Tải bản đầy đủ (.pdf) (142 trang)

Luận án tiến sĩ Nông nghiệp: Nghiên cứu hiệu quả sử dụng phân hữu cơ với chế phẩm Trichoderma và Pseudomonas cho cây lạc tại Thừa Thiên Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 142 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Lac (
̣ Arachis hypogaea L.) la cây công nghiêp ngăn ngay, cây th
̀
̣
́
̀
ực phâm co gia
̉
́ ́ 
tri dinh d
̣
ương cao, trong hat lac co ch
̃
̣ ̣
́ ưa 40 ­ 60% lipid, 26 ­ 34% protein, 6 
́
­ 25% 
gluxit, 8 loai axit amin không thay thê va cac loai vitamin hoa tan lam nguyên liêu
̣
́ ̀ ́
̣
̀
̀
̣  
quan trong trong 
̣
công  nghiêp 


̣ chế biên.
́  Khả  năng  cô ́ đinh 
̣ đam 
̣ cuả  cać  vi  khuân
̉  
Rhizobium sông công sinh trong nôt sân cua cây lac là đ
́
̣
́ ̀ ̉
̣
ặc tính tuyệt vời làm lạc trở 
thành cây co kha năng bao vê, duy tri va c
́ ̉
̉
̣
̀ ̀ ải thiện đô phi nhiêu cua đât r
̣
̀
̉
́ ất hiệu quả.  
Gieo trông lac cai thiên đ
̀
̣
̉
̣ ược đô pH, ham l
̣
̀ ượng mun va đô phi nhiêu cua đât, gop
̀ ̀ ̣
̀
̉

́
́ 
phân duy tri va tăng năng suât, san l
̀
̀ ̀
́ ̉ ượng cac cây trông khac, tăng hê sô s
́
̀
́
̣ ́ ử dung đât
̣
́ 
va hiêu qua kinh tê trên môt đ
̀ ̣
̉
́
̣ ơn vi diên tich. Đông th
̣
̣ ́
̀
ời cung la cây tao ra tinh đa
̃
̀
̣
́
 
dang trong san xuât nông nghiêp. Vi vây, lac la cây trông quan trong trong hê thông
̣
̉
́

̣
̀ ̣
̣
̀
̀
̣
̣
́  
xen canh, luân canh vơi cac cây trông khac, đăc biêt co y nghia to l
́ ́
̀
́
̣
̣
́ ́
̃
ơn trong viêc cai
́
̣
̉ 
tao đât đôi v
̣
́ ́ ới cac loai đât ngheo dinh d
́
̣ ́
̀
ưỡng.
Ở  Việt Nam nói chung và các tỉnh miền Trung nói riêng, lạc chủ  yếu được  
canh tác trên các loại đất nghèo dinh dưỡng. Diện tích trồng lạc ở Thừa Thiên Huế 
thường tập trung trên một số loại đất chính như đất cát ven biển, đất xám bạc màu  

và đất phù sa. Gần đây, cây lạc được gieo trồng  ở  đất vàng nhạt trên đá cát thuộc 
các huyện Nam Đông, A Lưới và một số  xã thuộc huyện Hương Trà nhưng với 
diện tích rất ít. Trong 5 nhóm đất đồng bằng của tỉnh Thừa Thừa Thiên thì đất cát  
ven biển, chiếm tỷ trọng lớn nhất, với diện tích là 19.604 ha và tiếp theo là đất xám  
bạc màu, với diện tích là 800 ha. Hai loại đất này chiếm tỷ  lệ khoảng 80% so với 
tổng diện tích trồng lạc của toàn tỉnh (Sở  NN và PTNT Thừa Thiên Huế, 2013). 
Lạc được canh tác trên đất nghèo dinh dưỡng, đầu tư  phân chuồng ngày càng hạn 
chế, điều kiện thời tiết không ưu đãi nên năng suất lạc tại tỉnh Thừa Thiên Huế là  
thấp hơn so với các tỉnh khác (< 20,4 tạ/ha). Tuy nhiên, năng suất trên còn thấp so  
với tiềm năng năng suất của cây lạc và các vùng khác trong cả nước như Trà Vinh  
(51,1 tạ/ha),  Đồng Tháp (35,0 tạ/ha) Long An (31,5 tạ/ha) (Niên giám thống kê 
ngành nông nghiệp, 2014). Trong khi lạc  được xem la cây công nghiêp ngăn ngay
̀
̣
́
̀ 
chu l
̉ ực trong cơ câu cây trông cua tinh.
́
̀
̉ ̉  Vì vậy, cần được quan tâm nghiên cứu các 


2

biện pháp kỹ thuật, nhằm nâng cao năng suất và hướng tới sản xuất lạc bền vững  
và thân thiện với môi trường.
Để tăng năng suất và sản lượng cây trồng thì các yếu tố như giống, phân bón,  
kỹ thuật canh tác,... đóng vai trò quan trọng, trong đó phân bón được xem là nhân tố 
chính. Tuy nhiên, việc lạm dụng sử dụng phân hóa học lâu dài sẽ  dẫn đến đầu tư 

chi phí cao, nông dân thu được lợi nhuận thấp, đồng thời gây phát thải khí N2O càng 
nhiều. Mặt khác, sự  dư  thừa phân hóa học gây ô nhiễm môi trường đất, nước và  
ảnh hưởng đến sức khỏe con người [153]. Vấn đề tăng vụ trong sản xuất làm cho 
nhiều diện tích đất canh tác bị  ô nhiễm, độ  phì nhiêu và sức sản xuất của đất sẽ 
giảm, gây hiện tượng suy thoái dinh dưỡng. Ở các nước công nghiệp phát triển đã 
bón quá nhiều phân hóa học khiến môi trường bị  suy thoái, chất lượng sản phẩm 
giảm sút [89].
Nghiên cứu tìm ra những biện pháp canh tác hiệu quả mà vẫn giữ được năng  
suất cao, đồng thời cải thiện độ  phì nhiêu của đất và an toàn cho môi trường là rất  
cần thiết. Bên cạnh việc tìm ra những giống cây trồng mới có năng suất cao, thì 
người ta khuyến cáo sử dụng phân hữu cơ, biện pháp này có thể tận dụng được tất 
cả  những phế phẩm trong sản xuất nông nghiệp để  làm phân hữu cơ  như  rơm rạ, 
phân chuồng, tàn dư  thực vật… Sử  dụng phân hữu cơ  giúp giảm lượng phân hóa 
học, cải thiện tốt độ  phì nhiêu đất. Phân hữu cơ  không những làm tăng năng suất  
cây trồng mà còn có khả năng làm tăng hiệu lực của phân hóa học, cải tạo và nâng  
cao độ phì của đất [65].
Vi sinh vật có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả  sử dụng chất  
dinh dưỡng của cây trồng, tăng cường khả  năng giữ   ẩm, khả  năng cố  định nitơ, 
phân giải phốt phát khó tan, hòa tan kali… của   đất qua đó  giúp cây trồng sinh  
trưởng, phát triển tốt hơn và góp phần làm tăng năng suất, chất lượng nông sản 
cũng như  hạn chế  phân bón, thuốc bảo vệ  thực vật hóa học. Nhưng cho đến nay  
chưa có chế  phẩm sinh học chuyên dụng cho cây lạc tại Thừa Thiên Huế  được 
nghiên cứu phát triển.
Vì vậy, việc nghiên cứu và  ứng dụng bón phân hữu cơ và các chế phẩm sinh  
học trong sản xuất nông nghiệp nhằm hạn chế phân bón hóa học, góp phần bảo vệ 
môi trường và xây dựng một nền nông nghiệp phát triển bền vững. Điều này thật  
sự  rất cần thiết và có ý nghĩa to lớn trong sản xuất nông nghiệp.  Ở  Thừa Thiên 


3


Huế  nói riêng và miền Trung nói chung, việc  ứng dụng phân hữu cơ  và các sản 
phẩm sinh học chưa được rộng rãi, thậm chí còn rất hạn chế  trong bối cảnh biến  
đổi khí hậu hướng đến sản xuất nông nghiệp bền vững và an toàn. 
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, đề tài: “Nghiên cứu hiệu quả sử dụng 
phân hữu cơ với chế phẩm Trichoderma và Pseudomonas cho cây lạc tại Thừa 
Thiên Huế” được thực hiện  nhằm chọn được công thức phân bón có khả  năng 
cung cấp chất dinh dưỡng cho đất, cây trồng và góp phần nâng cao hiệu quả  sản  
xuất lạc tại Thừa Thiên Huế.
2. MỤC ĐÍCH VÀ MỤC TIÊU ĐỀ TÀI
 Mục đích của đề tài
Xác định được  ảnh hưởng của phân hữu cơ  với các chế  phẩm sinh học đến  
cây lạc, làm cơ sở cho việc xây dựng quy trình kỹ thuật hợp lý nhằm nâng cao năng 
suất lạc và phát triển sản xuất lạc bền vững theo hướng sinh học. 
 Mục tiêu của đề tài
Đánh giá được hiệu quả sử dụng của phân hữu cơ với chế phẩm  Trichoderma 
và Pseudomonas cho cây lạc trên đất cát ven biển và đất xám bạc màu nhằm nâng  
cao hiệu quả sản xuất lạc tại tỉnh Thừa Thiên Huế.
3. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN
 Ý nghĩa khoa học
­ Cung cấp các dẫn liệu khoa học về hiệu quả sử dụng phân hữu cơ  với chế 
phẩm  Trichoderma  và  Pseudomonas  đến sinh trưởng, phát triển, năng suất lạc và 
hiệu quả sản xuất lạc trên đất cát ven biển và đất xám bạc màu.
­ Là nguồn tài liệu tham khảo, thông tin mới làm cơ sở cho việc sử dụng chế 
phẩm sinh học cho cây lạc trên đất cát ven biển và đất xám bạc màu.
 Ý nghĩa thực tiễn
­ Góp phần ứng dụng phân hữu cơ và chế phẩm sinh học có ích trong sản xuất  
nông nghiệp bền vững.
­ Những kết quả nghiên cứu của đề tài đạt được sẽ là những tiến bộ khoa học  
mới làm cơ  sở  sản xuất lạc bền vững theo hướng sinh học  ở Thừa Thiên Huế  và 



