1
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Lac (
̣ Arachis hypogaea L.) la cây công nghiêp ngăn ngay, cây th
̀
̣
́
̀
ực phâm co gia
̉
́ ́
tri dinh d
̣
ương cao, trong hat lac co ch
̃
̣ ̣
́ ưa 40 60% lipid, 26 34% protein, 6
́
25%
gluxit, 8 loai axit amin không thay thê va cac loai vitamin hoa tan lam nguyên liêu
̣
́ ̀ ́
̣
̀
̀
̣
quan trong trong
̣
công nghiêp
̣ chế biên.
́ Khả năng cô ́ đinh
̣ đam
̣ cuả cać vi khuân
̉
Rhizobium sông công sinh trong nôt sân cua cây lac là đ
́
̣
́ ̀ ̉
̣
ặc tính tuyệt vời làm lạc trở
thành cây co kha năng bao vê, duy tri va c
́ ̉
̉
̣
̀ ̀ ải thiện đô phi nhiêu cua đât r
̣
̀
̉
́ ất hiệu quả.
Gieo trông lac cai thiên đ
̀
̣
̉
̣ ược đô pH, ham l
̣
̀ ượng mun va đô phi nhiêu cua đât, gop
̀ ̀ ̣
̀
̉
́
́
phân duy tri va tăng năng suât, san l
̀
̀ ̀
́ ̉ ượng cac cây trông khac, tăng hê sô s
́
̀
́
̣ ́ ử dung đât
̣
́
va hiêu qua kinh tê trên môt đ
̀ ̣
̉
́
̣ ơn vi diên tich. Đông th
̣
̣ ́
̀
ời cung la cây tao ra tinh đa
̃
̀
̣
́
dang trong san xuât nông nghiêp. Vi vây, lac la cây trông quan trong trong hê thông
̣
̉
́
̣
̀ ̣
̣
̀
̀
̣
̣
́
xen canh, luân canh vơi cac cây trông khac, đăc biêt co y nghia to l
́ ́
̀
́
̣
̣
́ ́
̃
ơn trong viêc cai
́
̣
̉
tao đât đôi v
̣
́ ́ ới cac loai đât ngheo dinh d
́
̣ ́
̀
ưỡng.
Ở Việt Nam nói chung và các tỉnh miền Trung nói riêng, lạc chủ yếu được
canh tác trên các loại đất nghèo dinh dưỡng. Diện tích trồng lạc ở Thừa Thiên Huế
thường tập trung trên một số loại đất chính như đất cát ven biển, đất xám bạc màu
và đất phù sa. Gần đây, cây lạc được gieo trồng ở đất vàng nhạt trên đá cát thuộc
các huyện Nam Đông, A Lưới và một số xã thuộc huyện Hương Trà nhưng với
diện tích rất ít. Trong 5 nhóm đất đồng bằng của tỉnh Thừa Thừa Thiên thì đất cát
ven biển, chiếm tỷ trọng lớn nhất, với diện tích là 19.604 ha và tiếp theo là đất xám
bạc màu, với diện tích là 800 ha. Hai loại đất này chiếm tỷ lệ khoảng 80% so với
tổng diện tích trồng lạc của toàn tỉnh (Sở NN và PTNT Thừa Thiên Huế, 2013).
Lạc được canh tác trên đất nghèo dinh dưỡng, đầu tư phân chuồng ngày càng hạn
chế, điều kiện thời tiết không ưu đãi nên năng suất lạc tại tỉnh Thừa Thiên Huế là
thấp hơn so với các tỉnh khác (< 20,4 tạ/ha). Tuy nhiên, năng suất trên còn thấp so
với tiềm năng năng suất của cây lạc và các vùng khác trong cả nước như Trà Vinh
(51,1 tạ/ha), Đồng Tháp (35,0 tạ/ha) Long An (31,5 tạ/ha) (Niên giám thống kê
ngành nông nghiệp, 2014). Trong khi lạc được xem la cây công nghiêp ngăn ngay
̀
̣
́
̀
chu l
̉ ực trong cơ câu cây trông cua tinh.
́
̀
̉ ̉ Vì vậy, cần được quan tâm nghiên cứu các
2
biện pháp kỹ thuật, nhằm nâng cao năng suất và hướng tới sản xuất lạc bền vững
và thân thiện với môi trường.
Để tăng năng suất và sản lượng cây trồng thì các yếu tố như giống, phân bón,
kỹ thuật canh tác,... đóng vai trò quan trọng, trong đó phân bón được xem là nhân tố
chính. Tuy nhiên, việc lạm dụng sử dụng phân hóa học lâu dài sẽ dẫn đến đầu tư
chi phí cao, nông dân thu được lợi nhuận thấp, đồng thời gây phát thải khí N2O càng
nhiều. Mặt khác, sự dư thừa phân hóa học gây ô nhiễm môi trường đất, nước và
ảnh hưởng đến sức khỏe con người [153]. Vấn đề tăng vụ trong sản xuất làm cho
nhiều diện tích đất canh tác bị ô nhiễm, độ phì nhiêu và sức sản xuất của đất sẽ
giảm, gây hiện tượng suy thoái dinh dưỡng. Ở các nước công nghiệp phát triển đã
bón quá nhiều phân hóa học khiến môi trường bị suy thoái, chất lượng sản phẩm
giảm sút [89].
Nghiên cứu tìm ra những biện pháp canh tác hiệu quả mà vẫn giữ được năng
suất cao, đồng thời cải thiện độ phì nhiêu của đất và an toàn cho môi trường là rất
cần thiết. Bên cạnh việc tìm ra những giống cây trồng mới có năng suất cao, thì
người ta khuyến cáo sử dụng phân hữu cơ, biện pháp này có thể tận dụng được tất
cả những phế phẩm trong sản xuất nông nghiệp để làm phân hữu cơ như rơm rạ,
phân chuồng, tàn dư thực vật… Sử dụng phân hữu cơ giúp giảm lượng phân hóa
học, cải thiện tốt độ phì nhiêu đất. Phân hữu cơ không những làm tăng năng suất
cây trồng mà còn có khả năng làm tăng hiệu lực của phân hóa học, cải tạo và nâng
cao độ phì của đất [65].
Vi sinh vật có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng chất
dinh dưỡng của cây trồng, tăng cường khả năng giữ ẩm, khả năng cố định nitơ,
phân giải phốt phát khó tan, hòa tan kali… của đất qua đó giúp cây trồng sinh
trưởng, phát triển tốt hơn và góp phần làm tăng năng suất, chất lượng nông sản
cũng như hạn chế phân bón, thuốc bảo vệ thực vật hóa học. Nhưng cho đến nay
chưa có chế phẩm sinh học chuyên dụng cho cây lạc tại Thừa Thiên Huế được
nghiên cứu phát triển.
Vì vậy, việc nghiên cứu và ứng dụng bón phân hữu cơ và các chế phẩm sinh
học trong sản xuất nông nghiệp nhằm hạn chế phân bón hóa học, góp phần bảo vệ
môi trường và xây dựng một nền nông nghiệp phát triển bền vững. Điều này thật
sự rất cần thiết và có ý nghĩa to lớn trong sản xuất nông nghiệp. Ở Thừa Thiên
3
Huế nói riêng và miền Trung nói chung, việc ứng dụng phân hữu cơ và các sản
phẩm sinh học chưa được rộng rãi, thậm chí còn rất hạn chế trong bối cảnh biến
đổi khí hậu hướng đến sản xuất nông nghiệp bền vững và an toàn.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, đề tài: “Nghiên cứu hiệu quả sử dụng
phân hữu cơ với chế phẩm Trichoderma và Pseudomonas cho cây lạc tại Thừa
Thiên Huế” được thực hiện nhằm chọn được công thức phân bón có khả năng
cung cấp chất dinh dưỡng cho đất, cây trồng và góp phần nâng cao hiệu quả sản
xuất lạc tại Thừa Thiên Huế.
2. MỤC ĐÍCH VÀ MỤC TIÊU ĐỀ TÀI
Mục đích của đề tài
Xác định được ảnh hưởng của phân hữu cơ với các chế phẩm sinh học đến
cây lạc, làm cơ sở cho việc xây dựng quy trình kỹ thuật hợp lý nhằm nâng cao năng
suất lạc và phát triển sản xuất lạc bền vững theo hướng sinh học.
Mục tiêu của đề tài
Đánh giá được hiệu quả sử dụng của phân hữu cơ với chế phẩm Trichoderma
và Pseudomonas cho cây lạc trên đất cát ven biển và đất xám bạc màu nhằm nâng
cao hiệu quả sản xuất lạc tại tỉnh Thừa Thiên Huế.
3. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN
Ý nghĩa khoa học
Cung cấp các dẫn liệu khoa học về hiệu quả sử dụng phân hữu cơ với chế
phẩm Trichoderma và Pseudomonas đến sinh trưởng, phát triển, năng suất lạc và
hiệu quả sản xuất lạc trên đất cát ven biển và đất xám bạc màu.
Là nguồn tài liệu tham khảo, thông tin mới làm cơ sở cho việc sử dụng chế
phẩm sinh học cho cây lạc trên đất cát ven biển và đất xám bạc màu.
Ý nghĩa thực tiễn
Góp phần ứng dụng phân hữu cơ và chế phẩm sinh học có ích trong sản xuất
nông nghiệp bền vững.
