Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Nồng độ axit uric huyết thanh trên bệnh nhân vảy nến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (299.29 KB, 7 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 2 * 2016

Nghiên cứu Y học

NỒNG ĐỘ AXIT URIC HUYẾT THANH TRÊN BỆNH NHÂN VẢY NẾN
Nguyễn Tâm Anh*, Lê Ngọc Diệp**

TÓM TẮT
Mở đầu: Bệnh vảy nến liên quan đến các rối loạn chuyển hóa và bệnh lý tim mạch. Giống như bệnh vảy nến,
sự phát triển của dịch tễ học đã ghi nhận axit uric có liên quan chặt với các rối loạn chuyển hóa, tình trạng tăng
axit uric là yếu tố tiên lượng nặng và tử vong trong các bệnh lý tim mạch. Nồng độ axit uric huyết thanh được
ghi nhận có tăng trên bệnh nhân vảy nến và những nghiên cứu gần đây còn ghi nhận mối liên quan giữa mức độ
nặng của vảy nến và nồng độ axit uric trong máu.
Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát nồng độ axit uric trong huyết thanh bệnh nhân vảy nến tại bệnh viện Da
Liễu TP.HCM và phân tích mối liên quan giữa nồng độ axit uric và một số đặc điểm lâm sàng của bệnh vảy nến.
Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang phân tích trên 104 bệnh nhân vảy nến điều trị tại bệnh viện Da Liễu
TP.HCM.
Kết quả: Khi so sánh với nhóm người bình thường, nhóm bệnh nhân vảy nến có nồng độ axit uric cao hơn
hẳn (5,55 + 1,59 vs 4,41 + 1,17 mg/dl, p<0,001) và tỷ lệ phần trăm số ca có nồng độ axit uric huyết thanh tăng
trong nhóm bệnh vảy nến cao hơn hẳn với nhóm người bình thường (24,04% và 5,71%, p<0,001). Phân tích hồi
quy logistic 3 yếu tố có thể gây tăng axit uric huyết thanh là giới tính, BMI và PASI cho kết quả chỉ có yếu tố
PASI là yếu tố nguy cơ độc lập dẫn đến tăng axit uric huyết thanh ở bệnh nhân vảy nến (p<0,05 và OR= 1,09).
Không có mối liên quan giữa tuổi khởi phát, thời gian bệnh với nồng độ axit uric huyết thanh.
Kết luận: Tình trạng tăng axit uric huyết thanh thường gặp ở bệnh nhân vảy nến. Chúng tôi ghi nhận có
mối liên quan giữa nồng độ axit uric huyết thanh và chỉ số PASI.
Từ khóa: Bệnh vảy nến, vảy nến khớp, axit uric.

ABSTRACT
SERUM URID ACID CONCENTRATION IN PSORIASIS PATIENTS
Nguyen Tam Anh, Le Ngoc Diep * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 20 - No 2 - 2016: 33 - 39
Background: Psoriasis is closely associated with features of the metabolic syndrome and cardiovascular


disease. Similarly to psoriasis, growing epidemiologic evidence suggests that elevated levels of serum uric acid
concentration (SUAC) are strongly associated with features of the metabolic syndrome and predict increased risk
of cardiovascular mortality and morbidity. Hyperuricaemia is a common finding in patients with psoriasis and
previous studies have reported inconsistent results about the association between serum uric acid concentration
and severity of the disease.
Objective: To define SUAC in psoriasis patients at Dermato-venereological hospital and assess any
association between SUAC and clinical features of psoriasis.
Method: Cross-sectional data from 104 patients with psoriasis who visited our clinic were analysed.
Results: Compared with control subjects, psoriatic patients had higher SUA levels (5.55 + 1.59 vs 4.41 +
1.17 mg/dl, p<0.001) and a remarkably greater prevalence of asymptomatic hyperuricemia ((24.04% vs 5.71%,
p<0.001). Multivariate logistic regression analysis revealed that PASI was the predictor of hyperuricemia (p<0.05
và OR= 1.09).There was no association with age of disease onset, duration of disease and SUAC.
* Bộ môn Da Liễu, Đại học y dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: TS. Lê Ngọc Diệp
ĐT 0938106969

Email

33


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 2 * 2016

Conclusions: Hyperuricemia is a common finding in psoriatic patients. SUAC in patients with psoriasis is
positively associated with PASI.
Key words: psoriasis; psoriatic arthritis; uric acid