4

các địa phương khác.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
­ Nghiên  cứu  ảnh  hưởng  của  phân hữu  cơ   với  chế  phẩm   Trichoderma  và 
Pseudomonas cho cây lạc trong chậu trên đất cát ven biển và đất xám bạc màu tại 
nhà lưới Khoa Nông học, Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế để xác định các  
công thức có tiềm năng cho sinh trưởng và năng suất, nhằm có cơ  sở  tiếp tục  
nghiên cứu trong điều kiện đồng ruộng. Thời gian tiến hành thí nghiệm trong nhà 
lưới từ tháng 01 ­ 04 năm 2013.
­ Nghiên cứu hiệu quả  sử  dụng phân hữu cơ  với chế  phẩm   Trichoderma  và 
Pseudomonas cho cây lạc trong điều kiện đồng ruộng. Các thí nghiệm đồng ruộng 
được bắt đầu tiến hành từ tháng 12/2013 đến tháng 10/2015 (bao gồm 4 vụ liên tục: 
Đông Xuân 2013­2014, Hè Thu 2014; Đông Xuân 2014­2015 và Hè Thu 2015). Đề tài 
tập trung nghiên cứu hiệu quả sử dụng phân hữu cơ và chế phẩm sinh học đến sinh 
trưởng phát triển, các chỉ  tiêu sinh lý, khả  năng phòng trừ  sâu bệnh, năng suất và  
hiệu quả kinh tế trong sản xuất lạc.
­ Mô hình  ứng dụng phân hữu cơ  và chế  phẩm  Trichoderma và Pseudomonas 
được tiến hành từ tháng 12/2015 đến tháng 6/2016.
­ Thí nghiệm đồng ruộng và mô hình được thực hiện trên hai loại đất: đất cát 
ven biển tại xã Quảng Lợi, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế  và đất xám  
bạc màu tại phường Tứ Hạ, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế.
5. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
­ Kết quả  nghiên cứu đã xác định được  công thức bón phân hữu cơ  với chế 
phẩm Trichoderma và  Pseudomonas tốt nhất cho cây lạc trên 2 loại đất trồng lạc 
phổ biến tại Thừa Thiên Huế. Đất cát ven biển, công thức VI (02 tấn phân hữu cơ 
+ 40 kg N + 60 kg P2O5 + 60 kg K2O + 400 kg vôi + Trichoderma và Pseudomonas 
với tỷ lệ 50:50) và đất xám bạc màu, công thức V (02 tấn phân hữu cơ + 40 kg N +  

60 kg P2O5  + 60 kg K2O + 400 kg vôi +  Trichoderma  và  Pseudomonas  với tỷ  lệ 
30:70).
­ Kết quả nghiên cứu của đề tài đã đánh giá được  hiệu quả của việc sử dụng  
phân hữu cơ với chế phẩm sinh học đến việc cải tạo sinh tính và tính chất hóa học  
trên đất cát ven biển và đất xám bạc màu tại tỉnh Thừa Thiên Huế.


5

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Vai trò của cây lạc
­ Trong nền kinh tế quốc dân
Lạc là cây trồng cho giá trị sản lượng trên 1 ha chỉ xếp sau cây lúa (so sánh với 
bốn cây trồng vụ Xuân là lúa, ngô, lạc và đậu tương) nhưng hiệu quả thu được trên 
1 ha thì lạc là cây đạt cao nhất. Như vậy, lạc là cây trồng có khả năng để làm giàu, 
vừa phù hợp với những nơi nghèo có vốn đầu tư thấp.
Trên thế  giới cũng như   ở  Việt Nam, lạc là một trong những mặt hàng nông  
sản xuất khẩu chủ lực với khối lượng xuất khẩu lớn và có giá trị kinh tế cao. Châu  
Á và Châu Mỹ là hai châu lục có khối lượng xuất khẩu lạc lớn nhất (chiếm 78,56%  
khối lượng lạc xuất khẩu trên thế  giới). Việt Nam là nước đứng thứ  bảy trong số 
các nước xuất khẩu lạc chính sau Mỹ, Trung Quốc, Argentina, Sudan, Hongkong,  
Ấn Độ, Zambia [74].
Những năm gần đây, Việt Nam đã xuất khẩu khoảng 70 ­ 80 ngàn tấn lạc  
nhân qua các nước như Đức, Pháp, Ý... cho nên lạc là cây đem lại nguồn thu ngoại  
tệ quan trọng [78]. Mặc dù thị trường lạc nhân thế giới bấp bênh nhưng xuất khẩu  
lạc nhân là một ngành hàng nông sản khá tiềm năng do có giá trị  xuất khẩu cao và  
nhu cầu thị  trường thế  giới lớn. Hiện nay trên thị  trường thế  giới mỗi năm có  
khoảng 1,2 triệu tấn lạc nhân được giao dịch nên lạc nhân vẫn được xếp vào một  

trong những mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của đất nước.
­ Trong nông nghiệp và công nghiệp chế biến
Lạc là cây trồng có ý nghĩa đối với nhiều nước trên thế giới, đặc biệt với các 
nước nghèo vùng nhiệt đới. Ngoài giá trị kinh tế của lạc, đối với ép dầu, trong công 
nghiệp thực phẩm, trong chăn nuôi, lạc còn có ý nghĩa to lớn trong việc cải tạo đất 
do khả năng cố định đạm (N) của nó. Rễ lạc có thể tạo ra các nốt sần do vi sinh vật 
cộng sinh cố định đạm hình thành, đó là vi khuẩn Rhizobium vigna. Rhizobium vigna 
có thể tạo nốt sần ở rễ một số cây họ đậu. Nhưng với lạc thì tạo được nốt sần lớn  
và khả năng cố định đạm cao hơn cả. Theo  ước tính, cây họ  đậu có thể đưa lại 80  
triệu tấn đạm mỗi năm từ nguồn nitơ không khí [1].


6

Qua kết quả phân tích thân lá lạc cho thấy hàm lượng khoáng chất không thua 
kém gì phân chuồng. Tính theo chất khô thì tỷ lệ lân và kali trong thân lá lạc bằng 2 
lần phân chuồng. Nên thân lá lạc còn là loại phân xanh có giá trị  cả về  chất lượng  
và khối lượng, và theo ước tính thì 01 ha thân lá lạc đủ bón cho 2 ­ 3 ha lúa và năng  
suất tăng rõ rệt [26].
Bên cạnh đó, lạc còn là nguồn thức ăn tốt cho gia súc. Thân lá có tỷ lệ đường  
>24%, protein >10% làm thức ăn xanh cho gia súc. Vỏ  lạc có 3,7% protein; 1,4%  
lipid; 32,3% gluxit nên có thể  cung cấp đầy đủ  chất dinh dưỡng cho gia súc [60]. 
Trong công nghiệp, hạt lạc được dùng trong công nghiệp ép dầu. Trên thế  giới có 
khoảng 80% số lạc sản xuất ra được dùng ở  dạng dầu ăn, khoảng 20% được chế 
biến bằng các sản phẩm khác như: bánh kẹo, mứt, bơ...
1.1.2. Nhu cầu dinh dưỡng của cây lạc
Theo kết quả nghiên cứu, để đạt 1 tấn quả (kèm với thân lá), cây lạc lấy đi từ 
đất 64 kg N, 16 kg P2O5, 27 kg K2O, 26,3 kg Cao, 16,7 kg MgO và 7,1 kg S [14]. Hầu 
hết các loại đất trồng lạc ở nước ta có hàm lượng chất dinh dưỡng thấp, nông dân  
ít chú trọng đến việc bổ  sung phân bón nên năng suất lạc đạt rất thấp. Năng suất 

lạc còn chênh lệch quá lớn giữa năng suất tiềm năng và năng suất thực tế  [ 15]. 
Phân bón là một trong những yếu tố có  ảnh hưởng quyết định đến sinh trưởng và 
phát triển cũng như khả năng hình thành năng suất của tất cả các cây trồng.
* Đạm (N)
Nitơ có vai trò quan trọng đối với sinh trưởng, phát triển và năng suất lạc. Nhu 
cầu đạm của lạc cao hơn nhiều so với các loại cây ngũ cốc vì hàm lượng protein  
trong hạt chiếm 26 ­ 34% cao hơn 1,5 lần so với hạt ngũ cốc.
Cây lạc có thể  lấy nitơ  từ  nhiều nguồn: Nguồn nitơ  từ khí trời thông qua vi 
khuẩn cố định đạm, nguồn nitơ có sẵn trong đất, nguồn nitơ  từ phân hữu cơ  và vô 
cơ. Nguồn đạm cố định được có thể đáp ứng được 50 ­ 70% nhu cầu đạm của cây 
lạc. Cây lạc là cây đậu đỗ  có khả  năng cố  định nitơ  phân tử  do cộng sinh với vi  
khuẩn nốt sần để  tổng hợp đạm cung cấp cho cây. Tuy nhiên, vì nốt sần của cây 
lạc được hình thành khi cây bắt đầu phân cành đến bắt đầu ra hoa, nên ở giai đoạn  
đầu sinh trưởng khi cây 3 ­ 4 lá cần bón bổ  sung một lượng đạm hoặc bón một 
lượng phân hữu cơ, nhằm tạo điều kiện cho cây sinh trưởng và phát triển mạnh,  
thúc đẩy sự  phát triển của vi khuẩn cộng sinh  ở  giai đoạn sau [15],  [35]. Lượng 
đạm bón cho cây có tương quan chặt chẽ  đến chiều cao cây, chiều dài cành. Bón  