Những kết quả nghiên cứu của đề tài đạt được sẽ là những tiến bộ khoa học
mới làm cơ sở sản xuất lạc bền vững theo hướng sinh học ở Thừa Thiên Huế và
4
các địa phương khác.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Nghiên cứu ảnh hưởng của phân hữu cơ với chế phẩm Trichoderma và
Pseudomonas cho cây lạc trong chậu trên đất cát ven biển và đất xám bạc màu tại
nhà lưới Khoa Nông học, Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế để xác định các
công thức có tiềm năng cho sinh trưởng và năng suất, nhằm có cơ sở tiếp tục
nghiên cứu trong điều kiện đồng ruộng. Thời gian tiến hành thí nghiệm trong nhà
lưới từ tháng 01 04 năm 2013.
Nghiên cứu hiệu quả sử dụng phân hữu cơ với chế phẩm Trichoderma và
Pseudomonas cho cây lạc trong điều kiện đồng ruộng. Các thí nghiệm đồng ruộng
được bắt đầu tiến hành từ tháng 12/2013 đến tháng 10/2015 (bao gồm 4 vụ liên tục:
Đông Xuân 20132014, Hè Thu 2014; Đông Xuân 20142015 và Hè Thu 2015). Đề tài
tập trung nghiên cứu hiệu quả sử dụng phân hữu cơ và chế phẩm sinh học đến sinh
trưởng phát triển, các chỉ tiêu sinh lý, khả năng phòng trừ sâu bệnh, năng suất và
hiệu quả kinh tế trong sản xuất lạc.
Mô hình ứng dụng phân hữu cơ và chế phẩm Trichoderma và Pseudomonas
được tiến hành từ tháng 12/2015 đến tháng 6/2016.
Thí nghiệm đồng ruộng và mô hình được thực hiện trên hai loại đất: đất cát
ven biển tại xã Quảng Lợi, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế và đất xám
bạc màu tại phường Tứ Hạ, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế.
5. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Kết quả nghiên cứu đã xác định được công thức bón phân hữu cơ với chế
phẩm Trichoderma và Pseudomonas tốt nhất cho cây lạc trên 2 loại đất trồng lạc
phổ biến tại Thừa Thiên Huế. Đất cát ven biển, công thức VI (02 tấn phân hữu cơ
+ 40 kg N + 60 kg P2O5 + 60 kg K2O + 400 kg vôi + Trichoderma và Pseudomonas
với tỷ lệ 50:50) và đất xám bạc màu, công thức V (02 tấn phân hữu cơ + 40 kg N +
60 kg P2O5 + 60 kg K2O + 400 kg vôi + Trichoderma và Pseudomonas với tỷ lệ
30:70).
Kết quả nghiên cứu của đề tài đã đánh giá được hiệu quả của việc sử dụng
phân hữu cơ với chế phẩm sinh học đến việc cải tạo sinh tính và tính chất hóa học
trên đất cát ven biển và đất xám bạc màu tại tỉnh Thừa Thiên Huế.
5
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Vai trò của cây lạc
Trong nền kinh tế quốc dân
Lạc là cây trồng cho giá trị sản lượng trên 1 ha chỉ xếp sau cây lúa (so sánh với
bốn cây trồng vụ Xuân là lúa, ngô, lạc và đậu tương) nhưng hiệu quả thu được trên
1 ha thì lạc là cây đạt cao nhất. Như vậy, lạc là cây trồng có khả năng để làm giàu,
vừa phù hợp với những nơi nghèo có vốn đầu tư thấp.
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, lạc là một trong những mặt hàng nông
sản xuất khẩu chủ lực với khối lượng xuất khẩu lớn và có giá trị kinh tế cao. Châu
Á và Châu Mỹ là hai châu lục có khối lượng xuất khẩu lạc lớn nhất (chiếm 78,56%
khối lượng lạc xuất khẩu trên thế giới). Việt Nam là nước đứng thứ bảy trong số
các nước xuất khẩu lạc chính sau Mỹ, Trung Quốc, Argentina, Sudan, Hongkong,
Ấn Độ, Zambia [74].
Những năm gần đây, Việt Nam đã xuất khẩu khoảng 70 80 ngàn tấn lạc
nhân qua các nước như Đức, Pháp, Ý... cho nên lạc là cây đem lại nguồn thu ngoại
tệ quan trọng [78]. Mặc dù thị trường lạc nhân thế giới bấp bênh nhưng xuất khẩu
lạc nhân là một ngành hàng nông sản khá tiềm năng do có giá trị xuất khẩu cao và
nhu cầu thị trường thế giới lớn. Hiện nay trên thị trường thế giới mỗi năm có
khoảng 1,2 triệu tấn lạc nhân được giao dịch nên lạc nhân vẫn được xếp vào một
trong những mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của đất nước.
Trong nông nghiệp và công nghiệp chế biến
Lạc là cây trồng có ý nghĩa đối với nhiều nước trên thế giới, đặc biệt với các
nước nghèo vùng nhiệt đới. Ngoài giá trị kinh tế của lạc, đối với ép dầu, trong công
nghiệp thực phẩm, trong chăn nuôi, lạc còn có ý nghĩa to lớn trong việc cải tạo đất
do khả năng cố định đạm (N) của nó. Rễ lạc có thể tạo ra các nốt sần do vi sinh vật
cộng sinh cố định đạm hình thành, đó là vi khuẩn Rhizobium vigna. Rhizobium vigna
có thể tạo nốt sần ở rễ một số cây họ đậu. Nhưng với lạc thì tạo được nốt sần lớn
và khả năng cố định đạm cao hơn cả. Theo ước tính, cây họ đậu có thể đưa lại 80
triệu tấn đạm mỗi năm từ nguồn nitơ không khí [1].
6
Qua kết quả phân tích thân lá lạc cho thấy hàm lượng khoáng chất không thua
kém gì phân chuồng. Tính theo chất khô thì tỷ lệ lân và kali trong thân lá lạc bằng 2
lần phân chuồng. Nên thân lá lạc còn là loại phân xanh có giá trị cả về chất lượng
và khối lượng, và theo ước tính thì 01 ha thân lá lạc đủ bón cho 2 3 ha lúa và năng
suất tăng rõ rệt [26].
Bên cạnh đó, lạc còn là nguồn thức ăn tốt cho gia súc. Thân lá có tỷ lệ đường
>24%, protein >10% làm thức ăn xanh cho gia súc. Vỏ lạc có 3,7% protein; 1,4%
lipid; 32,3% gluxit nên có thể cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho gia súc [60].
Trong công nghiệp, hạt lạc được dùng trong công nghiệp ép dầu. Trên thế giới có
khoảng 80% số lạc sản xuất ra được dùng ở dạng dầu ăn, khoảng 20% được chế
biến bằng các sản phẩm khác như: bánh kẹo, mứt, bơ...
1.1.2. Nhu cầu dinh dưỡng của cây lạc
Theo kết quả nghiên cứu, để đạt 1 tấn quả (kèm với thân lá), cây lạc lấy đi từ
đất 64 kg N, 16 kg P2O5, 27 kg K2O, 26,3 kg Cao, 16,7 kg MgO và 7,1 kg S [14]. Hầu
hết các loại đất trồng lạc ở nước ta có hàm lượng chất dinh dưỡng thấp, nông dân
ít chú trọng đến việc bổ sung phân bón nên năng suất lạc đạt rất thấp. Năng suất
lạc còn chênh lệch quá lớn giữa năng suất tiềm năng và năng suất thực tế [ 15].
Phân bón là một trong những yếu tố có ảnh hưởng quyết định đến sinh trưởng và
phát triển cũng như khả năng hình thành năng suất của tất cả các cây trồng.
* Đạm (N)
Nitơ có vai trò quan trọng đối với sinh trưởng, phát triển và năng suất lạc. Nhu
cầu đạm của lạc cao hơn nhiều so với các loại cây ngũ cốc vì hàm lượng protein
trong hạt chiếm 26 34% cao hơn 1,5 lần so với hạt ngũ cốc.
Cây lạc có thể lấy nitơ từ nhiều nguồn: Nguồn nitơ từ khí trời thông qua vi
khuẩn cố định đạm, nguồn nitơ có sẵn trong đất, nguồn nitơ từ phân hữu cơ và vô
cơ. Nguồn đạm cố định được có thể đáp ứng được 50 70% nhu cầu đạm của cây
lạc. Cây lạc là cây đậu đỗ có khả năng cố định nitơ phân tử do cộng sinh với vi
khuẩn nốt sần để tổng hợp đạm cung cấp cho cây. Tuy nhiên, vì nốt sần của cây
lạc được hình thành khi cây bắt đầu phân cành đến bắt đầu ra hoa, nên ở giai đoạn
đầu sinh trưởng khi cây 3 4 lá cần bón bổ sung một lượng đạm hoặc bón một
lượng phân hữu cơ, nhằm tạo điều kiện cho cây sinh trưởng và phát triển mạnh,
thúc đẩy sự phát triển của vi khuẩn cộng sinh ở giai đoạn sau [15], [35]. Lượng
đạm bón cho cây có tương quan chặt chẽ đến chiều cao cây, chiều dài cành. Bón
7
đạm quá ngưỡng sẽ gây nên hiện tượng mất cân đối giữa sinh trưởng sinh dưỡng
và sinh trưởng sinh thực, thân lá phát triển mạnh làm ảnh hưởng đến quá trình tạo
quả và hạt, dẫn đến năng suất thấp.