ĐẶT VẤN ĐỀ


ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU

Vảy nến là một bệnh lý thường gặp, đây là
một bệnh da mãn tính do viêm. Ngày nay, vảy
nến được xem như một bệnh lý hệ thống vì bệnh
không chỉ ảnh hưởng đến da, mà còn liên quan
đến khớp, các rối loạn chuyển hóa và bệnh lý tim
mạch. Nhiều nghiên cứu trên thế giới cũng đã
ghi nhận sự gia tăng nồng độ axit uric trong
huyết thanh bệnh nhân vảy nến. Việc gia tăng
chuyển hóa purine do tăng chu trình của tế bào
biểu bì được cho là nguyên nhân gây tăng axit
uric ở bệnh nhân vảy nến. Nhiều nghiên cứu cho
thấy axit uric có liên quan với các rối loạn
chuyển hóa như béo phì, cao huyết áp, đái tháo
đường... Vì vậy mối liên quan giữa mức độ nặng
của vảy nến và nồng độ axit uric trong máu là
một vấn đề đáng được quan tâm.

Dân số đích

Tại Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên
cứu về các rối loạn chuyển hóa trong bệnh vảy
nến nhưng có rất ít công trình nghiên cứu về
nồng độ axit uric ở bệnh nhân vảy nến cũng như
mối liên quan giữa nồng độ axit uric và mức độ
nặng của bệnh vảy nến. Vì vậy, chúng tôi quyết
định thực hiện nghiên cứu “Nồng độ axit uric
huyết thanh trên bệnh nhân vảy nến tại bệnh

viện Da Liễu thành phố Hồ Chí Minh”.

Tất cả các bệnh nhân vảy nến tại khu vực
miền Nam.

Dân số nghiên cứu
Tất cả các bệnh nhân vảy nến đến điều trị tại
bệnh viện Da Liễu TP.Hồ Chí Minh từ tháng
07/2014 đến tháng 04/2015.

Tiêu chuẩn chọn mẫu
Bệnh nhân vảy nến điều trị tại bệnh viện Da
Liễu TP.Hồ Chí Minh.
Tuổi > 15.
Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu.

Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân đã được điều trị các thuốc được
biết là ảnh hưởng đến nồng độ axit uric huyết
thanh trong vòng 6 tháng trước khi nhập viện:
Cyclosporin, Isotretinoin, lợi tiểu Furosemide và
Thiazide, Ketoconazole, Theophylline, Salicylate,
Ethambutol.
Bệnh nhân mắc các bệnh gây ảnh hưởng đến
nồng độ axit uric huyết thanh như: Gout, thiếu
máu tán huyết, suy thận mạn, suy giáp, cường
tuyến cận giáp.

Mục tiêu nghiên cứu


Bệnh nhân béo phì với BMI > 30 hoặc nghiện
rượu nặng với mức tiêu thụ >75 ml ethanol/
ngày.

Định lượng nồng độ axit uric trong huyết
thanh bệnh nhân vảy nến.

Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên
cứu.

So sánh sự khác biệt về nồng độ axit uric
trong huyết thanh bệnh nhân vảy nến và nhóm
người bình thường.

Nhóm người bình thường
Tuổi > 15.

Phân tích mối liên quan giữa nồng độ axit
uric và một số đặc điểm lâm sàng như: tuổi, giới
tính, thời điểm khởi phát bệnh, biểu hiện lâm
sàng và độ nặng của bệnh nhân vảy nến.

Những người khỏe mạnh hiện tại không mắc
vảy nến và không có các tiêu chuẩn lọai trừ.

34

Đồng ý tham gia nghiên cứu.

Có độ tuổi và giới tính tương đồng với nhóm

bệnh nhân vảy nến.


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 2 * 2016
Phương pháp chọn mẫu
Chọn mẫu thuận tiện, liên tục.

Xử lý số liệu
Số liệu được lưu trữ và xử lý bằng phần
mềm SPSS 16.0.

KẾT QUẢ
Tổng số mẫu là 104 bệnh nhân vảy nến đến
khám và điều trị tại BV Da Liễu TP.HCM.

Một số đặc điểm dịch tễ
Giới tính
Nam chiếm 55,8 % (58 người) và nữ chiếm
44,2 % (46 người).
Tuổi
Tuổi trung bình của các đối tượng là
44,43+15,81 tuổi và dao động từ 15 đến 87.
Tuổi khởi phát
Tuổi khởi phát bệnh trung bình là 35.37 + 16
tuổi. Trong đó, khởi phát sớm nhất là 0 tuổi và
muộn nhất là 73 tuổi.
Thời gian mắc bệnh
Thời gian bệnh kéo dài trung bình là 9,06 +
9,29 năm.