7

đạm quá ngưỡng sẽ gây nên hiện tượng mất cân đối giữa sinh trưởng sinh dưỡng  
và sinh trưởng sinh thực, thân lá phát triển mạnh làm ảnh hưởng đến quá trình tạo 
quả và hạt, dẫn đến năng suất thấp.
Các nghiên cứu trước đây cho thấy trên nền phân chuống 8 ­10 tấn/ha thì 
lượng đạm bón thích hợp là 30kg N/ha. Tăng liều lượng N lên 40kg N/ha sẽ  làm 
giảm năng suất thực thu do sinh khối cây lạc phát triển mạnh [20]. Trần Thị Thu Hà 
(2004) [31] đã xác định, bón 30 kg N/ha cho năng suất lạc cao nhất và cao hơn từ 8,4  
­ 11,4% so với lượng bón 40 kg N/ha và 50 kg N/ha trên đất phù sa nghèo dinh 
dưỡng  ở  Thừa Thiên Huế. Tuy nhiên, trên đất cát ven biển Thừa Thiên Huế, Lê 

Thanh Bồn (1997) [9] đã xác định bón 40 kg N/ha làm tăng năng suất 10,18% so với  
đối chứng. Lượng N thích hợp cho cây lạc L23 tại Hà Tĩnh là 40 kg N/ha [56] và 30 
kg N/ha đối với giống lạc LDH01 trên đất xám bạc màu ở Bình Định [11].
* Lân
Lân là yếu tố dinh dưỡng quan trọng đối với lạc. Lân có tác dụng kích thích sự 
phát triển của bộ rễ, thúc đẩy sự hình thành nốt sần, tăng cường khả năng hút đạm  
của cây, thúc đẩy sự ra hoa đậu quả sớm. Cây lạc có nhu cầu lân nhiều nhất ở thời  
kỳ  từ  ra hoa đến sau hình thành quả.  Ở  thời kỳ  cây con hàm lượng lân trong cây 
không cao nhưng lân rất cần thiết để vi khuẩn nốt sần phát triển [82].
Theo nghiên cứu của Bùi Huy Hiền (1995) [35], trên đất cát biển không chua 
(pH 5,8 ­ 6,0) hiệu lực các loại phân lân (phân lân nung chảy và phân lân chậm tan) 
cao, chỉ  thấp hơn supe lân trên nền 8 tấn phân chuồng + 30 kg N + 30 kg K 2O/ha. 
Bón supe lân giúp năng suất lạc tăng 115% so với đối chứng và tăng 112% khi bón 
phân lân nung chảy.
Lượng lân thích hợp bón cho cây lạc trên đất cát biển ở Thừa Thiên Huế là 60 ­ 90 
kg P2O5/ha [8]; trên đất xám bạc màu ở Bình Định là 90 kg P2O5/ha [11] và ở Hà Tĩnh 
là 120 kg P2O5/ha [56].
* Kali
Kali không trực tiếp đóng vai trò là thành phần cấu tạo của cây, nhưng tham gia 
vào các hoạt động của các enzym và là chất điều chỉnh xúc tác, làm tăng cường mô  
cơ giới, tăng tính chống đổ  của cây, tăng tính chịu hạn. Vai trò quan trọng nhất của  
kali là xúc tiến quá trình quang hợp và sự hình thành quả. Thiếu kali, khả năng quang 


8

hợp và hấp thu đạm giảm, tỷ  lệ  quả  1 hạt tăng, khối lượng hạt và năng suất lạc  
giảm rõ rệt [15].
Theo Nguyễn Văn Bộ và cs (1999) [6], trên đất bạc màu phù sa cổ, hiệu suất  
sử  dụng kali của cây lạc 2,3 ­ 8,2 kg lạc vỏ/kg K 2O, năng suất lạc đạt cao nhất  ở 

lượng bón 90 kg K2O/ha và đạt hiệu quả  kinh tế  cao nhất  ở  lượng bón 60 kg 
K2O/ha.
Lượng phân kali hợp lý cho giống lạc LDH01 trên đất xám bạc màu  ở  Bình  
Định là 60 kg K2O/ha [11] và 80 kg K2O/ha đối với giống lạc L23 ở Hà Tĩnh [56].
* Trung lượng và vi lượng
Canxi là một nguyên tố  không thể  thiếu khi trồng lạc. Lượng canxi cây lạc  
hấp thu gấp 2 ­ 3 lần lượng lân. Vôi bón cho lạc có tác dụng khử chua cho đất, tạo  
môi trường thuận lợi cho vi khuẩn nốt sần phát triển và quan trọng nhất góp phần  
hình thành quả lạc [14].
Trên đất bạc màu bón vôi từ  300 ­ 500 kg/ha đã tăng năng suất lạc đáng kể,  
tăng lên trên 600 kg/ha đã làm năng suất lạc giảm. Trên đất cát biển, lượng vôi thích  
hợp 300 ­ 400 kg/ha [7],  [14]. Theo Trần Thị  Thu Hà (2004) [31], lượng vôi bón 
thích hợp cho cây lạc trồng tại tỉnh Thừa Thiên Huế là 500 kg/ha đối với đất phù sa 
và 300 kg/ha đối với đất cát ven biển.
Các nguyên tố  vi lượng đóng vai trò là chất xúc tác hoặc là một thành phần 
của các enzim hoặc chất hoạt hóa của hệ enzim cho các quá trình sống của cây. Đối 
với cây lạc, có 2 nguyên tố vi lượng quan trọng là Molipden (Mo) và Bo (B). 
Molipden rất cần thiết cho hoạt động cố định N2 của vi khuẩn nốt sần. Trong  
điều kiện cây hút đủ  Mo thì số  lượng và trọng lượng nốt sần đều tăng, cường độ 
cố  định N của vi khuẩn nốt sần cũng tăng rõ rệt, do đó làm tăng lượng chứa đạm 
của cây. Thiếu Mo thì hoạt động cố  định N của vi khuẩn nốt sần bị giảm, cây có 
biểu hiện thiếu N. Trong điều kiện thiếu N, vai trò của sự cố định N được nâng cao  
thì vai trò của Mo càng quan trọng [2]. 
Bo (B) đóng vai trò quan trọng trong quá trình thụ phấn, thụ  tinh của cây lạc.  
Bo giúp cho quá trình hình thành rễ  được tốt, tia quả  không bị  nứt, hạn chế  nấm  
bệnh xâm nhập. Thiếu Bo, tỷ  lệ  hoa hữu hiệu giảm rõ rệt, số  lượng hoa cũng  
giảm, dẫn đến giảm số quả/cây, hạt lép, sức sống hạt giống giảm [2]. 


9


Ngoài 2 nguyên tố  vi lượng chính là Mo và Bo, một số  nguyên tố  vi lượng  
khác như Fe, Cu, Zn cũng đóng vai trò quan trọng đối với năng suất lạc. Tuy nhiên, 
thường cây có thể  hấp thu lượng dinh dưỡng này từ  đất đủ  cho quá trình sinh  
trưởng và phát triển của cây, trong sản xuất ít khi phải bổ  sung các loại vi lượng  
này [16].
Bón phân để  thỏa mãn yêu cầu về dinh dưỡng khoáng cho cây lạc nhằm đạt  
năng suất cao, phẩm chất tốt là vấn đề  được nghiên cứu từ  lâu và  ở  nhiều vùng  
trồng lạc trên thế  giới, người ta thường coi lạc là “cây trồng có phản  ứng thất  
thường”. Tuy nhiên, gần đây với những tiến bộ  trong công tác nghiên cứu dinh 
dưỡng khoáng cũng như  sinh lý cây lạc, đã nắm chắc hơn yêu cầu dinh dưỡng 
khoáng của cây lạc và sử dụng phân bón đạt được hiệu quả tốt hơn.
1.1.3. Các loại phân hữu cơ chủ yếu sử dụng trong sản xuất nông nghiệp
1.1.3.1 Phân hữu cơ truyền thống (phân hữu cơ nhà nông)
Theo các văn bản quy định của nhà nước về  phân bón hữu cơ  [3], [4], [5] và 
Bùi Huy Hiền [36], [37] thì phân hữu cơ truyền thống là loại phân có nguồn gốc từ 
chất thải người, động vật hoặc từ  các phế  phụ  phẩm trồng trọt, chăn nuôi, chế 
biến nông, lâm, thuỷ  sản, phân xanh, rác thải hữu cơ, các loại than bùn được chế 
biến theo phương pháp ủ truyền thống. Có thể chia phân hữu cơ  truyền thống làm  
các nhóm chính như sau:
­ Phân chuồng: là những loại phân hữu cơ tạo bởi phân gia súc, gia cầm (trâu,  
bò, lợn, gà...) được độn thêm các chất độn là phế phụ phẩm nông nghiệp (rơm, rạ,  
cỏ...). Phân chuồng có hai loại:
+ Phân chuồng tươi có thành phần dinh dưỡng chính: 24 ­ 25% chất hữu cơ;  
0,45 ­ 0,50% N; 0,25 ­ 0,3% P2O5 và 0,5 ­ 0,6% K2O.
+ Phân chuồng hoại mục (là phân chuồng tươi được  ủ  hoai sau 2 ­ 3 tháng),  
với thành phần dinh dưỡng chính gồm: 19 ­ 20% chất hữu cơ; 0,50 ­ 0,60% N; 0,30 ­  
0,40% P2O5 và 0,6 ­ 0,7% K2O.
Tùy theo điều kiện sản xuất mà nông dân có thể sử dụng phân chuồng tươi và  
phân chuồng hoai mục. Tuy nhiên, việc sử dụng phân chuồng tươi có thể  dẫn đến 

mang theo mầm bệnh và cỏ dại cho cây trồng.