Các nghiên cứu trước đây cho thấy trên nền phân chuống 8 10 tấn/ha thì
lượng đạm bón thích hợp là 30kg N/ha. Tăng liều lượng N lên 40kg N/ha sẽ làm
giảm năng suất thực thu do sinh khối cây lạc phát triển mạnh [20]. Trần Thị Thu Hà
(2004) [31] đã xác định, bón 30 kg N/ha cho năng suất lạc cao nhất và cao hơn từ 8,4
11,4% so với lượng bón 40 kg N/ha và 50 kg N/ha trên đất phù sa nghèo dinh
dưỡng ở Thừa Thiên Huế. Tuy nhiên, trên đất cát ven biển Thừa Thiên Huế, Lê
Thanh Bồn (1997) [9] đã xác định bón 40 kg N/ha làm tăng năng suất 10,18% so với
đối chứng. Lượng N thích hợp cho cây lạc L23 tại Hà Tĩnh là 40 kg N/ha [56] và 30
kg N/ha đối với giống lạc LDH01 trên đất xám bạc màu ở Bình Định [11].
* Lân
Lân là yếu tố dinh dưỡng quan trọng đối với lạc. Lân có tác dụng kích thích sự
phát triển của bộ rễ, thúc đẩy sự hình thành nốt sần, tăng cường khả năng hút đạm
của cây, thúc đẩy sự ra hoa đậu quả sớm. Cây lạc có nhu cầu lân nhiều nhất ở thời
kỳ từ ra hoa đến sau hình thành quả. Ở thời kỳ cây con hàm lượng lân trong cây
không cao nhưng lân rất cần thiết để vi khuẩn nốt sần phát triển [82].
Theo nghiên cứu của Bùi Huy Hiền (1995) [35], trên đất cát biển không chua
(pH 5,8 6,0) hiệu lực các loại phân lân (phân lân nung chảy và phân lân chậm tan)
cao, chỉ thấp hơn supe lân trên nền 8 tấn phân chuồng + 30 kg N + 30 kg K 2O/ha.
Bón supe lân giúp năng suất lạc tăng 115% so với đối chứng và tăng 112% khi bón
phân lân nung chảy.
Lượng lân thích hợp bón cho cây lạc trên đất cát biển ở Thừa Thiên Huế là 60 90
kg P2O5/ha [8]; trên đất xám bạc màu ở Bình Định là 90 kg P2O5/ha [11] và ở Hà Tĩnh
là 120 kg P2O5/ha [56].
* Kali
Kali không trực tiếp đóng vai trò là thành phần cấu tạo của cây, nhưng tham gia
vào các hoạt động của các enzym và là chất điều chỉnh xúc tác, làm tăng cường mô
cơ giới, tăng tính chống đổ của cây, tăng tính chịu hạn. Vai trò quan trọng nhất của
kali là xúc tiến quá trình quang hợp và sự hình thành quả. Thiếu kali, khả năng quang
8
hợp và hấp thu đạm giảm, tỷ lệ quả 1 hạt tăng, khối lượng hạt và năng suất lạc
giảm rõ rệt [15].
Theo Nguyễn Văn Bộ và cs (1999) [6], trên đất bạc màu phù sa cổ, hiệu suất
sử dụng kali của cây lạc 2,3 8,2 kg lạc vỏ/kg K 2O, năng suất lạc đạt cao nhất ở
lượng bón 90 kg K2O/ha và đạt hiệu quả kinh tế cao nhất ở lượng bón 60 kg
K2O/ha.
Lượng phân kali hợp lý cho giống lạc LDH01 trên đất xám bạc màu ở Bình
Định là 60 kg K2O/ha [11] và 80 kg K2O/ha đối với giống lạc L23 ở Hà Tĩnh [56].
* Trung lượng và vi lượng
Canxi là một nguyên tố không thể thiếu khi trồng lạc. Lượng canxi cây lạc
hấp thu gấp 2 3 lần lượng lân. Vôi bón cho lạc có tác dụng khử chua cho đất, tạo
môi trường thuận lợi cho vi khuẩn nốt sần phát triển và quan trọng nhất góp phần
hình thành quả lạc [14].
Trên đất bạc màu bón vôi từ 300 500 kg/ha đã tăng năng suất lạc đáng kể,
tăng lên trên 600 kg/ha đã làm năng suất lạc giảm. Trên đất cát biển, lượng vôi thích
hợp 300 400 kg/ha [7], [14]. Theo Trần Thị Thu Hà (2004) [31], lượng vôi bón
thích hợp cho cây lạc trồng tại tỉnh Thừa Thiên Huế là 500 kg/ha đối với đất phù sa
và 300 kg/ha đối với đất cát ven biển.
Các nguyên tố vi lượng đóng vai trò là chất xúc tác hoặc là một thành phần
của các enzim hoặc chất hoạt hóa của hệ enzim cho các quá trình sống của cây. Đối
với cây lạc, có 2 nguyên tố vi lượng quan trọng là Molipden (Mo) và Bo (B).
Molipden rất cần thiết cho hoạt động cố định N2 của vi khuẩn nốt sần. Trong
điều kiện cây hút đủ Mo thì số lượng và trọng lượng nốt sần đều tăng, cường độ
cố định N của vi khuẩn nốt sần cũng tăng rõ rệt, do đó làm tăng lượng chứa đạm
của cây. Thiếu Mo thì hoạt động cố định N của vi khuẩn nốt sần bị giảm, cây có
biểu hiện thiếu N. Trong điều kiện thiếu N, vai trò của sự cố định N được nâng cao
thì vai trò của Mo càng quan trọng [2].
Bo (B) đóng vai trò quan trọng trong quá trình thụ phấn, thụ tinh của cây lạc.
Bo giúp cho quá trình hình thành rễ được tốt, tia quả không bị nứt, hạn chế nấm
bệnh xâm nhập. Thiếu Bo, tỷ lệ hoa hữu hiệu giảm rõ rệt, số lượng hoa cũng
giảm, dẫn đến giảm số quả/cây, hạt lép, sức sống hạt giống giảm [2].
9
Ngoài 2 nguyên tố vi lượng chính là Mo và Bo, một số nguyên tố vi lượng
khác như Fe, Cu, Zn cũng đóng vai trò quan trọng đối với năng suất lạc. Tuy nhiên,
thường cây có thể hấp thu lượng dinh dưỡng này từ đất đủ cho quá trình sinh
trưởng và phát triển của cây, trong sản xuất ít khi phải bổ sung các loại vi lượng
này [16].
Bón phân để thỏa mãn yêu cầu về dinh dưỡng khoáng cho cây lạc nhằm đạt
năng suất cao, phẩm chất tốt là vấn đề được nghiên cứu từ lâu và ở nhiều vùng
trồng lạc trên thế giới, người ta thường coi lạc là “cây trồng có phản ứng thất
thường”. Tuy nhiên, gần đây với những tiến bộ trong công tác nghiên cứu dinh
dưỡng khoáng cũng như sinh lý cây lạc, đã nắm chắc hơn yêu cầu dinh dưỡng
khoáng của cây lạc và sử dụng phân bón đạt được hiệu quả tốt hơn.
1.1.3. Các loại phân hữu cơ chủ yếu sử dụng trong sản xuất nông nghiệp
1.1.3.1 Phân hữu cơ truyền thống (phân hữu cơ nhà nông)
Theo các văn bản quy định của nhà nước về phân bón hữu cơ [3], [4], [5] và
Bùi Huy Hiền [36], [37] thì phân hữu cơ truyền thống là loại phân có nguồn gốc từ
chất thải người, động vật hoặc từ các phế phụ phẩm trồng trọt, chăn nuôi, chế
biến nông, lâm, thuỷ sản, phân xanh, rác thải hữu cơ, các loại than bùn được chế
biến theo phương pháp ủ truyền thống. Có thể chia phân hữu cơ truyền thống làm
các nhóm chính như sau:
Phân chuồng: là những loại phân hữu cơ tạo bởi phân gia súc, gia cầm (trâu,
bò, lợn, gà...) được độn thêm các chất độn là phế phụ phẩm nông nghiệp (rơm, rạ,
cỏ...). Phân chuồng có hai loại:
+ Phân chuồng tươi có thành phần dinh dưỡng chính: 24 25% chất hữu cơ;
0,45 0,50% N; 0,25 0,3% P2O5 và 0,5 0,6% K2O.
+ Phân chuồng hoại mục (là phân chuồng tươi được ủ hoai sau 2 3 tháng),
với thành phần dinh dưỡng chính gồm: 19 20% chất hữu cơ; 0,50 0,60% N; 0,30
0,40% P2O5 và 0,6 0,7% K2O.
Tùy theo điều kiện sản xuất mà nông dân có thể sử dụng phân chuồng tươi và
phân chuồng hoai mục. Tuy nhiên, việc sử dụng phân chuồng tươi có thể dẫn đến
mang theo mầm bệnh và cỏ dại cho cây trồng.
10
Phân rác (phân xanh): loại phân này làm từ rơm, rạ, thân lá các cây ngô, đậu,
đỗ, vỏ lạc, trấu, bã mía,... Thành phần trung bình của phân rác như sau: 0,5 0,6%
N; 0,4 0,6% P2O5; 0,5 0,8% K2O; 3 6% CaO.
