường, Hội thảo chính quyền địa
phương Việt Nam – Sự hình thành, phát triển trên cơ sở Hiến pháp, pháp

luật qua các thời kỳ và một số bài học kinh nghiệm.
* Đoàn Nhuận, Đánh giá thực trạng các quy định của Luật tổ chức
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân hiện hành, phương hướng hoàn
thiện luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân trong điều kiện
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hội thảo chính
quyền địa phương Việt Nam – Sự hình thành, phát triển trên cơ sở Hiến
pháp, pháp luật qua các thời kỳ và một số bài học kinh nghiệm.
* TS. Vũ Đức Khiển, Một số giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt
động và phát huy toàn diện vai trò của chính quyền địa phương trong giai
đoạn mới, Hội thảo chính quyền địa phương Việt Nam – Sự hình thành,
phát triển trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật qua các thời kỳ và một số bài
học kinh nghiệm.
* Th.S. Phạm Thị Bích Thủy, Giải pháp xây dựng bộ máy chính quyền
nhà nước ở địa phương theo xu hướng tinh gọn và hiệu quả, Hội thảo
5


chính quyền địa phương Việt Nam – Sự hình thành, phát triển trên cơ sở
Hiến pháp, pháp luật qua các thời kỳ và một số bài học kinh nghiệm.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn.
Luận văn có mục đính nghiên cứu một cách hệ thống tổ chức và hoạt
động của HĐND cấp xã. Đồng thời đi sâu nghiên cứu thực trạng tổ chức và
hoạt động HĐND cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên - Huế. Từ đó đánh giá đúng thực
trạng để đưa ra những quan điểm và đề xuất những giải pháp nhằm đổi mới tổ
chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND cấp xã tại tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng, HĐND cấp xã nói chung trên phạm vi cả nước.
Để thực hiện mục đích nghiên cứu nói trên luận văn có những nhiệm vụ
chủ yếu sau:
- Phân tích, nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về tổ chức
và hoạt động của HĐND cấp xã. Làm rõ vị trí, vai trò của HĐND cấp xã
trong tổ chức BMNN và trong hệ thống chính quyền cơ sở.

- Phân tích, đánh giá thực trạng vấn đề tổ chức và hoạt động của HĐND
cấp xã tại ba loại hình đơn vị hành chính là xã, phường và thị trấn tại tỉnh
Thừa Thiên - Huế.
- Đề tài sẽ khai thác trong thực tiễn để cung cấp những số liệu chính xác
về vấn đề tổ chức và hoạt động của HĐND cấp xã tại tỉnh Thừa Thiên - Huế
qua đó có sự đối chiếu với quy định của pháp luật, tìm ra các nguyên nhân và
các giải pháp đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND
cấp xã tại địa phương này. Đề tài sẽ cũng cố thêm cơ sở lý luận và kinh
nghiêm thực tiễn trong vấn đề đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt
động của HĐND cấp xã tại các địa phương khác trong phạm vi cả nước.
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài.
Thông qua việc trình bày một cách cụ thể, toàn diện và có hệ thống về tổ
chức và hoạt động của HĐND cấp xã luận văn góp phần làm rõ về khái niệm,
vị trí, vai trò của HĐND cấp xã, tổ chức và hoạt động của HĐND cấp xã.
Đồng thời, luận văn phân tích những điểm tích cực và hạn chế về cách
thức tổ chức và hoạt động của HĐND cấp xã tại tỉnh Thừa Thiên Huế 6


trong giai đoạn hiện nay. Qua đó rút ra những hạt nhân hợp lý trong tổ
chức và hoạt động của HĐND cấp xã để tiếp tục hoàn thiện thêm cũng như
khắc phục những điểm hạn chế từ đó đưa ra những giải pháp góp phần
hoàn thiện tổ chức và hoạt động của HĐND cấp xã.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
Luận văn tập trung nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của HĐND
cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên - Huế trong giai đoạn hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
+ Không gian: Đề tài nghiên cứu về HĐND cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên - Huế
+ Thời gian: Đề tài nghiên cứu thực trạng tổ chức và hoạt động của
HĐND cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên - Huế trong nhiệm kỳ 2004 - 2011.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu.