10

­ Phân rác (phân xanh): loại phân này làm từ rơm, rạ, thân lá các cây ngô, đậu, 
đỗ, vỏ lạc, trấu, bã mía,... Thành phần trung bình của phân rác như  sau: 0,5 ­ 0,6%  
N; 0,4 ­ 0,6% P2O5; 0,5 ­ 0,8% K2O; 3 ­ 6% CaO.
­ Phân than bùn: dùng than bùn đã được phơi khô để độn chuồng, hoặc có thể 
dùng để  chế  biến phân rác, làm chất đốt, chất cải tạo đất. Than bùn không dùng 
trực tiếp làm phân bón, chỉ  để   ủ  phân rác hoặc độn chuồng; than bùn có độ  phân 
giải cao (>50%) và pH từ 5,5 trở lên có thể bón trực tiếp, nhất là dùng để làm chất 
cải tạo lý tính đất.
Ngoài ra còn một số loại phân hữu cơ truyền thống khác như:
­ Bùn ao, bùn hồ, bùn sông: có hàm lượng mùn trung bình là: 4,90% (dao động  
trong khoảng 1,65 ­ 14,90%), N tổng số: 0,23% (dao động 0,11 ­ 0,52%), P2O5 tổng 
số: 0,29% (dao động 0,21 ­ 0,48%), K2O tổng số: 0,40% (dao động 0,13 ­ 0,70%), 
H2S trung bình là 7,1 mg/100 g bùn (dao động 3,4 ­ 13,6 mg/100 g).
­ Khô dầu: là bã còn lại sau khi hạt đã ép lấy dầu. Tùy theo thành phần của  
mỗi loại khô dầu mà nông dân đã sử  dụng như loại phân bón hữu cơ, bón vào đất  
để cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng. Bình quân hàm lượng dinh dưỡng như sau:  
3,97% N; 1,23% P2O5; 0,91% K2O. 
1.1.3.2. Phân hữu cơ công nghiệp
­ Phân hữu cơ chế biến (công nghiệp) là một loại phân được chế biến từ các  
nguồn hữu cơ  khác nhau, theo một quy trình công nghiệp nhất định, để  tạo thành  
một loại phân hữu cơ bón vào đất, có tác dụng tăng năng suất cây trồng, cải tạo độ 
phì nhiêu đất tốt hơn so với bón vào đất bằng các nguyên liệu thô ban đầu [ 3], [4], 
[5]. Có thể chia ra các loại phân hữu cơ chế biến như sau:
­ Phân hữu cơ khoáng: là loại phân được sản xuất từ nguyên liệu hữu cơ được 
trộn thêm một hoặc một số yếu tố dinh dưỡng khoáng, trong đó có ít nhất một yếu  

tố dinh dưỡng khoáng đa lượng. Phân phải đảm bảo một số chỉ tiêu bắt buộc như 
sau:  ẩm độ  đối với phân bón dạng bột ≤ 25%; hàm lượng hữu cơ  tổng số ≥ 15%;  
hàm lượng Nts + P2O5hh + K2Ohh ≥ 8%. 
­ Phân hữu cơ sinh học: là loại phân được sản xuất từ nguyên liệu hữu cơ theo 
quy trình lên men có sự tham gia của vi sinh vật sống có ích hoặc các tác nhân sinh  
học khác. Phân phải đảm bảo một số  chỉ  tiêu bắt buộc như  sau:  ẩm độ  đối với  


11

dạng bột ≤ 25%; hàm lượng hữu cơ  tổng số  ≥ 22%; hàm lượng Nts ≥ 2,5%; hàm  
lượng axit humic (đối với phân chế biến từ than bùn) ≥ 2,5% (hoặc tổng hàm lượng  
các chất sinh học đối với phân chế  biến từ nguồn hữu cơ khác ≥ 2,0%). Nếu phân  
có bổ sung chất điều tiết sinh trưởng thì tổng hàm lượng của chúng ≤ 0,5%.
­ Phân hữu cơ  vi sinh: là loại phân được sản xuất từ  nguyên liệu hữu cơ  có 
chứa ít nhất một chủng vi sinh vật sống có ích với mật độ  phù hợp với quy chuẩn  
kỹ thuật đã ban hành. Phân phải đảm bảo một số chỉ tiêu bắt buộc: ẩm độ  đối với  
phân bón dạng bột ≤ 30%; hàm lượng hữu cơ tổng số ≥ 15%; mật độ mỗi chủng vi  
sinh vật có ích ≥ 1 × 106 CFU/g. 
­ Phân vi sinh vật: là loại phân trong thành phần chủ  yếu có chứa một hay  
nhiều loại vi sinh vật sống có ích bao gồm: nhóm vi sinh vật cố định đạm, phân giải 
lân, phân giải kali, phân giải cellulose, vi sinh vật đối kháng, vi sinh vật tăng khả 
năng quang hợp và các vi sinh vật có ích khác với mật độ phù hợp với quy chuẩn kỹ 
thuật đã ban hành. Phân phải đảm bảo một số chỉ tiêu bắt buộc như sau: 
Mật độ  mỗi chủng vi sinh vật có ích trên nền chất mang khử  trùng ≥ 10 8 
CFU/g; trên nền chất mang không khử  trùng có mật độ  vi sinh vật hữu ích > 106 
CFU/g.
1.1.3.3. Vai trò của phân hữu cơ
Cho đến nay, các tài liệu trong và ngoài nước đều khẳng định hàm lượng chất 
hữu cơ  trong đất là yếu tố  hàng đầu quyết định độ  phì nhiêu đất. Tuy nhiên, hàm  

lượng chất hữu cơ được tích lũy trong đất phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố như 
lượng hữu cơ bón vào, chất lượng hữu cơ, điều kiện tự nhiên (nhiệt độ, ẩm độ…), 
tốc độ phân giải hữu cơ trong đất, sử dụng bởi cây trồng, rửa trôi, xói mòn…
Trong điều kiện nhiệt đới ẩm, tốc độ khoáng hóa chất hữu cơ trong đất rất cao. 
Theo những nghiên cứu của Nguyễn Vi (1999) [84], thì các chất hữu cơ bón vào đất 
ở Việt Nam sẽ bị phân giải nhanh, bình quân 9 tháng đến 1 năm gần như đã phân giải  
hết. 
Đất mới khai hoang có hàm lượng hữu cơ khá cao (5 ­ 6%), song chỉ cần sau 4  
­5 năm canh tác cây lương thực ngắn ngày, lượng chất hữu cơ giảm trung bình 50 ­  
60% [54]. Nguyên nhân của sự suy giảm nói trên là do tổng hợp của nhiều nguyên 
nhân. Ngoài lượng cây trồng sử  dụng, thì quá trình khoáng hóa mạnh hữu cơ  do  
nhiệt độ cao, quá trình rửa trôi, xói mòn là những nguyên nhân chính. Nhưng nguyên  


12

nhân quan trọng nhất là việc bổ  sung hữu cơ  cho đất, cho cây không được chú ý 
đúng mức, chỉ nặng về phân hóa học.
­ Cải tạo đất

Mùn là một thực thể hữu cơ phức tạp, là cơ sở chủ yếu của độ  phì nhiêu của 
đất. Ngày nay quan điểm sinh học về  quá trình hình thành mùn được nhiều người 
công nhận cho rằng: Hình thành mùn là quá trình phân giải các chất hữu cơ. Các  
phản  ứng xảy ra trong quá trình hình thành mùn là các phản  ứng sinh hóa với sự 
tham gia của các enzym do vi sinh vật tiết ra.
Thành phần của mùn có cấu tạo đặc trưng bởi các hợp chất chính: như  axit  
humic, axit fulvic và các hợp chất humin, axit ulmic. Chất mùn là kho dự trữ thức ăn  
cho cây trồng. Axit mùn trong đất còn có tác dụng kích thích sự phát triển của rễ và  
sự sinh trưởng của cây trồng.
Bón phân hữu cơ là cung cấp thêm chất hữu cơ, bổ sung hàm lượng mùn, tạo 

nên cấu trúc bền vững, cải thiện độ  xốp, hạn chế  sự rửa trôi và xói mòn của đất, 
giúp cây hấp thụ  chất dinh dưỡng dễ  dàng hơn. Đất làm quá tơi không được bồi 
một lớp hữu cơ thì sau khi tưới nước hoặc sau khi mưa sẽ tạo thành một lớp váng 
ngăn cản việc lưu thông không khí, thấm nước, hạn chế nẩy mầm của hạt và dễ bị 
xói mòn.
Chất hữu cơ không chỉ là nguồn dinh dưỡng cung cấp cho cây trồng do mùn bị 
phân hủy và hòa tan các chất vô cơ trong đất [83] mà còn có tính chất bền vững đến 
tiềm năng, năng suất cao nhất cho phép của đất nhờ  con đường khoáng hóa và cải  
tạo tính chất lý ­ hóa đất [163]. Bên cạnh đó, nhờ  có các axit humic có trong phân  
hữu cơ đã giúp cho cây trồng hấp thu tốt chất dinh dưỡng [13].
Trong quá trình phân giải, phân hữu cơ  có thể  tăng khả  năng hòa tan các chất 
khó tan, tăng khả  năng trao đổi của đất. Hữu cơ  là nhân tố  tích cực tham gia vào 
chuyển hóa lân trong đất từ dạng khó tan sang dạng dễ tiêu, hữu dụng cho cây trồng  
[54]. Mặt khác sự bổ sung chất hữu cơ cho đất thông qua phân hữu cơ góp phần gia 
tăng khả  năng đệm trong hầu hết các loại đất, gia tăng sự  tạo phức chất hữu cơ ­  
khoáng để khắc phục các yếu tố độc hại trong đất [53].
Bón phân hữu cơ đơn thuần hoặc bón kết hợp phân hóa học thì vi sinh vật đất  
ổn định hơn, sự cân bằng sinh học trong đất được tốt hơn [47].