Phân than bùn: dùng than bùn đã được phơi khô để độn chuồng, hoặc có thể
dùng để chế biến phân rác, làm chất đốt, chất cải tạo đất. Than bùn không dùng
trực tiếp làm phân bón, chỉ để ủ phân rác hoặc độn chuồng; than bùn có độ phân
giải cao (>50%) và pH từ 5,5 trở lên có thể bón trực tiếp, nhất là dùng để làm chất
cải tạo lý tính đất.
Ngoài ra còn một số loại phân hữu cơ truyền thống khác như:
Bùn ao, bùn hồ, bùn sông: có hàm lượng mùn trung bình là: 4,90% (dao động
trong khoảng 1,65 14,90%), N tổng số: 0,23% (dao động 0,11 0,52%), P2O5 tổng
số: 0,29% (dao động 0,21 0,48%), K2O tổng số: 0,40% (dao động 0,13 0,70%),
H2S trung bình là 7,1 mg/100 g bùn (dao động 3,4 13,6 mg/100 g).
Khô dầu: là bã còn lại sau khi hạt đã ép lấy dầu. Tùy theo thành phần của
mỗi loại khô dầu mà nông dân đã sử dụng như loại phân bón hữu cơ, bón vào đất
để cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng. Bình quân hàm lượng dinh dưỡng như sau:
3,97% N; 1,23% P2O5; 0,91% K2O.
1.1.3.2. Phân hữu cơ công nghiệp
Phân hữu cơ chế biến (công nghiệp) là một loại phân được chế biến từ các
nguồn hữu cơ khác nhau, theo một quy trình công nghiệp nhất định, để tạo thành
một loại phân hữu cơ bón vào đất, có tác dụng tăng năng suất cây trồng, cải tạo độ
phì nhiêu đất tốt hơn so với bón vào đất bằng các nguyên liệu thô ban đầu [ 3], [4],
[5]. Có thể chia ra các loại phân hữu cơ chế biến như sau:
Phân hữu cơ khoáng: là loại phân được sản xuất từ nguyên liệu hữu cơ được
trộn thêm một hoặc một số yếu tố dinh dưỡng khoáng, trong đó có ít nhất một yếu
tố dinh dưỡng khoáng đa lượng. Phân phải đảm bảo một số chỉ tiêu bắt buộc như
sau: ẩm độ đối với phân bón dạng bột ≤ 25%; hàm lượng hữu cơ tổng số ≥ 15%;
hàm lượng Nts + P2O5hh + K2Ohh ≥ 8%.
Phân hữu cơ sinh học: là loại phân được sản xuất từ nguyên liệu hữu cơ theo
quy trình lên men có sự tham gia của vi sinh vật sống có ích hoặc các tác nhân sinh
học khác. Phân phải đảm bảo một số chỉ tiêu bắt buộc như sau: ẩm độ đối với
11
dạng bột ≤ 25%; hàm lượng hữu cơ tổng số ≥ 22%; hàm lượng Nts ≥ 2,5%; hàm
lượng axit humic (đối với phân chế biến từ than bùn) ≥ 2,5% (hoặc tổng hàm lượng
các chất sinh học đối với phân chế biến từ nguồn hữu cơ khác ≥ 2,0%). Nếu phân
có bổ sung chất điều tiết sinh trưởng thì tổng hàm lượng của chúng ≤ 0,5%.
Phân hữu cơ vi sinh: là loại phân được sản xuất từ nguyên liệu hữu cơ có
chứa ít nhất một chủng vi sinh vật sống có ích với mật độ phù hợp với quy chuẩn
kỹ thuật đã ban hành. Phân phải đảm bảo một số chỉ tiêu bắt buộc: ẩm độ đối với
phân bón dạng bột ≤ 30%; hàm lượng hữu cơ tổng số ≥ 15%; mật độ mỗi chủng vi
sinh vật có ích ≥ 1 × 106 CFU/g.
Phân vi sinh vật: là loại phân trong thành phần chủ yếu có chứa một hay
nhiều loại vi sinh vật sống có ích bao gồm: nhóm vi sinh vật cố định đạm, phân giải
lân, phân giải kali, phân giải cellulose, vi sinh vật đối kháng, vi sinh vật tăng khả
năng quang hợp và các vi sinh vật có ích khác với mật độ phù hợp với quy chuẩn kỹ
thuật đã ban hành. Phân phải đảm bảo một số chỉ tiêu bắt buộc như sau:
Mật độ mỗi chủng vi sinh vật có ích trên nền chất mang khử trùng ≥ 10 8
CFU/g; trên nền chất mang không khử trùng có mật độ vi sinh vật hữu ích > 106
CFU/g.
1.1.3.3. Vai trò của phân hữu cơ
Cho đến nay, các tài liệu trong và ngoài nước đều khẳng định hàm lượng chất
hữu cơ trong đất là yếu tố hàng đầu quyết định độ phì nhiêu đất. Tuy nhiên, hàm
lượng chất hữu cơ được tích lũy trong đất phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố như
lượng hữu cơ bón vào, chất lượng hữu cơ, điều kiện tự nhiên (nhiệt độ, ẩm độ…),
tốc độ phân giải hữu cơ trong đất, sử dụng bởi cây trồng, rửa trôi, xói mòn…
Trong điều kiện nhiệt đới ẩm, tốc độ khoáng hóa chất hữu cơ trong đất rất cao.
Theo những nghiên cứu của Nguyễn Vi (1999) [84], thì các chất hữu cơ bón vào đất
ở Việt Nam sẽ bị phân giải nhanh, bình quân 9 tháng đến 1 năm gần như đã phân giải
hết.
Đất mới khai hoang có hàm lượng hữu cơ khá cao (5 6%), song chỉ cần sau 4
5 năm canh tác cây lương thực ngắn ngày, lượng chất hữu cơ giảm trung bình 50
60% [54]. Nguyên nhân của sự suy giảm nói trên là do tổng hợp của nhiều nguyên
nhân. Ngoài lượng cây trồng sử dụng, thì quá trình khoáng hóa mạnh hữu cơ do
nhiệt độ cao, quá trình rửa trôi, xói mòn là những nguyên nhân chính. Nhưng nguyên
12
nhân quan trọng nhất là việc bổ sung hữu cơ cho đất, cho cây không được chú ý
đúng mức, chỉ nặng về phân hóa học.
Cải tạo đất
Mùn là một thực thể hữu cơ phức tạp, là cơ sở chủ yếu của độ phì nhiêu của
đất. Ngày nay quan điểm sinh học về quá trình hình thành mùn được nhiều người
công nhận cho rằng: Hình thành mùn là quá trình phân giải các chất hữu cơ. Các
phản ứng xảy ra trong quá trình hình thành mùn là các phản ứng sinh hóa với sự
tham gia của các enzym do vi sinh vật tiết ra.
Thành phần của mùn có cấu tạo đặc trưng bởi các hợp chất chính: như axit
humic, axit fulvic và các hợp chất humin, axit ulmic. Chất mùn là kho dự trữ thức ăn
cho cây trồng. Axit mùn trong đất còn có tác dụng kích thích sự phát triển của rễ và
sự sinh trưởng của cây trồng.
Bón phân hữu cơ là cung cấp thêm chất hữu cơ, bổ sung hàm lượng mùn, tạo
nên cấu trúc bền vững, cải thiện độ xốp, hạn chế sự rửa trôi và xói mòn của đất,
giúp cây hấp thụ chất dinh dưỡng dễ dàng hơn. Đất làm quá tơi không được bồi
một lớp hữu cơ thì sau khi tưới nước hoặc sau khi mưa sẽ tạo thành một lớp váng
ngăn cản việc lưu thông không khí, thấm nước, hạn chế nẩy mầm của hạt và dễ bị
xói mòn.
Chất hữu cơ không chỉ là nguồn dinh dưỡng cung cấp cho cây trồng do mùn bị
phân hủy và hòa tan các chất vô cơ trong đất [83] mà còn có tính chất bền vững đến
tiềm năng, năng suất cao nhất cho phép của đất nhờ con đường khoáng hóa và cải
tạo tính chất lý hóa đất [163]. Bên cạnh đó, nhờ có các axit humic có trong phân
hữu cơ đã giúp cho cây trồng hấp thu tốt chất dinh dưỡng [13].
Trong quá trình phân giải, phân hữu cơ có thể tăng khả năng hòa tan các chất
khó tan, tăng khả năng trao đổi của đất. Hữu cơ là nhân tố tích cực tham gia vào
chuyển hóa lân trong đất từ dạng khó tan sang dạng dễ tiêu, hữu dụng cho cây trồng
[54]. Mặt khác sự bổ sung chất hữu cơ cho đất thông qua phân hữu cơ góp phần gia
tăng khả năng đệm trong hầu hết các loại đất, gia tăng sự tạo phức chất hữu cơ
khoáng để khắc phục các yếu tố độc hại trong đất [53].
Bón phân hữu cơ đơn thuần hoặc bón kết hợp phân hóa học thì vi sinh vật đất
ổn định hơn, sự cân bằng sinh học trong đất được tốt hơn [47].
13
Phân hữu cơ ngoài tác dụng làm tăng năng suất cây trồng như các loại phân
hóa học mà còn bồi dưỡng, cải thiện đất toàn diện, làm gia tăng lượng chất hữu cơ
và mùn trong đất, giúp đất không bị bạc màu, đặc tính này không có ở phân hóa học.