Phương pháp nghiên cứu chung có tính chất chủ đạo và nền tảng của
luận văn là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh kết hợp với các phương pháp
nghiên cứu khoa học cụ thể: mô tả luật, phân tích, phân tích quy phạm,
diễn giải và quy nạp, hệ thống hóa, mô hình hóa, tư duy lôgic và phương
pháp lịch sử.
Phương pháp phân tích được áp dụng để phân tích tổ chức và hoạt
động của HĐND cấp xã. Phương pháp diễn giải và quy nạp được áp dụng
nhằm lý giải và rút ra những kết luận cần thiết sau mỗi lần nghiên cứu,
phương pháp lịch sử nhằm xem xét các vấn đề trong luận văn theo nguồn
gốc xuất xứ và quá trình phát triển của nó. Các phương pháp hệ thống hóa,
mô hình hóa, tư duy lôgic nhằm hỗ trợ các phương pháp nói trên để trình
bày các vấn đề có hệ thống, lôgic và dễ hiểu.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm có 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân
dân cấp xã.
7


Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân
cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Chương 3: Những giải pháp đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu quả
hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ
1.1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VÀ TƢ
TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VÈ CƠ QUAN ĐẠI DIỆN CỦA NHÂN DÂN

1.1.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về cơ quan đại diện
của nhân dân
Cơ quan đại diện là một bộ phận không thể thiếu trong tổ chức chính
quyền của Nhà nước vô sản. Việc nghiên cứu về cơ quan đại diện có một ý
nghĩa hết sức quan trọng trong việc xây dựng chính quyền.
Công xã Pari là một thực tiễn sinh động làm sáng tỏ quan điểm Mác Lênin về Nhà nước và pháp luật.
Công xã Pari, lần đầu tiên đã xoá bỏ chế độ đại nghị tư sản, thành lập ra
hệ thống cơ quan đại diện mới, cơ quan đại diện này theo nghĩa của nó vừa là
cơ quan lập pháp, vừa là cơ quan hành pháp. Việc xuất hiện hình thức công xã
Pari có ý nghĩa rất lớn, làm phong phú thêm lý luận Mác - Lênin nói chung và
lý luận về Nhà nước và pháp luật nói riêng, đặc biệt là để xây dựng một học
thuyết hoàn chỉnh về hình thức nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Và một lần nữa, khi nghiên cứu về phong trào công nhân, Lênin đã
phát hiện ra hình thức nhà nước Xô Viết và coi đó là mầm mống của một
hình thức có thể sử dụng để tổ chức nhà nước vô sản ở Nga. Hình thức nhà
nước Xô viết là hình thức được sử dụng để tổ chức và thực hiện chính
quyền của giai cấp vô sản Nga và các nước Cộng hoà khác ở Cap-ca-zơ,
vùng Ban tích; sau này trở thành hình thức của Nhà nước Liên bang Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Xô Viết. Xô Viết xuất hiện lần đầu tiên trong cuộc
8


tổng bãi công của công nhân thành phố Petrograt năm 1905, với tư cách là
hội đồng đại biểu công nhân để đấu tranh đòi lợi ích chính trị và kinh tế
cho giai cấp. Trong quá trình lãnh đạo và xây dựng chính quyền Xô viết,
Lênin đặc biệt nhấn mạnh quyền tham gia quản lý nhà nước của người lao
động, coi:
“Sự tham gia của người lao động vào chính quyền như là mục đích
của chính quyền Xô viết. Và theo Người, việc thu hút được mọi người lao
động tham gia vào quản lý là một trong những ưu thế quyết định của nền

dân chủ xã hôi chủ nghĩa v.v.. Vì rằng, một thiểu số người tức là Đảng
không thể thực hiện được chủ nghĩa xã hội”[33].
Tóm lại, xuất phát từ bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa là một Nhà
nước dân chủ nên việc tổ chức và hoạt động của BMNN xã hội chủ nghĩa
luôn đảm bảo sự tập trung thống nhất quyền lực. Chính vì lẽ đó, V.I.Lênin khi
nói về cơ quan đại diện đã khẳng định: “Chúng ta không thể quan niệm một
nền dân chủ, dẫu là dân chủ vô sản, mà lại không có cơ quan đại diện”[33].
1.1.2. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về cơ quan đại diện của nhân dân.
Năm 1911 Nguyễn Ái Quốc đã rời bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm
đường cứu nước. Người đã đi nhiều nơi trên thế giới như châu Âu, châu
Phi, châu Mỹ, châu Á; tìm hiểu và nghiên cứu kinh nghiệm của một số
nước trên thế giới. Trong khi tìm hiểu, nghiên cứu Chủ tịch Hồ Chí Minh
rất chú ý xem xét những vấn đề về chính quyền nhà nước, vấn đề cơ bản
của mọi cuộc cách mạng xã hội.
Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, để thực thi quyền
làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng Nhà nước Việt Nam mới - Nhà
nước Dân chủ Cộng hoà, ngày 3/9/1945, trong cuộc họp Chính phủ lâm
thời, Hồ Chí Minh đã đề nghị tiến hành tổ chức “càng sớm càng hay cuộc
tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bộ máy chính quyền địa phương cũng thể hiện
rất rõ trong Hiến pháp 1946, đó là thiết chế HĐND, cơ quan đại diện của nhân
dân địa phương. HĐND được thành lập ở cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã.
9


HĐND quyết định những vấn đề thuộc địa phương mình, những kiến nghị ấy
không được trái với chỉ thị cấp trên. Có thể nói, tổ chức chính quyền địa
phương với hình ảnh rõ nhất là thiết chế cơ quan đại diện - HĐND một cơ
quan quyết định những vấn đề có tính địa phương, do nhân dân địa phương
bầu ra và phải chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương.