13

Phân hữu cơ  ngoài tác dụng làm tăng năng suất cây trồng như  các loại phân  
hóa học mà còn bồi dưỡng, cải thiện đất toàn diện, làm gia tăng lượng chất hữu cơ 
và mùn trong đất, giúp đất không bị bạc màu, đặc tính này không có ở phân hóa học.  
Quá trình này xảy ra chậm do phân hữu cơ  phân giải chậm nhưng nó có  ưu điểm 
hơn phân hóa học ở chỗ là nó cung cấp cho đất gần như đầy đủ các dưỡng chất N,  
P, K, Ca, Mg và các vi lượng khác [37]. Quan trọng hơn phân hữu cơ có tính chất tác 
động tốt đến hệ  vi sinh vật đất, bổ  sung nguồn vi sinh vật có lợi cho cây trồng,  
đồng thời là nguồn dinh dưỡng cho hệ vi sinh vật phát triển. 

Chất hữu cơ  trong đất đóng một vai trò quan trọng trong việc duy trì độ  phì 
nhiêu của đất và vì thế có thể làm tăng cường mức độ sản xuất nông nghiệp. Thêm  
vào đó, nó là một nguồn dinh dưỡng cho cây trồng, làm cải thiện các đặc tính lý hóa  
và sinh học của đất. Sự cải thiện này đối với đất tạo nên kết quả: (i) cây trồng trở 
nên chống chịu tốt hơn đối với khô hạn, sâu bệnh và tính độc; (ii) giúp sự hấp thu 
dinh dưỡng của cây trồng; (iii) tự chủ được chu trình dinh dưỡng hữu hiệu bởi sự 
hoạt động mạnh mẽ của vi sinh vật. Những yếu tố đó có vai trò làm giảm rủi ro thu 
hoạch, nâng cao thu nhập, giảm chi phí phân bón vô cơ cho nông dân [136].
Khi sử dụng phân hữu cơ bón cho cây trồng, quá trình phân hủy trong đất giúp:
­ Cải thiện kết cấu đất: Phân hữu cơ  khi bón vào đất sẽ  làm cho đất sét quá 

dính dẻo sẽ tơi xốp hơn, với đất cát thì lại làm cho các hạt cát dính lại với nhau, từ 
đó làm cho đất bớt rời rạc. Phân hữu cơ  còn cải tạo tính chất cơ lý của đất, chống 
xói mòn, chống chai hoá đất.
­ Tạo sự màu mỡ trong đất: Trong phân hữu cơ có chứa đầy đủ các nguyên tố 

nitơ, photpho, magiê, lưu huỳnh…  khi phân hủy sẽ  giải phóng ra các chất dinh 
dưỡng, làm đất tăng sự hấp thụ khoáng chất. Phân bố dinh dưỡng hợp lý, giúp phục 
hồi đất bạc màu, đất đã khai thác lâu năm và đất đã sử dụng nhiều phân hóa học.
­ Duy trì độ ẩm cho đất: Tăng thời gian lưu giữ nước giúp tốt cho đất. Các chất 

hữu cơ trong phân hữu cơ khi hòa tan vào đất sẽ trở thành một miếng xốp hút nước 
rồi luân chuyển nước vào đất để nuôi cây. Nếu thiếu chất hữu cơ nước sẽ bị thẩm  
thấu, từ đó đất sẽ bị đóng màng làm nước bị ứ đọng trên bề mặt đất, chảy tràn khiến  
xói mòn đất.
­ Tạo môi trường tốt cho vi khuẩn có lợi sinh sống:  Phân hữu cơ là môi trường 
dinh dưỡng tốt cho các loài vi sinh vật sống trong đất, các axit mùn là chất kháng  


14


sinh chống lại nấm bệnh và tuyến trùng ký sinh thực vật cũng như tiêu diệt các loài 
côn trùng phá hoại đất đai. Theo Nguyễn Văn Sức (1995, 1999) [69], [70], thì việc 
sử  dụng phụ  phẩm hữu cơ  của cây trồng bón vào đất, dù chất liệu có khác nhau, 
đều có ảnh hưởng tốt đến hoạt động sinh khối của vi sinh vật đất và tổng hoạt tính  
sinh học của đất. Bón phân hợp lý giữa phân khoáng và phân hữu cơ là yếu tố quan  
trọng để  điều chỉnh và tăng cường một cách có hiệu quả  các quá trình hoạt động  
sinh khối của vi sinh vật nói chung và các nhóm vi sinh vật chuyển hóa nitơ, phân 
giải cellulose… nói riêng và làm tăng đáng kể năng suất cây trồng trên đất xám bạc  
màu.
­ Thông khí: 95% chất dinh dưỡng của cây là lấy từ  không khí, ánh sáng và  
nước thông qua quá trình quang hợp. Nếu đất trồng xốp sẽ giúp cho sự khuếch tán 
không khí vào đất để trao đổi chất dinh dưỡng và độ ẩm, CO 2 được thoát ra do chất 
hữu cơ phân hủy, sẽ khuếch tán ra ngoài làm tăng quá trình hấp thu CO2 của cây.
­ Tăng năng suất cây trồng
Bón phân hữu cơ  cho cây trồng sẽ   ổn định năng suất, tăng chất lượng sản 
phẩm, tăng sức khỏe cộng đồng khi sử dụng sản phẩm nông nghiệp bón phân hữu  
cơ.
Sử  dụng phân hữu cơ  trong trồng trọt được đánh giá là một biện pháp phù 
hợp, an toàn và tiết kiệm trong nông nghiệp. Thông qua tác dụng phòng ngừa một  
số  bệnh hại nên nấm  Trichoderma  giúp giảm một phần thuốc bảo vệ  thực vật,  
giảm ô nhiễm môi trường, giúp cây trồng sinh trưởng khỏe, giúp đất tơi xốp, giữ 
độ phì đất lâu dài và cho sản phẩm sạch, an toàn không có dư lượng thuốc hóa học,  
giúp người nông dân tiết kiệm được tiền bạc hơn khi sử dụng các thuốc hóa học  
khác.
Phân hữu cơ giúp duy trì thế cân bằng vi sinh vật có lợi trong đất, chủ yếu là 
bảo vệ và cân bằng vi sinh vật có ích cũng như các loài thiên địch có lợi trên đồng  
ruộng. Do đó, thường xuyên bổ  sung chất hữu cơ  cho đất cũng như  các nguồn vi  
sinh vật có lợi để tạo điều kiện thuận lợi cho bộ rễ phát triển hạn chế mầm bệnh.  
Làm tăng hệ số sử dụng đạm, vì vậy làm giảm lượng đạm tiêu tốn để  tạo ra một  

đơn vị sản phẩm và làm tăng hiệu suất phân đạm. Phân hữu cơ cũng làm tăng hiệu  
lực của phân lân do vi sinh phân giải lân bị  kết tủa trong đất, giúp cây khỏe, tăng 
trưởng nhanh hơn, khả năng chống chịu sâu bệnh tốt hơn và cho năng suất cao hơn 
[58].


15

Sử  dụng phân hữu cơ  và các chế  phẩm sinh học sẽ  làm tăng năng suất cây  
trồng và bảo đảm an toàn vệ  sinh thực phẩm, nâng cao chất lượng và khả  năng  
cạnh tranh của nông sản Việt Nam [49].
Vì vậy, sử dụng phân hữu cơ và các chế phẩm sinh học bón cho cây trồng thay 
thế  cho phân chuồng, phân hóa học được xem là biện pháp quản lý cây trồng toàn  
diện, thân thiện với môi trường, tạo sản phẩm an toàn cho người tiêu dùng.
1.1.3.4. Giá trị sử dụng của phân hữu cơ
Phân hữu cơ nói chung có ưu điểm là chứa đầy đủ  các nguyên tố  dinh dưỡng 
đa, trung và vi lượng mà không một loại phân khoáng nào có được. Ngoài ra, phân  
hữu cơ  cung cấp chất mùn làm kết cấu của đất tốt lên, tơi xốp hơn, bộ  rễ  phát 
triển mạnh, hạn chế  mất nước trong quá trình bốc hơi từ  mặt đất, chống được  
hạn, chống xói mòn.
Vào những năm của thập kỷ  60 thế  kỷ  20 do nguồn phân khoáng có hạn nên 
sử  dụng phân chuồng bình quân hơn 6 tấn/ha/vụ. Trong giai đoạn 15 năm (1980 ­  
1995) việc sản xuất và sử  dụng phân hữu cơ  có giảm sút, nhưng từ  năm 1995 lại 
đây do yêu cầu thâm canh, do sự khuyến khích sản xuất, sử dụng phân hữu cơ được 
phục hồi, nên số lượng phân hữu cơ  được sản xuất, sử dụng đã tăng lên đáng kể. 
Kết quả điều tra của Viện Thổ nhưỡng Nông hoá ở một số vùng đồng bằng, trung 
du Bắc bộ và Bắc Trung bộ cho thấy bình quân mỗi vụ cây trồng bón khoảng 8 ­ 9 
tấn/ha/vụ [86]. 
Bón phân hữu cơ làm tăng năng suất cây trồng. Kết quả nghiên cứu khoa học 
trong rất nhiều năm của các viện, trường, cũng như  kết quả  điều tra kinh nghiệm 

của các hộ nông dân cho thấy, năng suất cây trồng và hiệu quả kinh tế cao, ổn định  
ở những nơi có bón tỷ lệ N hữu cơ và N vô cơ  cân đối với tỷ  lệ  N tính từ  hữu cơ 
chiếm khoảng 25 ­ 30% tổng nhu cầu của cây trồng. Ước tính do bón phân hữu cơ 
năng suất cây trồng đã tăng được 10 ­ 20%. Nếu tính riêng về thóc do bón phân hữu 
cơ đã đạt khoảng 2,5 ­ 3,0 triệu tấn thóc/năm.
Bón phân hữu cơ còn làm giảm hiệu lực của phân kali khoáng, nhất là với loại 
phân có khả năng giải phóng kali dễ dàng như phân chuồng. Điều này có nghĩa nếu 
bón phân chuồng thì có thể  giảm liều lượng phân kali khoáng. Đối với đậu tương 
khuyến cáo bón 5 ­ 6 tấn phân chuồng/ha trên đất phù sa và 8 ­ 10 tấn/ha trên đất  
bạc màu, đất cát ven biển, đất feralit trên nền phù sa cổ, ngoài phân bón vô cơ [87].