Quá trình này xảy ra chậm do phân hữu cơ phân giải chậm nhưng nó có ưu điểm
hơn phân hóa học ở chỗ là nó cung cấp cho đất gần như đầy đủ các dưỡng chất N,
P, K, Ca, Mg và các vi lượng khác [37]. Quan trọng hơn phân hữu cơ có tính chất tác
động tốt đến hệ vi sinh vật đất, bổ sung nguồn vi sinh vật có lợi cho cây trồng,
đồng thời là nguồn dinh dưỡng cho hệ vi sinh vật phát triển.
Chất hữu cơ trong đất đóng một vai trò quan trọng trong việc duy trì độ phì
nhiêu của đất và vì thế có thể làm tăng cường mức độ sản xuất nông nghiệp. Thêm
vào đó, nó là một nguồn dinh dưỡng cho cây trồng, làm cải thiện các đặc tính lý hóa
và sinh học của đất. Sự cải thiện này đối với đất tạo nên kết quả: (i) cây trồng trở
nên chống chịu tốt hơn đối với khô hạn, sâu bệnh và tính độc; (ii) giúp sự hấp thu
dinh dưỡng của cây trồng; (iii) tự chủ được chu trình dinh dưỡng hữu hiệu bởi sự
hoạt động mạnh mẽ của vi sinh vật. Những yếu tố đó có vai trò làm giảm rủi ro thu
hoạch, nâng cao thu nhập, giảm chi phí phân bón vô cơ cho nông dân [136].
Khi sử dụng phân hữu cơ bón cho cây trồng, quá trình phân hủy trong đất giúp:
Cải thiện kết cấu đất: Phân hữu cơ khi bón vào đất sẽ làm cho đất sét quá
dính dẻo sẽ tơi xốp hơn, với đất cát thì lại làm cho các hạt cát dính lại với nhau, từ
đó làm cho đất bớt rời rạc. Phân hữu cơ còn cải tạo tính chất cơ lý của đất, chống
xói mòn, chống chai hoá đất.
Tạo sự màu mỡ trong đất: Trong phân hữu cơ có chứa đầy đủ các nguyên tố
nitơ, photpho, magiê, lưu huỳnh… khi phân hủy sẽ giải phóng ra các chất dinh
dưỡng, làm đất tăng sự hấp thụ khoáng chất. Phân bố dinh dưỡng hợp lý, giúp phục
hồi đất bạc màu, đất đã khai thác lâu năm và đất đã sử dụng nhiều phân hóa học.
Duy trì độ ẩm cho đất: Tăng thời gian lưu giữ nước giúp tốt cho đất. Các chất
hữu cơ trong phân hữu cơ khi hòa tan vào đất sẽ trở thành một miếng xốp hút nước
rồi luân chuyển nước vào đất để nuôi cây. Nếu thiếu chất hữu cơ nước sẽ bị thẩm
thấu, từ đó đất sẽ bị đóng màng làm nước bị ứ đọng trên bề mặt đất, chảy tràn khiến
xói mòn đất.
Tạo môi trường tốt cho vi khuẩn có lợi sinh sống: Phân hữu cơ là môi trường
dinh dưỡng tốt cho các loài vi sinh vật sống trong đất, các axit mùn là chất kháng
14
sinh chống lại nấm bệnh và tuyến trùng ký sinh thực vật cũng như tiêu diệt các loài
côn trùng phá hoại đất đai. Theo Nguyễn Văn Sức (1995, 1999) [69], [70], thì việc
sử dụng phụ phẩm hữu cơ của cây trồng bón vào đất, dù chất liệu có khác nhau,
đều có ảnh hưởng tốt đến hoạt động sinh khối của vi sinh vật đất và tổng hoạt tính
sinh học của đất. Bón phân hợp lý giữa phân khoáng và phân hữu cơ là yếu tố quan
trọng để điều chỉnh và tăng cường một cách có hiệu quả các quá trình hoạt động
sinh khối của vi sinh vật nói chung và các nhóm vi sinh vật chuyển hóa nitơ, phân
giải cellulose… nói riêng và làm tăng đáng kể năng suất cây trồng trên đất xám bạc
màu.
Thông khí: 95% chất dinh dưỡng của cây là lấy từ không khí, ánh sáng và
nước thông qua quá trình quang hợp. Nếu đất trồng xốp sẽ giúp cho sự khuếch tán
không khí vào đất để trao đổi chất dinh dưỡng và độ ẩm, CO 2 được thoát ra do chất
hữu cơ phân hủy, sẽ khuếch tán ra ngoài làm tăng quá trình hấp thu CO2 của cây.
Tăng năng suất cây trồng
Bón phân hữu cơ cho cây trồng sẽ ổn định năng suất, tăng chất lượng sản
phẩm, tăng sức khỏe cộng đồng khi sử dụng sản phẩm nông nghiệp bón phân hữu
cơ.
Sử dụng phân hữu cơ trong trồng trọt được đánh giá là một biện pháp phù
hợp, an toàn và tiết kiệm trong nông nghiệp. Thông qua tác dụng phòng ngừa một
số bệnh hại nên nấm Trichoderma giúp giảm một phần thuốc bảo vệ thực vật,
giảm ô nhiễm môi trường, giúp cây trồng sinh trưởng khỏe, giúp đất tơi xốp, giữ
độ phì đất lâu dài và cho sản phẩm sạch, an toàn không có dư lượng thuốc hóa học,
giúp người nông dân tiết kiệm được tiền bạc hơn khi sử dụng các thuốc hóa học
khác.
Phân hữu cơ giúp duy trì thế cân bằng vi sinh vật có lợi trong đất, chủ yếu là
bảo vệ và cân bằng vi sinh vật có ích cũng như các loài thiên địch có lợi trên đồng
ruộng. Do đó, thường xuyên bổ sung chất hữu cơ cho đất cũng như các nguồn vi
sinh vật có lợi để tạo điều kiện thuận lợi cho bộ rễ phát triển hạn chế mầm bệnh.
Làm tăng hệ số sử dụng đạm, vì vậy làm giảm lượng đạm tiêu tốn để tạo ra một
đơn vị sản phẩm và làm tăng hiệu suất phân đạm. Phân hữu cơ cũng làm tăng hiệu
lực của phân lân do vi sinh phân giải lân bị kết tủa trong đất, giúp cây khỏe, tăng
trưởng nhanh hơn, khả năng chống chịu sâu bệnh tốt hơn và cho năng suất cao hơn
[58].
15
Sử dụng phân hữu cơ và các chế phẩm sinh học sẽ làm tăng năng suất cây
trồng và bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm, nâng cao chất lượng và khả năng
cạnh tranh của nông sản Việt Nam [49].
Vì vậy, sử dụng phân hữu cơ và các chế phẩm sinh học bón cho cây trồng thay
thế cho phân chuồng, phân hóa học được xem là biện pháp quản lý cây trồng toàn
diện, thân thiện với môi trường, tạo sản phẩm an toàn cho người tiêu dùng.
1.1.3.4. Giá trị sử dụng của phân hữu cơ
Phân hữu cơ nói chung có ưu điểm là chứa đầy đủ các nguyên tố dinh dưỡng
đa, trung và vi lượng mà không một loại phân khoáng nào có được. Ngoài ra, phân
hữu cơ cung cấp chất mùn làm kết cấu của đất tốt lên, tơi xốp hơn, bộ rễ phát
triển mạnh, hạn chế mất nước trong quá trình bốc hơi từ mặt đất, chống được
hạn, chống xói mòn.
Vào những năm của thập kỷ 60 thế kỷ 20 do nguồn phân khoáng có hạn nên
sử dụng phân chuồng bình quân hơn 6 tấn/ha/vụ. Trong giai đoạn 15 năm (1980
1995) việc sản xuất và sử dụng phân hữu cơ có giảm sút, nhưng từ năm 1995 lại
đây do yêu cầu thâm canh, do sự khuyến khích sản xuất, sử dụng phân hữu cơ được
phục hồi, nên số lượng phân hữu cơ được sản xuất, sử dụng đã tăng lên đáng kể.
Kết quả điều tra của Viện Thổ nhưỡng Nông hoá ở một số vùng đồng bằng, trung
du Bắc bộ và Bắc Trung bộ cho thấy bình quân mỗi vụ cây trồng bón khoảng 8 9
tấn/ha/vụ [86].
Bón phân hữu cơ làm tăng năng suất cây trồng. Kết quả nghiên cứu khoa học
trong rất nhiều năm của các viện, trường, cũng như kết quả điều tra kinh nghiệm
của các hộ nông dân cho thấy, năng suất cây trồng và hiệu quả kinh tế cao, ổn định
ở những nơi có bón tỷ lệ N hữu cơ và N vô cơ cân đối với tỷ lệ N tính từ hữu cơ
chiếm khoảng 25 30% tổng nhu cầu của cây trồng. Ước tính do bón phân hữu cơ
năng suất cây trồng đã tăng được 10 20%. Nếu tính riêng về thóc do bón phân hữu
cơ đã đạt khoảng 2,5 3,0 triệu tấn thóc/năm.
Bón phân hữu cơ còn làm giảm hiệu lực của phân kali khoáng, nhất là với loại
phân có khả năng giải phóng kali dễ dàng như phân chuồng. Điều này có nghĩa nếu
bón phân chuồng thì có thể giảm liều lượng phân kali khoáng. Đối với đậu tương
khuyến cáo bón 5 6 tấn phân chuồng/ha trên đất phù sa và 8 10 tấn/ha trên đất
bạc màu, đất cát ven biển, đất feralit trên nền phù sa cổ, ngoài phân bón vô cơ [87].