1.2. KHÁI QUÁT VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ TRONG LỊCH SỬ
LẬP PHÁP CỦA NƢỚC TA
Văn bản pháp luật đầu tiên về HĐND là Sắc lệnh số 63 - SL ngày 22
tháng 11 năm 1945 về tổ chức, quyền hạn, cách làm việc của HĐND và
UBHC có hiệu lực thi hành ngày 8 tháng 12 năm 1945.
Sau đó là các Sắc lệnh sửa đổi Sắc lệnh số 63: Sắc lệnh số 22A - SL
ban hành ngày 18 tháng 02 năm 1946 về việc tổ chức các HĐND và
UBHC do Chính phủ lâm thời ban hành, để sửa đổi điều thứ 65 Sắc lệnh
số 63 ngày 22 tháng 11 năm 1945 tổ chức các HĐND và UBHC; Sắc lệnh
số 10 về tổ chức HĐND và UBHC ở các xã, huyện, tỉnh và kỳ do Chủ tịch
Chính phủ ban hành để sửa đổi Sắc lệnh số 63 ngày 22 tháng 11 năm 1945
tổ chức HĐND và UBHC ở các xã, huyện, tỉnh và kỳ.
Tiếp đến là Hiến pháp 1946 được Quốc hội thông qua ngày 9/11/1946.
Hiến pháp 1946 tuy chưa đưa ra một định nghĩa cụ thể về HĐND nhưng
vai trò quan trọng của HĐND, mối quan hệ giữa HĐND với cấp trên cũng
đã được xác định trong Điều thứ 59 “Hội đồng nhân dân quyết nghị về
những vấn đề thuộc địa phương mình. Những nghị quyết ấy không được
trái với chỉ thị của các cấp trên”.
Ngày 29 tháng 4 năm 1958, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa đã lần đầu tiên ban hành một đạo luật quy định về cách thức tổ chức
HĐND, đó là Luật tổ chức Chính quyền địa phương. Theo quy định tại
Điều 3 Luật tổ chức chính quyền địa phương thì “Hội đồng nhân dân các
cấp là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, do nhân dân bầu ra. Số

10


lượng đại biểu Hội đồng nhân dân mỗi cấp và cách thức bầu cử do luật
bầu cử quy định”.

Với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ 1954, hoà bình được lập lại ở
miền Bắc, miền Nam còn nằm dưới sự kiểm soát của đế quốc Mỹ.
Để đáp ứng và phục vụ cho yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng trong tình
hình mới Quốc hội đã quyết định sửa đổi Hiến pháp 1946. Sau một thời
gian dài nghiên cứu, soạn thảo công phu, Quốc hội nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa đã ban hành Hiến pháp 1959 để thay thế Hiến pháp 1946.
Trên cơ sở Hiến pháp 1959, Quốc hội đã thông qua Luật tổ chức HĐND
và UBHC các cấp tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá II ngày 27 tháng 10 năm
1962 (hiệu lực thi hành từ 11/11/1962 đến 09/7/1983).
Ngày 30/12/1980 Quốc hội đã thông qua Hiến pháp 1980 làm cơ sở cho
việc xây dựng xã hội chủ nghĩa trong phạm vi cả nước, xây dựng và cũng
cố BMNN thống nhất trong đó có tổ chức chính quyền địa phương. Thiết
chế HĐND được quy định tại chương IX, Hiến pháp 1980.
Sau khi Hiến pháp 1980 ra đời để cụ thể hoá các quy định của Hiến
pháp 1980 về thiết chế HĐND, ngày 30 tháng 6 năm 1983, Quốc hội nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VII, kỳ họp thứ 5, đã thông qua
Luật tổ chức HĐND và UBND 1983, thay thế Luật tổ chức HĐND và
UBHC các cấp ngày 27 tháng 10 năm 1962. Những quy định trước đây trái
với Luật này đều bãi bỏ.
Để phát huy hơn nữa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường hiệu
lực của cơ quan nhà nước ở địa phương tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá
VIII đã thông qua Luật tổ chức HĐND và UBND ngày 30 tháng 6 năm
1989 (thay thế Luật tổ chức HĐND và UBND năm 1983).
Từ năm 1986, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã được đề xướng
thực hiện. Công cuộc đổi mới đã đặt ra yêu cầu phải “đổi mới” pháp luật để
tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện đổi mới toàn diện trên mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội, trong đó đổi mới tổ chức và hoạt động của BMNN là hết sức
cần thiết. Hiến pháp 1992 được xây dựng để đáp ứng nhu cầu đó. Cũng như
11