16

Sử dụng phân hữu cơ trong canh tác trên đất cát ven biển và đất xám bạc màu 
không chỉ có mục đích cân đối dinh dưỡng, mà chất hữu cơ còn có vai trò hàng đầu 
trong việc làm tăng hàm lượng mùn trong đất, cải thiện độ phì nhiêu, nâng cao hiệu  
quả  sử  dụng nước và phân vô cơ, giảm nguy cơ  sâu bệnh, tăng năng suất và chất  
lượng nông sản, cuối cùng là tăng hiệu quả  sản xuất. Chính vì vậy, ngoài việc sử 
dụng đầy đủ  và cân đối lượng phân khoáng cho đất cát ven biển và đất xám bạc  
màu, việc chú ý sử dụng phân hữu cơ là một nhu cầu tất yếu và không thể bỏ qua. 
Tuy nhiên, nếu ta chỉ  quan tâm đến việc sử  dụng phân hữu cơ  truyền thống 
như trước kia, sẽ hoàn toàn thiếu nguồn cung cấp và chất lượng. Con số thống kê  
cho thấy, ước tính lượng phân hữu cơ truyền thống chỉ có thể đáp ứng khoảng dưới 
20% nhu cầu phân hữu cơ hiện nay. Hơn 80% nhu cầu còn lại chỉ có thể được cung  
cấp bằng các nguồn phân hữu cơ chế biến (phân hữu cơ công nghiệp) [87]. 
1.1.4. Nấm Trichoderma
1.1.4.1. Đặc điểm của nấm Trichoderma
Chủng   nấm  Trichoderma  thuộc   nhóm   nấm   bất   toàn  (Deuteromycetes  hay 
Fungi Imperfecti), sinh sản vô tính bằng bào tử bụi, sắp xếp theo kiểu đính bào tử.  

Chúng được tìm thấy khắp mọi nơi từ những vĩ độ  cực Nam và cực Bắc. Hầu hết  
dòng Trichoderma đều hoại sinh, chúng phổ  biến trong những khu rừng nhiệt đới 
ẩm hay cận nhiệt đới, ở rễ cây, trong đất hay trên xác sinh vật đã chết, xác bã hữu  
cơ hay ký sinh trên những loại nấm khác. Nấm Trichoderma phát triển nhanh ở 25 ­ 
300C  có   một   số   ít   loài Trichoderma tăng   trưởng   được   ở   450C.  Mỗi   dòng   nấm 
Trichoderma spp. khác nhau sẽ yêu cầu nhiệt độ và độ ẩm khác nhau [122].
Trichoderma là giống nấm có vách ngăn (septate fungus) và cuống sinh bào tử 
phân nhánh, có dạng hình nón hoặc hình kim tự tháp [143]. Thể bình (phialide) được 
tạo thành  ở  đỉnh cuống sinh bào tử. Các bào tử  đính (conidia) được tạo ra tại đầu 
mút của các thể bình, nơi chúng tích lũy để hình thành các đỉnh bào tử đính ( conidial 
head) [112]. Các loài Trichoderma tạo khuẩn lạc có dạng cụm, bông (floccose) hay 
mọc thành búi (tufted) với màu sắc khác nhau (trắng, vàng, lục), là những đặc điểm  
được sử dụng để định danh loài trước đây [143]. Hiện nay, việc sử dụng những đặc 
điểm hình thái để  định danh các loài Trichoderma đang dần được thay thế  bởi các 
công cụ phân tử, nhanh và dễ dàng hơn [134].
1.1.4.2. Vai trò của nấm Trichoderma
­ Khả năng đối kháng


17

Nấm Trichoderma là thành viên phổ biến của hệ vi sinh vật đất, chúng thường 
tiết ra các men, kháng sinh gây độc cho nấm gây bệnh hoặc cạnh tranh điều kiện  
sống với nấm gây bệnh. Nấm  Trichoderma  có thể  kìm hãm sự  sinh trưởng, phát 
triển của nấm gây bệnh, giúp cây trồng phục hồi, sinh trưởng, phát triển.
Nấm Trichoderma có khả năng tiêu diệt và khống chế ngăn ngừa các loại nấm 
bệnh   hại   cây   trồng   gây   bệnh   xì   mủ,   vàng   lá   thối   rễ,   chết   yểu,   héo   rũ  
như: Rhizoctonia   solani, Fusarium, Pythium, Phytophthora   sp.,  Sclerotium   rolfsii,… 
Ngoài hiệu quả trừ nấm gây bệnh, làm giảm tỷ lệ  cây bị bệnh, chế phẩm từ nấm  
Trichoderma  còn   có   tác   dụng   tốt   đối   với   cây   trồng.   Dùng   chế   phẩm   nấm 

Trichoderma làm cho cây khỏe hơn, tăng sức đề kháng với vi sinh vật gây bệnh, tác  
dụng kích thích sinh trưởng cây trồng [101], [111]. 
Nấm Trichoderma thương hi
̀
ẹn di
̂ ẹn 
̂ ở vung xung quanh h
̀
ệ thông cua rê cay.
́
̉
̃ ̂  
Đay la loai nâm hoai sinh co kha nang ky sinh va đôi khang tren nhiêu loai nâm b
̂ ̀ ̣ ́
̣
́ ̉ ̆
́
̀ ́
́
̂
̀
̣
́ ệnh  
cay trông. Nh
̂
̀
ờ vạy, nhiêu loai 
̂
̀
̀ Trichoderma spp. đa đu

̃ ̛ợc nghien c
̂ ưu nhu la m
́
̛ ̀ ọt tac
̂ ́ 
nhan phong tr
̂
̀
ừ sinh hoc va đa đu
̣
̀ ̃ ̛ợc thuong mai hoa thanh thuôc tr
̛ ̛
̣
́
̀
́ ừ bệnh sinh hoc,
̣  
phan sinh hoc va chât cai tao đât
̂
̣
̀ ́ ̉ ̣
́ [122]. 
Co chê tac đ
̛
́ ́ ộng chinh cua nâm 
́
̉
́ Trichoderma la ky sinh va tiêt ra cac khang sinh
̀ ́
̀ ́

́
́
 
tren cac loai nâm gay b
̂ ́
̀ ́
̂ ẹnh. Ngoai hi
̂
̀ ẹu qua tr
̂
̉ ực tiêp tren cac tac nhan gay b
́
̂ ́ ́
̂ ̂ ẹnh cay,
̂
̂  
nhiêu loai
̀
̀  Trichoderma  con đinh cu 
̀ ̣
̛ ở  bê m
̀ ặt rê cay giup thay đôi kha nang biên
̃ ̂
́
̉
̉ ̆
́ 
dưỡng cua cay, nhiêu dong nâm đa kich thich s
̉
̂

̀
̀
́
̃ ́
́ ự  tang tru
̆
̛ơng cua cay, gia tang kha
̉
̉
̂
̆
̉ 
nang hâp thu dinh du
̆
́
̣
̛ơng, cai thi
̃
̉
ẹn nang suât cay va giup cay khang đu
̂ ̆
́ ̂ ̀ ́ ̂
́
̛ợc bệnh [122].
­ Ngăn chặn nấm bệnh trong đất
Trichoderma có khả năng ngăn chặn những loại nấm bệnh cây trong đất, như 
Rhizoctonia solani, Pythium  spp., vấn đề  này đã được công bố  rộng rãi trong các 
nghiên cứu những năm gần đây [100], [161].
Khả năng thứ hai của nấm Trichoderma là kháng nấm. Trichoderma thamatum 
có rất nhiều trong đất hữu cơ  tại vườn  ươm  ở  Colombia có khả  năng ngăn chặn  

nấm Rhizoctonia solani [101] và Trichoderma hazianum có nhiều khi phân lập từ đất 
tại Mexico có khả năng ngăn chặn nhiều loại nấm đất. Dưới nhiệt độ và tia phóng  
xạ  gamma không thể  tiêu diệt được nấm   Rhizoctonia  solani, ngược lại trên môi 
trường  Trichoderma   hazianum  diệt   được   nấm   này   đây   là   vai   trò   chính   của 
Trichoderma trong phòng trừ sinh học.