16
Sử dụng phân hữu cơ trong canh tác trên đất cát ven biển và đất xám bạc màu
không chỉ có mục đích cân đối dinh dưỡng, mà chất hữu cơ còn có vai trò hàng đầu
trong việc làm tăng hàm lượng mùn trong đất, cải thiện độ phì nhiêu, nâng cao hiệu
quả sử dụng nước và phân vô cơ, giảm nguy cơ sâu bệnh, tăng năng suất và chất
lượng nông sản, cuối cùng là tăng hiệu quả sản xuất. Chính vì vậy, ngoài việc sử
dụng đầy đủ và cân đối lượng phân khoáng cho đất cát ven biển và đất xám bạc
màu, việc chú ý sử dụng phân hữu cơ là một nhu cầu tất yếu và không thể bỏ qua.
Tuy nhiên, nếu ta chỉ quan tâm đến việc sử dụng phân hữu cơ truyền thống
như trước kia, sẽ hoàn toàn thiếu nguồn cung cấp và chất lượng. Con số thống kê
cho thấy, ước tính lượng phân hữu cơ truyền thống chỉ có thể đáp ứng khoảng dưới
20% nhu cầu phân hữu cơ hiện nay. Hơn 80% nhu cầu còn lại chỉ có thể được cung
cấp bằng các nguồn phân hữu cơ chế biến (phân hữu cơ công nghiệp) [87].
1.1.4. Nấm Trichoderma
1.1.4.1. Đặc điểm của nấm Trichoderma
Chủng nấm Trichoderma thuộc nhóm nấm bất toàn (Deuteromycetes hay
Fungi Imperfecti), sinh sản vô tính bằng bào tử bụi, sắp xếp theo kiểu đính bào tử.
Chúng được tìm thấy khắp mọi nơi từ những vĩ độ cực Nam và cực Bắc. Hầu hết
dòng Trichoderma đều hoại sinh, chúng phổ biến trong những khu rừng nhiệt đới
ẩm hay cận nhiệt đới, ở rễ cây, trong đất hay trên xác sinh vật đã chết, xác bã hữu
cơ hay ký sinh trên những loại nấm khác. Nấm Trichoderma phát triển nhanh ở 25
300C có một số ít loài Trichoderma tăng trưởng được ở 450C. Mỗi dòng nấm
Trichoderma spp. khác nhau sẽ yêu cầu nhiệt độ và độ ẩm khác nhau [122].
Trichoderma là giống nấm có vách ngăn (septate fungus) và cuống sinh bào tử
phân nhánh, có dạng hình nón hoặc hình kim tự tháp [143]. Thể bình (phialide) được
tạo thành ở đỉnh cuống sinh bào tử. Các bào tử đính (conidia) được tạo ra tại đầu
mút của các thể bình, nơi chúng tích lũy để hình thành các đỉnh bào tử đính ( conidial
head) [112]. Các loài Trichoderma tạo khuẩn lạc có dạng cụm, bông (floccose) hay
mọc thành búi (tufted) với màu sắc khác nhau (trắng, vàng, lục), là những đặc điểm
được sử dụng để định danh loài trước đây [143]. Hiện nay, việc sử dụng những đặc
điểm hình thái để định danh các loài Trichoderma đang dần được thay thế bởi các
công cụ phân tử, nhanh và dễ dàng hơn [134].
1.1.4.2. Vai trò của nấm Trichoderma
Khả năng đối kháng
17
Nấm Trichoderma là thành viên phổ biến của hệ vi sinh vật đất, chúng thường
tiết ra các men, kháng sinh gây độc cho nấm gây bệnh hoặc cạnh tranh điều kiện
sống với nấm gây bệnh. Nấm Trichoderma có thể kìm hãm sự sinh trưởng, phát
triển của nấm gây bệnh, giúp cây trồng phục hồi, sinh trưởng, phát triển.
Nấm Trichoderma có khả năng tiêu diệt và khống chế ngăn ngừa các loại nấm
bệnh hại cây trồng gây bệnh xì mủ, vàng lá thối rễ, chết yểu, héo rũ
như: Rhizoctonia solani, Fusarium, Pythium, Phytophthora sp., Sclerotium rolfsii,…
Ngoài hiệu quả trừ nấm gây bệnh, làm giảm tỷ lệ cây bị bệnh, chế phẩm từ nấm
Trichoderma còn có tác dụng tốt đối với cây trồng. Dùng chế phẩm nấm
Trichoderma làm cho cây khỏe hơn, tăng sức đề kháng với vi sinh vật gây bệnh, tác
dụng kích thích sinh trưởng cây trồng [101], [111].
Nấm Trichoderma thương hi
̀
ẹn di
̂ ẹn
̂ ở vung xung quanh h
̀
ệ thông cua rê cay.
́
̉
̃ ̂
Đay la loai nâm hoai sinh co kha nang ky sinh va đôi khang tren nhiêu loai nâm b
̂ ̀ ̣ ́
̣
́ ̉ ̆
́
̀ ́
́
̂
̀
̣
́ ệnh
cay trông. Nh
̂
̀
ờ vạy, nhiêu loai
̂
̀
̀ Trichoderma spp. đa đu
̃ ̛ợc nghien c
̂ ưu nhu la m
́
̛ ̀ ọt tac
̂ ́
nhan phong tr
̂
̀
ừ sinh hoc va đa đu
̣
̀ ̃ ̛ợc thuong mai hoa thanh thuôc tr
̛ ̛
̣
́
̀
́ ừ bệnh sinh hoc,
̣
phan sinh hoc va chât cai tao đât
̂
̣
̀ ́ ̉ ̣
́ [122].
Co chê tac đ
̛
́ ́ ộng chinh cua nâm
́
̉
́ Trichoderma la ky sinh va tiêt ra cac khang sinh
̀ ́
̀ ́
́
́
tren cac loai nâm gay b
̂ ́
̀ ́
̂ ẹnh. Ngoai hi
̂
̀ ẹu qua tr
̂
̉ ực tiêp tren cac tac nhan gay b
́
̂ ́ ́
̂ ̂ ẹnh cay,
̂
̂
nhiêu loai
̀
̀ Trichoderma con đinh cu
̀ ̣
̛ ở bê m
̀ ặt rê cay giup thay đôi kha nang biên
̃ ̂
́
̉
̉ ̆
́
dưỡng cua cay, nhiêu dong nâm đa kich thich s
̉
̂
̀
̀
́
̃ ́
́ ự tang tru
̆
̛ơng cua cay, gia tang kha
̉
̉
̂
̆
̉
nang hâp thu dinh du
̆
́
̣
̛ơng, cai thi
̃
̉
ẹn nang suât cay va giup cay khang đu
̂ ̆
́ ̂ ̀ ́ ̂
́
̛ợc bệnh [122].
Ngăn chặn nấm bệnh trong đất
Trichoderma có khả năng ngăn chặn những loại nấm bệnh cây trong đất, như
Rhizoctonia solani, Pythium spp., vấn đề này đã được công bố rộng rãi trong các
nghiên cứu những năm gần đây [100], [161].
Khả năng thứ hai của nấm Trichoderma là kháng nấm. Trichoderma thamatum
có rất nhiều trong đất hữu cơ tại vườn ươm ở Colombia có khả năng ngăn chặn
nấm Rhizoctonia solani [101] và Trichoderma hazianum có nhiều khi phân lập từ đất
tại Mexico có khả năng ngăn chặn nhiều loại nấm đất. Dưới nhiệt độ và tia phóng
xạ gamma không thể tiêu diệt được nấm Rhizoctonia solani, ngược lại trên môi
trường Trichoderma hazianum diệt được nấm này đây là vai trò chính của
Trichoderma trong phòng trừ sinh học.
18
Trichoderma đóng vai trò quan trọng trong việc phân hủy xác hữu cơ có trong
đất [132]. Chất hữu cơ được phân hủy nhanh hơn nhờ các men phân hủy glucose,
cellulose do Trichoderma tiết ra trong hoạt động sống [75].
Xử lý hạt giống
Xử lý Trichoderma vào hạt giống, đã ảnh hưởng rõ đến khả năng xâm nhập
của Trichoderma vào trong đất. Đây là một phương pháp rất có ý nghĩa trong việc
phòng trừ nấm gây bệnh ở giai đoạn hạt đến giai đoạn cây con.
Trichoderma có hiệu quả nhất trong việc phòng trừ bệnh chết rạp cây con, với
khả năng tăng sinh khối hệ rễ, ngăn cản bệnh gây hại cây trồng bằng cách cạnh
tranh, ký sinh trên nấm hoặc kháng sinh nấm. Ngoài ra, chúng còn gây ảnh hưởng
mạnh đến vi khuẩn và các loại nấm khác trong đất.
Việc lựa chọn các chủng vi khuẩn đối kháng khác nhau với cơ chế phòng trừ
bệnh hiệu quả để sử dụng trong phòng trừ bệnh tổng hợp là giải pháp tốt trong
chiến lược phòng trừ bệnh. Việc sử dụng các tác nhân sinh học để xử lý hạt giống
hoặc tưới với đất đóng vai trò trong phòng trừ bệnh hại do nấm gây ra do cơ chế
trực tiếp đó là cạnh tranh dinh dưỡng, tiết ra các chất kháng sinh hoặc gián tiếp
bằng các cơ chế kích kháng [159].