Hiến pháp 1980, thiết chế HĐND được quy định tại chương IX. Việc chia đơn
vị hành chính vẫn giữ như trong Hiến pháp 1980.
Đến ngày 26/11/2003 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khoá XI, kỳ họp thứ 4 đã thông qua Luật tổ chức HĐND và UBND
2003. Trong văn bản này thì tổ chức và hoạt động cũng như nhiệm vụ, quyền
hạn của HĐND các cấp đã được quy định một cách cụ thể và rõ ràng.1
1.3. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ TỔ
CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ
1.3.1 Vị trí, tính chất, chức năng của Hội đồng nhân dân cấp xã.
Vị trí, tính chất và chức năng của HĐND được quy định trong Điều
119, Điều 120 Hiến pháp 1992 và cụ thể hoá trong Luật tổ chức HĐND và
UBND năm 2003.
Theo quy định tại Điều 1 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 thì:
“Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương,
đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân
dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và
cơ quan nhà nước cấp trên.
Hội đồng nhân dân quyết định những chủ trương, biện pháp quan
trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa
phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, không ngừng cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn
nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước.
Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường
trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát
nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân
dân; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương”.
1.3.2 Nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp xã
Nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND được ghi nhận trong Hiến pháp 1992 và

Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003. Nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND
12


từng cấp được quy định khá cụ thể trong Luật tổ chức HĐND và UBND, trong
đó nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND cấp xã cũng được đề cập đến một cách rõ
ràng trong từng lĩnh vực, trong đó có sự phân biệt giữa nhiệm vụ, quyền hạn của
HĐND xã, thị trấn và nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND phường.
1.3.2.1 Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân xã, thị trấn
Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân xã, thị trấn được quy
định rõ trong các lĩnh vực đó là: trong lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực giáo dục,
y tế, xã hội và đời sống, văn hoá, thông tin, thể dục thể thao, bảo vệ tài
nguyên, môi trường, lĩnh vực quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội,
việc thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo, lĩnh vực thi hành
pháp luật và trong việc xây dựng chính quyền địa phương.
1.3.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân phƣờng
Ngoài những nhiệm vụ, quyền hạn như của HĐND xã, thị trấn đã nêu
ở trên, HĐND phường còn có thêm những nhiệm vụ, quyền hạn như sau:
- Quyết định biện pháp thực hiện thống nhất kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội và quy hoạch đô thị; thực hiện nhiệm vụ giải phóng mặt bằng;
bảo đảm trật tự giao thông đô thị, trật tự xây dựng trên địa bàn phường;
- Quyết định biện pháp xây dựng nếp sống văn minh đô thị; biện pháp
phòng, chống cháy, nổ, giữ gìn vệ sinh; bảo vệ môi trường, trật tự công
cộng và cảnh quan đô thị trong phạm vi quản lý;
- Quyết định biện pháp quản lý dân cư và tổ chức đời sống nhân dân
trên địa bàn phường.
1.3.3. Thƣờng trực Hội đồng nhân dân cấp xã
Thường trực HĐND cấp xã do HĐND cấp xã bầu ra tại kỳ họp HĐND trong
số các đại biểu HĐND. Thường trực của HĐND cấp xã bao gồm: Chủ tịch, Phó
Chủ tịch HĐND. Các thành viên của UBND cấp xã không thể đồng thời là thành

viên của Thường trực HĐND cấp xã. Kết quả bầu các thành viên của Thường trực
HĐND cấp xã phải được Thường trực HĐND cấp huyện phê chuẩn.
13


1.3.4. Kỳ họp của Hội đồng nhân dân cấp xã
Kỳ họp của HĐND chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong hoạt động
của HĐND. Bởi vì đây là hình thức hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất
của HĐND. HĐND làm việc tập trung và có hiệu quả nhất trong các kỳ
họp của mình. Tại kỳ họp HĐND thảo luận dân chủ và quyết định theo đa
số các công việc quan trọng của địa phương; bầu ra Chủ tịch, Phó Chủ tịch
HĐND, UBND, Thường trực HĐND. Các quyết định của HĐND được thể
hiện dưới hình thức nghị quyết.
HĐND thường lệ mỗi năm họp hai kỳ. Ngoài kỳ họp thường lệ,
HĐND tổ chức các kỳ họp chuyên đề hoặc kỳ họp bất thường theo đề nghị
của Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND cùng cấp hoặc khi có ít nhất một
phần ba tổng số đại biểu HĐND cùng cấp yêu cầu. Thường trực HĐND
quyết định triệu tập kỳ họp thường lệ của HĐND chậm nhất là hai mươi
ngày, kỳ họp chuyên đề hoặc bất thường chậm nhất là mười ngày trước
ngày khai mạc kỳ họp.
HĐND họp công khai. Khi cần thiết, HĐND quyết định họp kín theo
đề nghị của Chủ tọa cuộc họp hoặc của Chủ tịch UBND cùng cấp.
Ngày họp, nơi họp và chương trình của kỳ họp HĐND phải được
thông báo cho nhân dân biết, chậm nhất là năm ngày, trước ngày khai mạc
kỳ họp.
Kỳ họp HĐND được tiến hành khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại
biểu HĐND tham gia.
Đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND cấp trên đã được bầu ở địa
phương, Chủ tịch Uỷ ban MTTQ Việt Nam, người đứng đầu các đoàn thể
nhân dân ở địa phương và đại diện cử tri được mời tham dự kỳ họp