Đặc điểm lâm sàng
Biểu hiện của bệnh vảy nến
Vảy nến mảng chiếm tỷ lệ cao nhất với
47,18%. Đứng thứ hai là vảy nến mảng biến
chứng đỏ da toàn thân 15,4% và vảy nến có
biểu hiện khớp 15,4 %, tiếp theo là vảy nến mủ
với 11,5%.
Đặc điểm tổn thương khớp
Trong 104 bệnh nhân có 23 bệnh nhân có
tổn thương khớp. Trong số bệnh nhân tổn
thương khớp có 16 bệnh nhân tổn thương
khớp ngoại biên (15,4%), 4 bệnh nhân có tổn
thương khớp ngoại biên và khớp trục (3,8%), 3
bệnh nhân chỉ có tổn thương khớp trục đơn
thuần (2,9%).
Đặc điểm tổn thương móng
Đa số bệnh nhân đều bị tổn thương móng, tỷ

Nghiên cứu Y học
lệ tổn thương móng là 75,96 % với số lượng
móng tổn thương trung bình là 16,37 + 5,04
móng. Các dạng tổn thương thường gặp nhất là
rỗ móng chiếm 82,69%, giọt dầu chiếm 78,85%
và tăng sừng dưới móng chiếm 69,23%.

Chỉ số PASI
Chỉ số PASI trung bình ở bệnh nhân vảy
nến mảng là 10,2 + 8,7 điểm, cao nhất là 32,9
điểm và thấp nhất là 0,4 điểm. Chúng tôi cũng
tiến hành phân nhóm bệnh nhân vảy nến

mảng theo chỉ số PASI [10]. Đa số bệnh nhân ở
mức độ nhẹ (45,7%).

Chỉ số BMI
Chỉ số BMI trung bình là 21,14 + 3,02 điểm.

Nồng độ axit uric huyết thanh
So sánh nồng độ axit uric huyết thanh giữa
bệnh nhân vảy nến và người bình thường
Bảng 1: So sánh nồng độ axit uric huyết thanh
giữa bệnh nhân vảy nến và người bình thường.
Nồng độ axit uric huyết thanh (mg/dl)
Nhóm vảy nến
Nhóm bình thường
5,55 + 1,59
4,41 + 1,17
(N= 104)
(N= 70)

P
<0,0001*

Nồng độ huyết thanh trung bình của nhóm
bệnh nhân vảy nến là 5,55 + 1,59, nhóm bình
thường là 4,41 + 1,17 với sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê (p<0,0001).

Tỷ lệ phần trăm tăng axit uric huyết thanh
giữa nhóm bệnh nhân vảy nến và nhóm người
bình thường

Với tiêu chuẩn xác định có tăng axit uric là
nồng độ axit uric huyết thanh của nam trên 7
mg/dl và nữ trên 6mg/dl, tỷ lệ phần trăm số ca
có nồng độ axit uric huyết thanh tăng trong
nhóm bệnh nhân vảy nến cao hơn 4 lần so với
nhóm người bình thường (24,04% và 5,71%).
Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<
0,0001.
Sự khác biệt về nồng độ axit huyết thanh theo
giới tính
Sự khác biệt về nồng độ axit uric giữa nam
và nữ có ý nghĩa thống kê (p<0,0001).

35


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 2 * 2016

Nghiên cứu Y học
Bảng 2: Sự khác biệt về nồng độ axit huyết thanh theo
giới tính.
Nồng độ axit uric huyết thanh (mg/dl)
Nhóm vảy nến nữ
Nhóm vảy nến nam
4,79 +1,37
6,14 + 1,51
(N= 46)
(N= 58)

P

<0,000
1*

Sự khác biệt về nồng độ axit uric huyết thanh
giữa nhóm bệnh nhân khởi phát sớm và khởi
phát muộn
Chúng tôi thấy không có khác biệt có ý nghĩa
thống kê về nồng độ axit uric huyết thanh giữa
nhóm bệnh nhân khởi phát sớm và nhóm khởi
phát muộn (p = 0,413).
Tương quan giữa nồng độ axit uric huyết thanh
với tuổi khởi phát và thời gian bệnh
Kết quả của chúng tôi ghi nhận không có sự
tương quan tuyến tính giữa nồng độ axit uric
huyết thanh với tuổi khởi phát (p=0,125) và thời
gian bệnh (p=0,198).