Kích thích tăng trưởng của cây trồng
Những lợi ích mà những loài nấm Trichoderma mang lại đã được biết đến là
việc kích thích sự tăng trưởng và phát triển của thực vật, do việc kích thích sự hình
thành nhiều hơn và phát triển mạnh hơn của bộ rễ so với thông thường. Những cơ
chế giải thích cho các hiện tượng này chỉ mới được hiểu rõ ràng hơn trong thời gian
gần đây. Hiện nay, một số giống nấm Trichoderma đã được phát hiện là chúng có
khả năng gia tăng số lượng rễ mọc sâu (sâu hơn 1 m dưới mặt đất). Những rễ sâu
này giúp các loài cây như ngô hay cây cảnh có khả năng chịu được hạn hán.
Một khả năng đáng chú ý nhất là những cây ngô có sự hiện diện của nấm
Trichoderma dòng T22 ở rễ, thì có nhu cầu về đạm thấp hơn đến 40% so với những
cây không có sự hiện diện của loài nấm này ở rễ.
1.1.4.3. Cơ chế tác động của nấm Trichoderma
Cơ chế ký sinh nấm
Ký sinh nấm là sự tấn công trực tiếp của một loài nấm trên loài nấm khác và
19
thường được định nghĩa là sự đối kháng trực tiếp [107], bao gồm 4 bước liên tiếp
[103]. Bước đầu tiên được gọi là sự phát triển có tính chất hướng hóa
(chemotrophic growth), tức là tiết ra một tác nhân kích thích hóa học gây ra bởi nấm
ký chủ đã hấp dẫn chủng nấm ký sinh (nấm đối kháng) [ 102], [152]. Bước thứ hai
được gọi là sự nhận diện đặc hiệu (specific recognition), tức chủng nấm ký sinh
nhận diện được bề mặt tế bào của nấm ký chủ [94]. Bước thứ ba bao gồm hai quá
trình tách biệt nhau. Quá trình thứ nhất được gọi là sự quấn (coiling), tức sợi nấm
ký sinh Trichoderma bao quanh sợi nấm ký chủ [101], [139]. Quá trình thứ hai bao
gồm sự tương tác và tiếp xúc sợi nấm gắn kết với nhau (intimate hyphal interaction
and contact), tức sợi nấm Trichoderma phát triển hoàn toàn dọc theo sợi nấm ký
chủ. Bước thứ tư và cũng là bước cuối cùng bao gồm sự tiết các enzyme phân giải
đặc biệt, chúng sẽ phân hủy vách tế bào của nấm ký chủ [103].
Các nghiên cứu cấu trúc siêu vi (ultrastructural) và mô hóa học (histochemical)
đã chứng minh rằng các enzyme của Trichoderma gây ra sự phân giải vách tế bào
nấm ký chủ tại vị trí tiếp xúc giữa sinh vật đối kháng và ký chủ [96], [97]. Sự hiện
diện của chitin và/hoặc các sợi βglucan, gắn chặt trong chất nền protein, trong
vách các tế bào nấm bệnh đề xuất rằng sự phân giải hệ sợi nấm của chúng trong
quá trình ký sinh có thể được thực hiện nhờ βglucanase, chitinase và protease [140],
[141]. Sự hình thành các enzyme này đã được nghiên cứu trong quá trình tương tác
vật ký sinh ký chủ giữa các loài Trichoderma spp. với một số nấm gây bệnh cây
trồng nhất định [120], cũng như dưới điều kiện mô phỏng nhân tạo của quá trình ký
sinh nấm (khi Trichoderma spp. được cho phát triển trên các môi trường có chứa hệ
sợi nấm vô trùng hoặc các vách tế bào nấm bệnh) [98], [104], [114]. Nghiên cứu
cho thấy, hoạt động thủy phân của các chủng Trichoderma khảo sát đối với vách tế
bào nấm bệnh có tương quan với mức độ mà chúng bị ức chế [139]. Bên cạnh đó,
hoạt động phối hợp giữa các enzyme phân giải với chất kháng sinh là một nhân tố
khác có thể nâng cao khả năng ức chế mầm bệnh cây trồng của Trichoderma [128],
[152].
Cơ chế kháng sinh
Kiểu tương tác này được định nghĩa là sự đối kháng gián tiếp vì ở đây sự đối
kháng diễn ra mà không yêu cầu phải có sự tiếp xúc [ 107]. Người ta đã chứng minh
rằng Trichoderma có khả năng tiết ra một lượng lớn các chất chuyển hóa thứ cấp
khác nhau có thể ức chế nấm và vi khuẩn. Cơ chế kháng sinh thường diễn ra phối
20
hợp với ký sinh nấm [147]. Theo đó, các chất kháng sinh có thể ức chế sự tạo thành
vách tế bào, làm gia tăng hoạt động của những enzyme thủy phân [135]. Các chất
kháng sinh cũng có thể tác động tới nấm mục tiêu thông qua một loạt các cơ chế khác
nhau, như kìm hãm sự phát triển, sự sản xuất các chất chuyển hóa, sự hấp thu các
chất dinh dưỡng và sự hình thành bào tử [ 124], [160]. Cũng giống như cơ chế ký sinh
nấm, kháng sinh có đặc trưng cho từng loài và các loài Trichoderma khác nhau có khả
năng kiểm soát sinh học không giống nhau. Thậm chí, các chủng Trichoderma khác
nhau trong cùng một loài cũng biểu hiện những hoạt tính tiêu diệt nấm mục tiêu khác
nhau [115], [125].
Cơ chế cạnh tranh
Tương tác cạnh tranh giữa Trichoderma và vi sinh vật đất có thể được xem là
sự đối kháng gián tiếp. Trichoderma có thể ức chế hoặc làm giảm sự phát triển của
mầm bệnh cây trồng thông qua việc cạnh tranh về không gian, cơ chất enzyme,
chất dinh dưỡng và oxygen [107]. Với bản chất phát triển nhanh và khả năng sinh
trưởng tốt trên nhiều loại cơ chất khác nhau Trichoderma chính là những sinh vật
chiếm lĩnh môi trường sống trong đất rất hiệu quả và có khả năng thay thế cho các
sinh vật có khả năng xâm chiếm kém hơn [139]. Tuy nhiên, khả năng xâm chiếm
của chúng bị ảnh hưởng rất lớn bởi những nhân tố môi trường đất, bao gồm pH,
nhiệt độ và nước [131].
Cơ chế thúc đẩy sự phát triển và gia tăng sức đề kháng của cây trồng
Trichoderma thúc đẩy sự phát triển của cây trồng thông qua việc kích thích
trực tiếp sự hấp thu các chất dinh dưỡng của chúng [130], [138] hoặc việc tiết các
chất chuyển hóa có khả năng đẩy nhanh sự phát triển cây trồng như các hormone
tăng trưởng [161]. Với bản chất đối kháng nấm bệnh cây trồng của hầu hết các loài
Trichoderma, chúng có thể thúc đẩy sự phát triển của cây trồng một cách gián tiếp
thông qua việc ức chế các mầm bệnh và vì thế, làm gia tăng sự sinh trưởng của cây
trồng [109].
Cơ chế tiết enzyme thủy phân của nấm Trichoderma
Việc các loài Trichoderma có thể phân giải nhanh và hiệu quả đối với hầu
như bất kỳ loại hợp chất hữu cơ nào là nhờ vào lượng enzyme thủy phân mà chúng
có khả năng tạo ra. Các vật liệu hữu cơ bao gồm các loại đường, hormon và
heteropolysaccharide. Vài loại enzyme thủy phân của các loài Trichoderma đối
kháng khác nhau đã được tạo dòng.
21
Hình 1.1. Những hoạt động kích thích sự tăng trưởng cây trồng của Trichoderma
spp. Trực tiếp: (a) ký sinh nấm, (b) cạnh tranh; gián tiếp: (c) sự phát triển hệ sợi
xung quanh vùng bầu rễ cây trồng và sản xuất các chất chuyển hóa
(Nguồn: Verma và cs, 2007) [157].
1.1.5. Vi khuẩn Pseudomonas
1.1.5.1. Đặc điểm của vi khuẩn Pseudomonas
Vi khuẩn Pseudomonas thường là vi khuẩn Gram âm, hình que. Có tiên mao ở
cực nên có khả năng lội tốt trong nước, không có khả năng tạo bào tử.
Pseudomonas là vi khuẩn sống tự do, chúng hiện diện khắp nơi như trong đất, trong
nước, thực vật, động vật, một số tàn dư thực phẩm. Chúng có khả năng hô hấp
hiếu khí hay kỵ khí. Nhiệt độ thuận lợi để chúng phát triển là 30 370C. Tuy nhiên
một số chủng Pseudomonas lại có thể sống tốt ở 400C. Pseudomonas có thể được
nuôi trong môi trường đơn giản và ở pH trung tính. Một vài chủng có thể tạo huỳnh
quang dưới ánh sáng tia cực tím ở bước sóng 254 nm.