HĐND, được phát biểu ý kiến nhưng không biểu quyết.
Tài liệu cần thiết của kỳ họp HĐND phải được gửi đến đại biểu
HĐND chậm nhất là năm ngày trước ngày khai mạc kỳ họp.
14


1.3.5. Đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã
Đại biểu HĐND cấp xã được nhân dân ở cấp xã tín nhiệm bầu ra là
người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở cấp xã. Vì vậy, đại
biểu HĐND phải gương mẫu chấp hành chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước; tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chính sách,
pháp luật và tham gia vào việc quản lý nhà nước.
1.4. MỐI QUAN HỆ GIỮA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ
VỚI ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP XÃ VÀ VỚI CÁC TỔ CHỨC
CHÍNH TRỊ, CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI Ở ĐỊA PHƢƠNG
1.4.1. Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân cấp xã với Ủy ban
nhân dân cấp xã
Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân cấp xã với Ủy ban nhân dân cấp
xã được quy định tại Điều 2 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003.
Điều 2 Luật tổ chức HĐND và UBND quy định: “Uỷ ban nhân dân do
Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng
nhân dân cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp trên.
UBND cấp xã chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản
của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND cùng cấp nhằm bảo
đảm thực hiện chủ trương, biện pháp phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc
phòng, an ninh và thực hiện các chính sách khác trên địa bàn”.
1.4.2. Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân cấp xã với Đảng ủy cấp xã
Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội là một nguyên tắc đã được ghi
nhận tại Điều 4 Hiến pháp 1992: “Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên

phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo Chủ
nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà
nước và xã hội”.
15


1.4.3. Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân cấp xã với Mặt trận tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận tổ quốc Việt Nam
Trong hệ thống chính trị nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
MTTQ Việt Nam có vị trí, vai trò hết sức quan trọng. Được quy định tại
Điều 9 Hiến Pháp 1992 và Điều 9 Luật tổ chức HĐND và UBND 2003.
“Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị
của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân,
tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây
dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi
ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ,
nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ
quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức Nhà nước”.
Điều 9 Luật tổ chức HĐND và UBND 2003 cũng quy định:
“Trong hoạt động của mình, Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng
nhân dân, Uỷ ban nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội
đồng nhân dân phối hợp chặt chẽ với Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác
chăm lo và bảo vệ lợi ích của nhân dân, vận động nhân dân tham gia vào việc
quản lý nhà nước và thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước”[9].
Mối quan hệ giữa HĐND cấp xã và MTTQ Việt Nam và các tổ chức
thành viên ở xã là quan hệ phối hợp. HĐND cấp xã phối hợp chặt chẽ với
MTTQ và các tổ chức thành viên của Mặt trận ở địa phương xây dựng mối
quan hệ làm việc để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Mỗi năm hai lần

vào giữa năm và cuối năm, Chủ tịch HĐND cấp xã thông báo bằng văn
bản đến Uỷ ban MTTQ xã về tình hình hoạt động của HĐND cấp mình và
nêu những kiến nghị của HĐND với MTTQ. Trong kỳ họp thường lệ của
HĐND, Uỷ ban MTTQ báo cáo về hoạt động của MTTQ xã tham gia xây
dựng chính quyền, về những ý kiến, kiến nghị, kiến nghị đối với HĐND và
với đại biểu HĐND cấp xã.

16


Mối quan hệ phối hợp HĐND và MTTQ đã được quy định tại Điều
125 Hiến pháp 1992:
“Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu các đoàn
thể nhân dân ở địa phương được mời tham dự các kỳ họp Hội đồng nhân dân và
được mời tham dự hội nghị Uỷ ban nhân dân cùng cấp khi bàn các vấn đề có
liên quan. Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân thực hiện chế độ thông báo tình
hình mọi mặt của địa phương cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân,
lắng nghe ý kiến, kiến nghị của các tổ chức này về xây dựng chính quyền và phát
triển kinh tế - xã hội ở địa phương; phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân động viên nhân dân cùng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ kinh tế
- xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương”[12].
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN CẤP XÃ Ở TỈNH THỪA THIÊN - HUẾ
2.1. ĐẶC ĐIỂM VỀ TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH
THỪA THIÊN – HUẾ
Nằm giữa miền Trung Việt Nam, Thừa Thiên - Huế có diện tích
5.009,2km, Bắc giáp tỉnh Quảng Trị, Nam giáp thành phố Đà Nẵng, Đông
giáp biển Đông, Tây có dãy Trường Sơn hùng vĩ và giáp nước bạn Lào.
Thừa Thiên - Huế hiện có 8 huyện và thành phố Huế, cố đô của Việt