18

Trichoderma đóng vai trò quan trọng trong việc phân hủy xác hữu cơ có trong 
đất [132]. Chất hữu cơ được phân hủy nhanh hơn nhờ  các men phân hủy glucose, 
cellulose do Trichoderma tiết ra trong hoạt động sống [75].
­ Xử lý hạt giống
Xử  lý Trichoderma vào hạt giống, đã  ảnh hưởng rõ đến khả  năng xâm nhập  
của Trichoderma vào trong đất. Đây là một phương pháp rất có ý nghĩa trong việc 
phòng trừ nấm gây bệnh ở giai đoạn hạt đến giai đoạn cây con.
Trichoderma có hiệu quả nhất trong việc phòng trừ bệnh chết rạp cây con, với  
khả  năng tăng sinh khối hệ  rễ, ngăn cản bệnh gây hại cây trồng bằng cách cạnh 
tranh, ký sinh trên nấm hoặc kháng sinh nấm. Ngoài ra, chúng còn gây  ảnh hưởng  
mạnh đến vi khuẩn và các loại nấm khác trong đất.
Việc lựa chọn các chủng vi khuẩn đối kháng khác nhau với cơ chế phòng trừ 
bệnh hiệu quả  để  sử  dụng trong phòng trừ  bệnh tổng hợp là giải pháp tốt trong 
chiến lược phòng trừ bệnh. Việc sử dụng các tác nhân sinh học để xử lý hạt giống 
hoặc tưới với đất đóng vai trò trong phòng trừ  bệnh hại do nấm gây ra do cơ  chế 
trực tiếp đó là cạnh tranh dinh dưỡng, tiết ra các chất kháng sinh hoặc gián tiếp  
bằng các cơ chế kích kháng [159].
­ Kích thích tăng trưởng của cây trồng
Những lợi ích mà những loài nấm Trichoderma mang lại đã được biết đến là 
việc kích thích sự tăng trưởng và phát triển của thực vật, do việc kích thích sự hình  
thành nhiều hơn và phát triển mạnh hơn của bộ rễ so với thông thường. Những cơ 

chế giải thích cho các hiện tượng này chỉ mới được hiểu rõ ràng hơn trong thời gian 
gần đây. Hiện nay, một số giống nấm Trichoderma đã được phát hiện là chúng có 
khả năng gia tăng số lượng rễ mọc sâu (sâu hơn 1 m dưới mặt đất). Những rễ  sâu  
này giúp các loài cây như ngô hay cây cảnh có khả năng chịu được hạn hán.
Một khả  năng đáng chú ý nhất là những cây ngô có sự  hiện diện của nấm  
Trichoderma dòng T22 ở rễ, thì có nhu cầu về đạm thấp hơn đến 40% so với những 
cây không có sự hiện diện của loài nấm này ở rễ.
1.1.4.3. Cơ chế tác động của nấm Trichoderma
­ Cơ chế ký sinh nấm
Ký sinh nấm là sự tấn công trực tiếp của một loài nấm trên loài nấm khác và 


19

thường được định nghĩa là sự  đối kháng trực tiếp [107], bao gồm 4 bước liên tiếp 
[103].   Bước   đầu   tiên   được   gọi   là   sự   phát   triển   có   tính   chất   hướng   hóa 
(chemotrophic growth), tức là tiết ra một tác nhân kích thích hóa học gây ra bởi nấm 
ký chủ đã hấp dẫn chủng nấm ký sinh (nấm đối kháng) [ 102], [152]. Bước thứ hai 
được gọi là sự  nhận diện đặc hiệu (specific recognition), tức chủng nấm ký sinh 
nhận diện được bề mặt tế bào của nấm ký chủ [94]. Bước thứ ba bao gồm hai quá 
trình tách biệt nhau. Quá trình thứ nhất được gọi là sự quấn (coiling), tức sợi nấm  
ký sinh Trichoderma bao quanh sợi nấm ký chủ  [101], [139]. Quá trình thứ  hai bao 
gồm sự tương tác và tiếp xúc sợi nấm gắn kết với nhau (intimate hyphal interaction  
and contact), tức sợi nấm  Trichoderma  phát triển hoàn toàn dọc theo sợi nấm ký 
chủ. Bước thứ tư và cũng là bước cuối cùng bao gồm sự tiết các enzyme phân giải  
đặc biệt, chúng sẽ phân hủy vách tế bào của nấm ký chủ [103].
Các nghiên cứu cấu trúc siêu vi (ultrastructural) và mô hóa học (histochemical)  
đã chứng minh rằng các enzyme của Trichoderma gây ra sự  phân giải vách tế  bào 
nấm ký chủ tại vị trí tiếp xúc giữa sinh vật đối kháng và ký chủ [96], [97]. Sự hiện 
diện của chitin và/hoặc các sợi  β­glucan, gắn chặt trong chất nền protein, trong  

vách các tế bào nấm bệnh đề  xuất rằng sự phân giải hệ  sợi nấm của chúng trong 
quá trình ký sinh có thể được thực hiện nhờ β­glucanase, chitinase và protease [140], 
[141]. Sự  hình thành các enzyme này đã được nghiên cứu trong quá trình tương tác  
vật ký sinh ­ ký chủ  giữa các loài Trichoderma spp. với một số nấm gây bệnh cây 
trồng nhất định [120], cũng như dưới điều kiện mô phỏng nhân tạo của quá trình ký  
sinh nấm (khi Trichoderma spp. được cho phát triển trên các môi trường có chứa hệ 
sợi nấm vô trùng hoặc các vách tế  bào nấm bệnh) [98], [104], [114]. Nghiên cứu 
cho thấy, hoạt động thủy phân của các chủng Trichoderma khảo sát đối với vách tế 
bào nấm bệnh có tương quan với mức độ  mà chúng bị  ức chế [139]. Bên cạnh đó, 
hoạt động phối hợp giữa các enzyme phân giải với chất kháng sinh là một nhân tố 
khác có thể nâng cao khả năng ức chế mầm bệnh cây trồng của  Trichoderma [128], 
[152].
­ Cơ chế kháng sinh
Kiểu tương tác này được định nghĩa là sự  đối kháng gián tiếp vì ở  đây sự  đối 
kháng diễn ra mà không yêu cầu phải có sự tiếp xúc [ 107]. Người ta đã chứng minh 
rằng Trichoderma có khả  năng tiết ra một lượng lớn các chất chuyển hóa thứ  cấp  
khác nhau có thể  ức chế nấm và vi khuẩn. Cơ  chế  kháng sinh thường diễn ra phối  


20

hợp với ký sinh nấm [147]. Theo đó, các chất kháng sinh có thể ức chế sự tạo thành  
vách tế  bào, làm gia tăng hoạt động của những enzyme thủy phân [135]. Các chất 
kháng sinh cũng có thể tác động tới nấm mục tiêu thông qua một loạt các cơ chế khác  
nhau, như kìm hãm sự  phát triển, sự  sản xuất các chất chuyển hóa, sự  hấp thu các  
chất dinh dưỡng và sự hình thành bào tử [ 124], [160]. Cũng giống như cơ chế ký sinh 
nấm, kháng sinh có đặc trưng cho từng loài và các loài Trichoderma khác nhau có khả 
năng kiểm soát sinh học không giống nhau. Thậm chí, các chủng  Trichoderma khác 
nhau trong cùng một loài cũng biểu hiện những hoạt tính tiêu diệt nấm mục tiêu khác  
nhau [115], [125].

­ Cơ chế cạnh tranh
Tương tác cạnh tranh giữa Trichoderma và vi sinh vật đất có thể được xem là 
sự đối kháng gián tiếp. Trichoderma có thể ức chế hoặc làm giảm sự phát triển của 
mầm bệnh cây trồng thông qua việc cạnh tranh về  không gian, cơ  chất enzyme,  
chất dinh dưỡng và oxygen [107]. Với bản chất phát triển nhanh và khả  năng sinh  
trưởng tốt trên nhiều loại cơ  chất khác nhau Trichoderma chính là những sinh vật 
chiếm lĩnh môi trường sống trong đất rất hiệu quả và có khả năng thay thế cho các 
sinh vật có khả  năng xâm chiếm kém hơn [139]. Tuy nhiên, khả  năng xâm chiếm 
của chúng bị   ảnh hưởng rất lớn bởi những nhân tố  môi trường đất, bao gồm pH,  
nhiệt độ và nước [131].
­ Cơ chế thúc đẩy sự phát triển và gia tăng sức đề kháng của cây trồng
Trichoderma  thúc đẩy sự  phát triển của cây trồng thông qua việc kích thích  
trực tiếp sự hấp thu các chất dinh dưỡng của chúng [130], [138] hoặc việc tiết các 
chất chuyển hóa có khả  năng đẩy nhanh sự  phát triển cây trồng như  các hormone  
tăng trưởng [161]. Với bản chất đối kháng nấm bệnh cây trồng của hầu hết các loài 
Trichoderma, chúng có thể thúc đẩy sự phát triển của cây trồng một cách gián tiếp 
thông qua việc ức chế các mầm bệnh và vì thế, làm gia tăng sự sinh trưởng của cây  
trồng [109].
­ Cơ chế tiết enzyme thủy phân của nấm Trichoderma
Việc các loài  Trichoderma  có thể  phân giải nhanh và hiệu quả  đối với hầu  
như bất kỳ loại hợp chất hữu cơ nào là nhờ vào lượng enzyme thủy phân mà chúng 
có  khả   năng  tạo  ra.   Các   vật  liệu  hữu   cơ   bao  gồm  các   loại   đường,   hormon  và 
heteropolysaccharide.   Vài   loại   enzyme   thủy   phân   của   các   loài  Trichoderma  đối 
kháng khác nhau đã được tạo dòng.


21

Hình 1.1. Những hoạt động kích thích sự tăng trưởng cây trồng của Trichoderma  
spp. Trực tiếp: (a) ký sinh nấm, (b) cạnh tranh; gián tiếp: (c) sự phát triển hệ sợi  

xung quanh vùng bầu rễ cây trồng và sản xuất các chất chuyển hóa 
(Nguồn: Verma và cs, 2007) [157].
1.1.5. Vi khuẩn Pseudomonas
1.1.5.1. Đặc điểm của vi khuẩn Pseudomonas
Vi khuẩn Pseudomonas thường là vi khuẩn Gram âm, hình que. Có tiên mao ở 
cực   nên   có   khả   năng   lội   tốt   trong   nước,   không   có   khả   năng   tạo   bào   tử. 
Pseudomonas là vi khuẩn sống tự do, chúng hiện diện khắp nơi như trong đất, trong 
nước, thực vật, động vật, một số  tàn dư  thực phẩm. Chúng có khả  năng hô hấp  
hiếu khí hay kỵ khí. Nhiệt độ thuận lợi để chúng phát triển là 30 ­ 370C. Tuy nhiên 
một số  chủng Pseudomonas lại có thể  sống tốt  ở  400C. Pseudomonas có thể được 
nuôi trong môi trường đơn giản và ở pH trung tính. Một vài chủng có thể tạo huỳnh  
quang dưới ánh sáng tia cực tím ở bước sóng 254 nm.
1.1.5.2. Vai trò của vi khuẩn Pseudomonas
Vi khuẩn  Pseudomonas  spp. phân bố  rộng rãi và có nhiều chủng loài, là vi  
khuẩn sống tự do, chúng có thể được tìm thấy trong đất, nước, trong thực vật, động 
vật.   Giống  Pseudomonas  spp.   có   nhiều   loài,   có   khả   năng   cố   định   đạm   như 
Pseudomonas   fluorescens,   Pseudomonas   stutzeri,   Pseudomonas   diminuta,  
Pseudomonas   paucimobilis,   Pseudomonas   pseudoflava,   Pseudomonas   putida,  
Pseudomonas saccharophila và Pseudomonas vesicularis. Một số  loài Pseudomonas 
có   khả   năng   hòa   tan   lân   như  Pseudomonas   fluorescens,   Pseudomonas   putida,  
Pseudomonas chlororaphis  [99], một số  có khả  năng tổng hợp kích thích tố  tăng  
trưởng như  Pseudomonas fluorescens, Pseudomonas putida, Pseudomonas syringae 
[154].