Sự khác biệt giữa nồng độ axit uric huyết thanh
với mức độ nặng của bệnh nhân vảy nến
Nồng độ axit uric huyết thanh bệnh nhân

BÀN LUẬN
Một số đặc điểm dịch tễ
Giới tính
Nhóm bệnh nhân vảy nến nam chiếm 55,8%
cao hơn nữ (chiếm 44,2%). Kết quả này tương tự
với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Tất Thắng(9),
Mai Phi Long(8). Tỉ lệ nam nhiều hơn có thể do lối
sống của nam giới ở Việt Nam tồn tại những thói
quen không tốt như hút thuốc lá và uống rượu

bia, đây là yếu tố khởi phát và làm bệnh vảy nến
nặng hơn. Hơn nữa nam giới thường có xu
hướng lo lắng kinh tế gia đình hơn, tham gia
công việc xã hội nhiều hơn, vì vậy khả năng bị
căng thẳng tinh thần nhiều hơn.
Tuổi
Kết quả của nghiên cứu cho thấy độ tuổi
trung bình của các đối tượng là 44,43 + 15,81 tuổi.
Kết quả này so với các tác giả trong nước và
nước ngoài đều tương đương như nghiên cứu
của Trương Lê Anh Tuấn(12), Phạm Thúy Ngà(11),
Phạm Ngọc Trâm(9), H. Takahashi và các cộng
sự(12), H. H. Kwon và các cộng sự(5).

của nhóm bệnh nhân vảy nến mảng mức độ

Tuổi khởi phát

nặng có giá trị cao nhất (5,99 + 3,16 mg/dl) và

Tuổi khởi phát bệnh trung bình là 35,37 +16
tuổi, phù hợp với nghiên cứu của Trương Lê
Anh Tuấn(12) và Phạm Ngọc Trâm(9).

nồng độ axit uric huyết thanh của nhóm bệnh
nhân vảy nến mảng mức độ nhẹ có giá trị thấp
nhất (5,01 + 0,23 mg/dl). Chúng tôi nhận thấy
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về nồng độ
axit uric huyết thanh giữa nhóm bệnh nhân
mức độ nhẹ, mức độ trung bình và mức độ

nặng (p = 0,034).

Tương quan giữa nồng độ axit uric huyết thanh
với chỉ số PASI của bệnh nhân vảy nến mảng
Phân tích hồi quy logistic đa biến 3 yếu tố
nguy cơ độc lập có thể gây tăng axit uric huyết
thanh là giới tính, BMI và PASI, kết quả cho thấy
chỉ có yếu tố PASI là yếu tố nguy cơ dẫn đến
tăng axit uric huyết thanh ở bệnh nhân vảy nến
với p < 0,05 và OR là 1,09.

36

Thời gian mắc bệnh
Thời gian bệnh kéo dài trung bình là 9,06
+9,29 năm, tương tự với nghiên cứu của H. H.
Kwon(5) và Trương Lê Anh Tuấn(12), Phạm
Ngọc Trâm(9).

Đặc điểm lâm sàng
Biểu hiện của bệnh vảy nến
Kết quả vảy nến mảng chiếm ưu thế, phù
hợp theo Fitzpatrick(4). Tỷ lệ vảy nến có biểu hiện
khớp và vảy nến biến chứng đỏ da toàn thân
trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với y
văn, tỷ lệ này khá cao có thể do nghiên cứu được
thực hiện tại bệnh viện Da Liễu TP. HCM là
tuyến chuyên khoa cuối cùng nên tiếp nhận
nhiều bệnh nhân nặng.



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 2 * 2016
Đặc điểm tổn thương khớp
Trong 104 bệnh nhân có 23 bệnh nhân có tổn
thương khớp. Kết quả này khá phù hợp với y
văn, tỉ lệ vảy nến khớp chiếm từ 10 đến 15%
bệnh nhân vảy nến.
Đặc điểm tổn thương móng
Đa số bệnh nhân đều bị tổn thương móng, tỷ
lệ tổn thương móng là 75,96 %. Nghiên cứu của
Phạm Ngọc Trâm(9) cho kết quả 89,09% bệnh
nhân có tổn thương móng (89,09%) và số bệnh
nhân tổn thương dạng rỗ móng chiếm tỷ lệ
nhiều nhất (87,76%). Theo Fitzpatrick(4) tổn
thương móng thường gặp trên 40% bệnh nhân
vảy nến nói chung. Số lượng bệnh nhân bị tổn
thương móng trong nghiên cứu của chúng tôi
cao hơn những ghi chép trong y văn có thể do
vảy nến là bệnh diễn tiến mạn tính nên các đối
tượng nghiên cứu có thể có thời gian bệnh thay
đổi, diễn tiến càng lâu, càng dai dẳng thì tổn
thương móng càng nhiều.