Nam, đô thị loại 2, một trung tâm văn hóa, giáo dục, y tế và du lịch quan
trọng của cả nước. Về tổ chức hành chính, Thừa Thiên - Huế có 8 huyện
và thành phố Huế, với 152 xã, phường, thị trấn.
Với vị trí địa lý thuận lợi cùng với những ưu thế về nguồn tài nguyên
thiên nhiên phong phú là những tiền đề quan trọng để Thừa Thiên - Huế
xây dựng cho mình định hướng phát triển riêng, phát huy hiệu quả thế và
lực của địa phương để giữ vững bước tiến vào thế kỷ XXI.
Trên đây là vài nét về tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Thừa Thiên - Huế,
bên cạnh những thành tựu đạt được còn có những khó khăn, yếu kém tồn
17


tại. Tuy nhiên dưới sự lãnh đạo của các cấp chính quyền cùng với sự giúp
đỡ của nhân dân trong tương lai không xa tình hình kinh tế - xã hội của
tỉnh sẽ có những bước phát triển và thành quả nhất định trên con đường
phấn đấu để đưa tỉnh Thừa Thiên – Huế trở thành thành phố trục thuộc
trung ương trong tương lai không xa.
2.2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI
ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ Ở TỈNH THỪA THIÊN – HUẾ
2.2.1. Thực trạng tổ chức của Hội đồng nhân dân cấp xã tại tỉnh
Thừa Thiên - Huế.
Theo quy định thì trong cơ cấu HĐND cấp xã không có các Ban của
HĐND, văn phòng HĐND cho nên trong cơ cấu HĐND cấp xã ở tỉnh
Thừa Thiên Huế cũng không có các ban của HĐND, văn phòng HĐND
như ở cấp tỉnh và cấp huyện mà chỉ có Thường trực HĐND.
Thường trực HĐND cấp xã gồm: Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND. Chủ
tịch HĐND thường kiêm nhiệm Bí thư Đảng uỷ cấp xã. Phó Chủ tịch
HĐND hoạt động chuyên trách.
HĐND cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên - Huế bao gồm: HĐND phường,
HĐND xã và HĐND thị trấn, có 105 xã, 8 thị trấn và 39 phường với tổng

số đại biểu HĐND là 3835 người. Trong số 3835 đại biểu có 3009 đại biểu
trong Đảng, 826 đại biểu ngoài Đảng chiếm trên 21%, 3100 đại biểu nam,
735 đại biểu nữ chiếm trên 19%, độ tuổi trung bình là 42. Về trình độ đại
biểu được thể hiện với những số liệu như sau:
- Về trình độ văn hóa: 144 đại biểu có trình độ tiểu học, 930 đại biểu có
trình độ trung học cơ sở, 2761 đại biểu có trình độ trung học phổ thông [1, 1].
- Về trình độ chuyên môn: 1659 đại biểu chưa qua đào tạo, 196 đại
biểu có trình độ sơ cấp, 1157 đại biểu có trình độ trung cấp, 820 có trình
độ cao đẳng, đại học, 3 đại biểu có trình độ sau đại học[1, 1].
- Về trình độ lý luận chính trị: 1924 đại biểu chưa qua đào tạo, 372 đại
biểu có trình độ sơ cấp, 1440 đại biểu có trình độ trung cấp, 99 đại biểu có
trình độ cao cấp, cử nhân [1, 1].
18


2.2.2. Thực trạng hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã tại tỉnh
Thừa Thiên - Huế.
2.2.2.1. Hoạt động của các kỳ họp Hội đồng nhân dân cấp xã.
Xác định đúng tầm quan trọng của kỳ họp là hình thức hoạt động chủ
yếu của HĐND, trong nhiệm kỳ qua HĐND cấp xã tại 152 xã, phường, thị
trấn tại tỉnh Thừa Thiên - Huế đã tiến hành tổ chức được 2280 kỳ họp
trong đó có 153 kỳ họp bất thường.
Qua tìm hiểu thực tế hoạt động của HĐND cấp xã tại tỉnh Thừa Thiên
- Huế cho thấy trong nhiệm kỳ 2004 – 2011 tổng số nghị quyết được ban
hành 4560 nghị quyết, chủ yếu là các nghị quyết về phát triển kinh tế - xã
hội, nghị quyết về phê chuẩn quyết toán thu chi ngân sách ngoài ra còn có
một số nghị quyết về kế hoạch sử dụng đất, phân bổ ngân sách.
2.2.2.2. Hoạt động của Thƣờng trực Hội đồng nhân dân cấp xã
Thường trực HĐND gồm Chủ tịch và Phó Chủ tịch HĐND cấp xã.
Trong nhiệm kỳ 2004 - 2011 Thường trực HĐND cấp xã đã khẳng định