22

Hình 1.2. Pseudomonas dưới kính hiển vi điện tử
(Nguồn: Thrane và cs, 2000) [155].
Một số chủng Pseudomonas có ảnh hưởng quan trọng trong sự sinh trưởng và 

phát triển thực vật, tổng hợp kích tố  tăng trưởng thực vật như: auxin, cytokinin,  
kích thích sự  phát triển của bộ  rễ  cây làm gia tăng khả  năng hấp thu chất dinh 
dưỡng trong đất ở một số loài như: Pseudomonas putida, Pseudomonas fluorescens, 
Pseudomonas syringae [116], [154], [164].
1.1.5.3. Cơ chế tác động của vi khuẩn Pseudomonas
Pseudomonas  kích thích  sinh trưởng của cây trồng bởi vì chúng xúc tiến cây 
trồng sinh ra các chất kích thích sinh trưởng như auxin, xitokinyl, gibberellin  và tính 
kháng tập thể của cây, giúp cây kháng lại tốt hơn sự tấn công của mầm bệnh  [158]. 
Cơ chế tác động của vi khuẩn đối kháng Pseudomonas như sau:
Có khả năng sản sinh ra cyanide, tăng tính chống chịu của cây, sản sinh ra chất  
kích thích sinh trưởng và có khả năng phân giải độc tố do vi sinh vật gây bệnh tiết  
ra.
Có khả năng hấp thụ các ion Fe3+ trong môi trường với ái lực cao nhằm phục 
vụ trực tiếp cho sự sinh trưởng và hô hấp của vsv, làm cho môi trường xung quanh  
nghèo sắt, dẫn đến các loại vi sinh vật khác không có đủ ion Fe3+ cho quá trình sinh 
trưởng của mình, do đó chúng sẽ không sinh trưởng được.
Cạnh tranh dinh dưỡng với các vi sinh vật gây bệnh, ví dụ như tiết ra các hợp  
chất siderophore tạo điều kiện thuận lợi cho việc cạnh tranh Fe.
Có khả năng phòng chống lại nhiều loại vi sinh vật gây bệnh hại cây, nghĩa là 
có khả  năng chống lại những loại vi sinh vật gây bệnh mà những vi sinh vật đó  
thường làm giảm sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng.


23

PGPR: Plant Growth Promoting Rhizobacteria
ISR: Induction of Systemic Resistance of host plant by PGPR
Hình 1.3. Các cơ chế kich thich s
́
́ ự sinh trưởng thực vât b

̣ ởi PGPR
(Nguôn: Kumar và cs, 2011) 
̀
[133]
Kích thích sinh trưởng thực vật (Plant Growth Promoting Rhizobacteria­PGPR) 
do vi khuẩn vùng rễ khi tương tác với rễ cây có thể tạo ra tính kháng của cây chống  
lại vi khuẩn, nấm và virut gây bệnh. Hiện tượng này được gọi là tính kích kháng hệ 
thống ­ ISR (Induction of Systemic Resistance), cũng giống như  tính kích kháng hệ 
thống có điều kiện ­ SAR (Systemic Acquired Resistance).
1.1.6. Đặc điểm của đất cát ven biển và đất xám bạc màu 
1.1.6.1. Đất cát ven biển (Haplic Arenosols)
Đất cát ven biển ở Thừa Thiên Huế chiếm tỷ trọng lớn nhất trong 5 nhóm đất  
đồng bằng của tỉnh, với diện tích là 19.604 ha (chiếm 9,7% đất tự  nhiên). Đất cát  
ven biển có những tính chất rất đặc trưng, có độ phì tự nhiên thấp, các chất tổng số 
và dễ  tiêu đều  ở  mức nghèo, nên năng suất cây trồng trên loại đất này không cao. 
Mặt khác, đất cát ven biển có thành phần cấp hạt thô chiếm tỷ  lệ lớn, kết cấu rời  
rạc nên sự rửa trôi các chất dinh dưỡng theo trọng lực dễ dàng xảy ra. Đồng thời do  
nghèo mùn và dung tích hấp thu thấp, nên khả năng giữ nước và phân bị hạn chế.
Ðất cát ven biển nghèo mùn (OM% < 1%), chất hữu cơ phân giải mạnh (C/N < 
5). Nghèo N%: 0,03 ­ 0,08%, P2O5%: 0,02 ­ 0,04%, K2O%: 0,3 ­ 0,5%. Các chất dễ 
tiêu trong đất cũng đều  ở  mức nghèo đến rất nghèo, CEC trong đất thấp (3,3 ­ 8,0 


24

lđl/ 100g đất), tổng số cation kiềm trao đổi từ 1,5 ­ 6 lđl/ 100g đất. Đất có phản ứng  
trung tính ­ ít chua (biến động từ 4,5­ 7,5); đất có khả  năng giữ  phân và nước kém  
[10]. 
Đất được hình thành do quá trình bồi tích của biển nhưng đã được khai thác sử 
dụng từ  lâu đời, vì vậy tính chất lý hóa học của đất đã thay đổi theo chiều hướng  

có lợi cho sản xuất nông nghiệp. Đây là loại đất có độ phì tự nhiên thấp, nhưng có  
lợi thế về thành phần cơ  giới nhẹ, mực nước ngầm nông, lại thích hợp với nhiều  
loại cây trồng như: cây công nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả, rau màu, dưa, cà, cây 
gia vị... nếu chọn được cơ cấu cây trồng thích hợp, đầu tư thêm phân hữu cơ và các  
loại phân bón khác, thì có thể thu được hiệu quả kinh tế cao khi sản xuất trên loại  
đất này.
1.1.6.2. Đất xám bạc màu (Haplic Acrisols)
Ở  Thừa Thiên Huế  đất xám bạc màu có diện tích 800 ha, chiếm 0,16% tổng 
diện tích tự  nhiên, đất đều  ảnh hưởng của lớp đá mẹ  chua, nghèo chất kiềm thổ,  
thành phần cơ giới nhẹ bởi vì trầm tích biển đóng vai trò quan trọng trong việc hình  
thành đồng bằng này. Hơn nữa đồng bằng ở đây có đặc điểm là hẹp và dốc (do vị 
trí của dãy Trường Sơn đối với Biển Đông) nên lũ lên xuống nhanh làm cho các hạt  
sét và mùn giàu dinh dưỡng không kịp lắng đọng để  bồi đắp, vì vậy đất thường 
nghèo lân và kali.
Đất xám bạc màu có phản  ứng chua ít đến rất chua, pH KCl dao động từ  3,0 ­ 
4,5  chủ   yếu  4,0   ­   4,5;   hàm   lượng   Ca2+,   Mg2+  trao   đổi   rất   thấp   (Ca2+  +   Mg2+  < 
2mg/100g đất). Độ  no bazơ  và dung tích hấp phụ  thấp (<50%), hàm lượng mùn 
tầng đất mặt từ  nghèo đến rất nghèo (0,5 ­ 1,5%). Mức độ  phân giải chất hữu cơ 
mạnh (C/N < 10) các chất dinh dưỡng tổng số và dễ tiêu đều nghèo. 
Đất xám bạc màu có nhược điểm chua, nghèo chất dinh dưỡng, thường bị khô 
hạn, nhưng có giá trị  trong nông nghiệp. Phần lớn diện tích đất nằm  ở  địa hình 
bằng phẳng, thoải, thoáng khí, thoát nước, dễ canh tác và thích hợp với sinh trưởng 
của nhiều cây trồng cạn [10].
1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
1.2.1. Tình hình sản xuất lạc trên thế giới, ở Việt nam và Thừa Thiên Huế
1.2.1.1. Tình hình sản xuất lạc trên thế giới


25


Cây lạc chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế thế giới không chỉ gieo 
trồng trên diện tích lớn mà còn vì cây lạc được sử  dụng rất rộng rãi để  làm thực  
phẩm và nguyên liệu cho công nghiệp. Nhu cầu sử dụng và tiêu thụ ngày càng tăng 
đã và đang khuyến khích nhiều nước đầu tư  phát triển sản xuất lạc với quy mô 
ngày càng mở rộng.
Tình hình sản xuất lạc trên thế  giới trong 3 năm trở  lại đây được thể  hiện  ở 
bảng 1.1. Qua bảng 1.1 cho thấy:
Về  diện tích:  Ấn độ  là nước có diện tích trồng lạc lớn nhất thế  giới (5,52  
triệu ha) nhưng năng suất lại thấp (9,82 tạ/ha), nước có năng suất lớn nhất thế giới  
là Mỹ (44,85 tạ/ha), trong khi diện tích trồng lạc rất nhỏ (0,42 triệu ha).
Về  năng suất: Mỹ  là nước có năng suất trồng lạc lớn nhất thế  giới (44,85 
tạ/ha), tiếp đến là Trung Quốc (36,52 tạ/ha), Sudan là quốc gia có năng suất lạc  
thấp nhất (6,3 tạ/ha).
Bảng 1.1. Diễn biến về diện tích, năng suất và sản lượng lạc trên thế giới
(2014 ­ 2016)


×