1.1.5.2. Vai trò của vi khuẩn Pseudomonas
Vi khuẩn Pseudomonas spp. phân bố rộng rãi và có nhiều chủng loài, là vi
khuẩn sống tự do, chúng có thể được tìm thấy trong đất, nước, trong thực vật, động
vật. Giống Pseudomonas spp. có nhiều loài, có khả năng cố định đạm như
Pseudomonas fluorescens, Pseudomonas stutzeri, Pseudomonas diminuta,
Pseudomonas paucimobilis, Pseudomonas pseudoflava, Pseudomonas putida,
Pseudomonas saccharophila và Pseudomonas vesicularis. Một số loài Pseudomonas
có khả năng hòa tan lân như Pseudomonas fluorescens, Pseudomonas putida,
Pseudomonas chlororaphis [99], một số có khả năng tổng hợp kích thích tố tăng
trưởng như Pseudomonas fluorescens, Pseudomonas putida, Pseudomonas syringae
[154].
22
Hình 1.2. Pseudomonas dưới kính hiển vi điện tử
(Nguồn: Thrane và cs, 2000) [155].
Một số chủng Pseudomonas có ảnh hưởng quan trọng trong sự sinh trưởng và
phát triển thực vật, tổng hợp kích tố tăng trưởng thực vật như: auxin, cytokinin,
kích thích sự phát triển của bộ rễ cây làm gia tăng khả năng hấp thu chất dinh
dưỡng trong đất ở một số loài như: Pseudomonas putida, Pseudomonas fluorescens,
Pseudomonas syringae [116], [154], [164].
1.1.5.3. Cơ chế tác động của vi khuẩn Pseudomonas
Pseudomonas kích thích sinh trưởng của cây trồng bởi vì chúng xúc tiến cây
trồng sinh ra các chất kích thích sinh trưởng như auxin, xitokinyl, gibberellin và tính
kháng tập thể của cây, giúp cây kháng lại tốt hơn sự tấn công của mầm bệnh [158].
Cơ chế tác động của vi khuẩn đối kháng Pseudomonas như sau:
Có khả năng sản sinh ra cyanide, tăng tính chống chịu của cây, sản sinh ra chất
kích thích sinh trưởng và có khả năng phân giải độc tố do vi sinh vật gây bệnh tiết
ra.
Có khả năng hấp thụ các ion Fe3+ trong môi trường với ái lực cao nhằm phục
vụ trực tiếp cho sự sinh trưởng và hô hấp của vsv, làm cho môi trường xung quanh
nghèo sắt, dẫn đến các loại vi sinh vật khác không có đủ ion Fe3+ cho quá trình sinh
trưởng của mình, do đó chúng sẽ không sinh trưởng được.
Cạnh tranh dinh dưỡng với các vi sinh vật gây bệnh, ví dụ như tiết ra các hợp
chất siderophore tạo điều kiện thuận lợi cho việc cạnh tranh Fe.
Có khả năng phòng chống lại nhiều loại vi sinh vật gây bệnh hại cây, nghĩa là
có khả năng chống lại những loại vi sinh vật gây bệnh mà những vi sinh vật đó
thường làm giảm sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng.
23
PGPR: Plant Growth Promoting Rhizobacteria
ISR: Induction of Systemic Resistance of host plant by PGPR
Hình 1.3. Các cơ chế kich thich s
́
́ ự sinh trưởng thực vât b
̣ ởi PGPR
(Nguôn: Kumar và cs, 2011)
̀
[133]
Kích thích sinh trưởng thực vật (Plant Growth Promoting RhizobacteriaPGPR)
do vi khuẩn vùng rễ khi tương tác với rễ cây có thể tạo ra tính kháng của cây chống
lại vi khuẩn, nấm và virut gây bệnh. Hiện tượng này được gọi là tính kích kháng hệ
thống ISR (Induction of Systemic Resistance), cũng giống như tính kích kháng hệ
thống có điều kiện SAR (Systemic Acquired Resistance).
1.1.6. Đặc điểm của đất cát ven biển và đất xám bạc màu
1.1.6.1. Đất cát ven biển (Haplic Arenosols)
Đất cát ven biển ở Thừa Thiên Huế chiếm tỷ trọng lớn nhất trong 5 nhóm đất
đồng bằng của tỉnh, với diện tích là 19.604 ha (chiếm 9,7% đất tự nhiên). Đất cát
ven biển có những tính chất rất đặc trưng, có độ phì tự nhiên thấp, các chất tổng số
và dễ tiêu đều ở mức nghèo, nên năng suất cây trồng trên loại đất này không cao.
Mặt khác, đất cát ven biển có thành phần cấp hạt thô chiếm tỷ lệ lớn, kết cấu rời
rạc nên sự rửa trôi các chất dinh dưỡng theo trọng lực dễ dàng xảy ra. Đồng thời do
nghèo mùn và dung tích hấp thu thấp, nên khả năng giữ nước và phân bị hạn chế.
Ðất cát ven biển nghèo mùn (OM% < 1%), chất hữu cơ phân giải mạnh (C/N <
5). Nghèo N%: 0,03 0,08%, P2O5%: 0,02 0,04%, K2O%: 0,3 0,5%. Các chất dễ
tiêu trong đất cũng đều ở mức nghèo đến rất nghèo, CEC trong đất thấp (3,3 8,0
24
lđl/ 100g đất), tổng số cation kiềm trao đổi từ 1,5 6 lđl/ 100g đất. Đất có phản ứng
trung tính ít chua (biến động từ 4,5 7,5); đất có khả năng giữ phân và nước kém
[10].
Đất được hình thành do quá trình bồi tích của biển nhưng đã được khai thác sử
dụng từ lâu đời, vì vậy tính chất lý hóa học của đất đã thay đổi theo chiều hướng
có lợi cho sản xuất nông nghiệp. Đây là loại đất có độ phì tự nhiên thấp, nhưng có
lợi thế về thành phần cơ giới nhẹ, mực nước ngầm nông, lại thích hợp với nhiều
loại cây trồng như: cây công nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả, rau màu, dưa, cà, cây
gia vị... nếu chọn được cơ cấu cây trồng thích hợp, đầu tư thêm phân hữu cơ và các
loại phân bón khác, thì có thể thu được hiệu quả kinh tế cao khi sản xuất trên loại
đất này.
1.1.6.2. Đất xám bạc màu (Haplic Acrisols)
Ở Thừa Thiên Huế đất xám bạc màu có diện tích 800 ha, chiếm 0,16% tổng
diện tích tự nhiên, đất đều ảnh hưởng của lớp đá mẹ chua, nghèo chất kiềm thổ,
thành phần cơ giới nhẹ bởi vì trầm tích biển đóng vai trò quan trọng trong việc hình
thành đồng bằng này. Hơn nữa đồng bằng ở đây có đặc điểm là hẹp và dốc (do vị
trí của dãy Trường Sơn đối với Biển Đông) nên lũ lên xuống nhanh làm cho các hạt
sét và mùn giàu dinh dưỡng không kịp lắng đọng để bồi đắp, vì vậy đất thường
nghèo lân và kali.
Đất xám bạc màu có phản ứng chua ít đến rất chua, pH KCl dao động từ 3,0
4,5 chủ yếu 4,0 4,5; hàm lượng Ca2+, Mg2+ trao đổi rất thấp (Ca2+ + Mg2+ <
2mg/100g đất). Độ no bazơ và dung tích hấp phụ thấp (<50%), hàm lượng mùn
tầng đất mặt từ nghèo đến rất nghèo (0,5 1,5%). Mức độ phân giải chất hữu cơ
mạnh (C/N < 10) các chất dinh dưỡng tổng số và dễ tiêu đều nghèo.
Đất xám bạc màu có nhược điểm chua, nghèo chất dinh dưỡng, thường bị khô
hạn, nhưng có giá trị trong nông nghiệp. Phần lớn diện tích đất nằm ở địa hình
bằng phẳng, thoải, thoáng khí, thoát nước, dễ canh tác và thích hợp với sinh trưởng
của nhiều cây trồng cạn [10].
1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
1.2.1. Tình hình sản xuất lạc trên thế giới, ở Việt nam và Thừa Thiên Huế
1.2.1.1. Tình hình sản xuất lạc trên thế giới
25
Cây lạc chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế thế giới không chỉ gieo
trồng trên diện tích lớn mà còn vì cây lạc được sử dụng rất rộng rãi để làm thực
phẩm và nguyên liệu cho công nghiệp. Nhu cầu sử dụng và tiêu thụ ngày càng tăng
đã và đang khuyến khích nhiều nước đầu tư phát triển sản xuất lạc với quy mô
ngày càng mở rộng.
Tình hình sản xuất lạc trên thế giới trong 3 năm trở lại đây được thể hiện ở
bảng 1.1. Qua bảng 1.1 cho thấy:
Về diện tích: Ấn độ là nước có diện tích trồng lạc lớn nhất thế giới (5,52
triệu ha) nhưng năng suất lại thấp (9,82 tạ/ha), nước có năng suất lớn nhất thế giới
là Mỹ (44,85 tạ/ha), trong khi diện tích trồng lạc rất nhỏ (0,42 triệu ha).
Về năng suất: Mỹ là nước có năng suất trồng lạc lớn nhất thế giới (44,85
tạ/ha), tiếp đến là Trung Quốc (36,52 tạ/ha), Sudan là quốc gia có năng suất lạc
thấp nhất (6,3 tạ/ha).
Bảng 1.1. Diễn biến về diện tích, năng suất và sản lượng lạc trên thế giới
(2014 2016)