được vị trí, vai trò của mình như: hoạt động thường xuyên, đảm bảo việc
tổ chức các hoạt động của HĐND giữa hai kỳ họp, đảm bảo sự sự giám sát
thường xuyên của HĐND và UBND, Chủ tịch HĐND cấp xã đã phối hợp
với UBND trong việc chuẩn bị các nội dung, điều kiện cho kỳ họp, thực
hiện tốt nhiệm vụ chủ tọa, điều khiển các kỳ họp, thực hiện tốt nhiệm vụ
của chủ tọa, điều khiển các kỳ họp, đảm bảo để các kỳ họp của HĐND
thực hiện được các chương trình mà HĐND đề ra, phát huy tính dân chủ
trong mỗi kỳ họp.
2.2.2.3. Hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã
Cho đến nay các đại biểu HĐND cấp xã đã thể hiện tinh thần trách
nhiệm, tích cực trong hoạt động giữ gìn phẩm chất đạo đức được nhân dân
tín nhiệm. Nhiều đại biểu đã thực hiện tốt việc tiếp xúc cử tri, thu thập
phản ánh đầy đủ các ý kiến, kiến nghị của cử tri đối với HĐND.
Tuy đã có nhiều cố gắng nhưng trong hoạt động của đại biểu HĐND
cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên - Huế vẫn còn nhiều tồn tại, vướng mắc. Các đại
19


biểu dành rất ít thời gian cho nhiệm vụ đại biểu của mình đặc biệt là trong
công việc tiếp xúc cử tri vì vậy hiệu quả của công việc tiếp xúc cử tri chưa
cao. Trong kỳ họp vẫn còn tình trạng nhiều đại biểu hầu không phát biểu ý
kiến thậm chí có những đại biểu không phát biểu lần nào trong suốt nhiệm
kỳ, theo thống kê thì số đại biểu chưa phát biểu chiếm khoảng 9,86%. Hầu
như đại biểu tham gia thảo luận tại các kỳ họp là các đại biểu giữ chức vụ
chủ chốt lãnh đạo các ban ngành đoàn thể, những đại biểu ít phát biểu hoặc
không phát biểu ý kiến là do hạn chế về trình độ năng lực, nghiên cứu tài
liệu chưa sâu, hoặc thiếu mạnh dạn, vẫn còn một số đại biểu HĐND cấp xã
vắng mặt ở các kỳ họp và thực hiện chức năng giám sát, kiểm tra, đôn đốc
cử tri còn hạn chế.
2.2.2.4. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã

Nhiệm kỳ qua, thường trực HĐND đã tổ chức 5016 đợt giám sát
chuyên đề trên nhiều lĩnh vực trọng yếu. Qua giám sát đã phát hiện và kiến
nghị nhiều vấn ðề quan trọng với HÐND và các ngành chức nãng ðể ðiều
chỉnh kịp thời những nhýợc ðiểm, khuyết ðiểm trong quá trình thực hiện,
góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác điều hành, quản lý, thúc
đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.
Chƣơng 3
NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ Ở
TỈNH THỪA THIÊN - HUẾ
3.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP
XÃ Ở TỈNH THỪA THIÊN – HUẾ
Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, Đảng và Nhà nước rất
quan tâm đến vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà
nước, trong đó đặc biệt quan tâm tới tổ chức và hoạt động của HĐND, với
mục đích làm cho HĐND thực hiện đúng và đầy đủ những chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
20


Trong những năm gần đây trong xu thế và chủ trương chung của Đảng
và Nhà nước hoạt động của HĐND các cấp có nhiều chuyển biến tích cực.
Trước hết đó là vai trò kiểm tra, giám sát của HĐND đối với UBND và các
cơ quan đơn vị trên địa bàn địa phương liên quan đến nhiều lĩnh vực quan
trọng như y tế, giáo dục, an sinh xã hội.
Trong nhiều năm, khi tổng kết đánh giá hoạt động của HĐND cấp cơ
sở, nhất là cấp xã thì chúng ta đều thừa nhận tình trạng các HĐND hoạt
động còn kém hiệu quả.
Với tư cách là cơ quan quyền lực cao nhất ở cơ sở, trong suốt quá trình

hoạt động HĐND cấp xã luôn đổi mới và từng bước hoàn thiện, đóng góp
một vai trò hết sức quan trọng trong tổ chức bộ máy nhà nước. Tuy nhiên
trong thực tiễn tổ chức và hoạt động của HĐND hiện nay do nhiều nguyên
nhân vẫn còn nhiều tồn tại nhất định và HĐND cấp xã tại tỉnh Thừa Thiên
- Huế cũng không tránh khỏi điều đó.
Trước thực tế đó HĐND các cấp cần phải kiện toàn và cũng cố để bảo
đảm thực hiện tốt nhiệm vụ và thẩm quyền đã được giao phó. Xây dựng
HĐND có thực quyền để thực hiện đầy đủ vai trò là cơ quan đại diện của
nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Nâng cao hiệu quả
hoạt động trên các mặt: kỳ họp, hoạt động của Thường trực HĐND, hoạt
động của đại biểu HĐND để đảm bảo quyền dân chủ, quyền tham gia quản
lý của nhân dân đối với nhà nước và xã hội.
Vì những lý do trên đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động
của HĐND cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên - Huế là một vấn đề hết sức cần thiết.
3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ Ở
TỈNH THỪA THIÊN – HUẾ
Chúng ta cần nhận thức rằng để nâng cao hiệu quả trong tổ chức và
hoạt động của HĐND nói chung HĐND cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên - Huế
nói riêng cần phải có những giải pháp đổi mới một cách thống nhất. Đổi
mới tổ chức và hoạt động của HĐND phải đảm bảo nguyên tắc tập trung
dân chủ. HĐND thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo Hiến pháp,
luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa và
21


chống các biểu hiện quan liêu hành chính cửa quyền, tham nhũng lãng phí
vô trách nhiệm và các biểu hiện tiêu cực khác của cán bộ công chức trong
bộ máy chính quyền địa phương. Mặt khác cần phát huy tính chủ động và

trách nhiệm của chính quyền địa phương đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã
hôi, giáo dục, y tế, chăm lo đời sống nhân dân địa phương đáp ứng nhu cầu
bức thiết của nhân dân địa phương.
Ở nước ta hiện nay một số vấn đề về tổ chức của HĐND vẫn chưa
được làm rõ và chưa có định hướng đổi mới một cách căn bản nhất. Hiện
nay HĐND cấp xã và cấp huyện hoạt động chưa thật hiệu quả và đang
đứng trước thực tế là phải xóa bỏ hình thức hoạt động của HĐND cấp
huyện và cấp xã. Chủ tịch UBND huyện do chủ tịch UBND tỉnh bổ nhiệm
còn ở cấp xã chức danh Chủ tịch UBND xã do nhân dân trực tiếp bầu ra.
Trước thực tế đó HĐND cấp xã phải được kiện toàn và củng cố để
đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ và thẩm quyền đã được giao phó. Xây
dựng HĐND có thực quyền để thực hiện đầy đủ vai trò là cơ quan đại diện
của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Nâng cao hiệu
quả hoạt động trên các mặt: kỳ họp, hoạt động của Thường trực HĐND,
hoạt động của đại biểu HĐND để đảm bảo quyền dân chủ, quyền tham gia
quản lý của nhân dân đối với nhà nước.
Để đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên
- Huế trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước hiện nay tôi
xin mạnh dạn đề xuất một số giải pháp sau:
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt
động của Hội đồng nhân dân cấp xã.
3.2.1.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến tổ chức của
Hội đồng nhân dân cấp xã.
3.2.1.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động
của Hội đồng nhân dân cấp xã.
* Hoàn thiện những quy định của pháp luật liên quan đến kỳ họp Hội
đồng nhân dân cấp xã
* Hoàn thiện những quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động
của Thường trực Hội đồng nhân dân cấp xã
22



* Hoàn thiện những quy định của pháp luật liên quan đến đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp xã
* Hoàn thiện những quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động
giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã
3.2.2. Những giải pháp cụ thể đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu
quả hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên - Huế
3.2.2.1. Những giải pháp cụ thể đổi mới tổ chức của Hội đồng
nhân dân cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên - Huế
3.2.2.2. Những giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả hoạt động của
Hội đồng nhân dân cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên - Huế
* Những giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả hoạt động của các kỳ họp
Hội đồng nhân dân cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên - Huế
* Những giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả hoạt động của Thường
trực Hội đồng nhân dân cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên - Huế
* Những giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả hoạt động của đại biểu
Hội đồng nhân dân cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên - Huế
* Những giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của
Hội đồng nhân dân cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên - Huế
KẾT LUẬN
. Hơn nửa thế kỷ tồn tại và phát triển HĐND nói chung, HĐND cấp xã
tại tỉnh Thừa Thiên - Huế nói riêng đã nỗ lực để hoàn thành nhiệm vụ của
mình, đề ra những quyết định, giải pháp tích cực vào việc phát triển kinh tế
- xã hội của tỉnh, góp phần vào việc phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa,
đảm bảo nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân.
Tuy nhiên những gì mà HĐND cấp xã đã làm được chưa đáp ứng với
nhu cầu thực tế và và xu hướng phát triển của thời đại. Bước sang thời đại
mới trước nhu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước trước sự phát
triển và tiến bộ của khoa học kỹ thuật và sự thay đổi phương pháp tư duy,

phương pháp luận khoa học trong các lĩnh vực hoạt động của xã hội, trước
sự đổi mới một cách sâu sắc và toàn diện trong mọi lĩnh vực của đời sống
kinh tế - xã hội, để thích ứng với nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
23


×