Chỉ số PASI
Chỉ số PASI trung bình là 10,2 + 8,7 điểm. Kết
quả này tương đương với nghiên cứu của Paolo
Gisondi và các cộng sự với chỉ số PASI trung
bình là 11,2 + 9(2).

Chỉ số BMI

Chỉ số BMI trung bình ở bệnh nhân vảy nến
mảng là 21,14 + 3,02 điểm, tương đương với
nghiên cứu của H. H. Kwon và cộng sự(5), Phạm
Thị Dung(10).

Nồng độ axit uric huyết thanh
So sánh nồng độ axit uric huyết thanh giữa
bệnh nhân vảy nến và người bình thường
Trong nghiên cứu của chúng tôi nồng độ axit
uric huyết thanh của nhóm bệnh nhân vảy nến
cao hơn có so với nhóm người bình thường
(p<0,0001), tương tự với nghiên cứu của
Gisondi(2). Bên cạnh đó, cũng có một số nghiên
cứu chưa tìm thấy sự khác biệt giữa nhóm bệnh
nhân vảy nến với nhóm người bình thường,
nguyên nhân có thể do cách chọn mẫu hay cỡ
mẫu không đủ lớn để tìm ra sự khác biệt này.

Nghiên cứu Y học
Bảng 3: So sánh nồng độ axit uric huyết thanh giữa
bệnh nhân vảy nến và người bình thường.
Tác giả
Chúng tôi
Paolo
Gisondi
Andrea
Peserico
Robert R.
Baumann
H. K. Kwon


Walker A.
Lea

Nồng độ axit uric huyết thanh
(mg/dl)
Nhóm vảy
Nhóm bình
nến
thường
5,55 +1,59
4,41 + 1,17
(N= 104)
(N= 70)
5,61 + 1,6
4,87 + 1,4
(N= 119)
(N= 119)
5,53 + 1,3
5,0 + 1,2
5,01 +0,01
(N= 76)
5,1 + 1,5
(N= 189)

4,75 + 1,18
(N =20)

4,17 +0,86
(N= 68)

5,2 + 1,4
(N= 20000)
5,2 + 1,4
(N= 6461)
3,97 + 1,35
(N= 24)

P

<0,000
1*
<0,05*
<0,05**
<0,05*

0,38*

>0,05*

Ghi chú: * phép kiểm Mann – Witney, ** phép kiểm t

Tỷ lệ phần trăm tăng axit uric huyết thanh
giữa nhóm bệnh nhân vảy nến và nhóm người
bình thường
Tỷ lệ phần trăm số ca có nồng độ axit uric
huyết thanh tăng trong nhóm bệnh nhân vảy
nến cao hơn 4 lần so với nhóm người bình
thường, tương tự với nghiên cứu của Gisondi và
cộng sự(2) với tỷ lệ phần trăm số ca có nồng độ
axit uric huyết thanh tăng trong nhóm bệnh

nhân vảy nến cao gấp 3 lần so với nhóm người
bình thường (19% và 7%). Nghiên cứu của H. H.
Kwon và cộng sự(5) cho kết quả có 19,8% bệnh
nhân tăng axit uric máu với tiêu chuẩn nồng độ
axit uric huyết thanh nam trên 6,8 mg/dl và nữ
trên 6mg/dl.
Sự khác biệt về nồng độ axit huyết thanh theo
giới tính
Bình thường nồng độ axit uric huyết thanh ở
nữ bao giờ cũng thấp hơn so với nam giới cùng
độ tuổi. Nghiên cứu cho thấy nhóm bệnh nhân
vảy nến nam có nồng độ axit uric huyết thanh
cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm bệnh
nhân vảy nến nữ với p<0,0001. Kết quả này
tương tự với nhiều nghiên cứu trên thế giới như
nghiên cứu của H. Kwon(5), Gisondi(2).

37


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 2 * 2016

Nghiên cứu Y học
Bảng 4: Sự khác biệt về nồng độ axit huyết thanh theo
giới tính
Tác giả
Chúng tôi
Andrea
Peserico
H. K. Kwon

Robert R.
Baumann
Paolo
Gisondi

Nồng độ axit uric huyết
thanh (mg/dl)
Nhóm vảy
Nhóm vảy
nến nữ
nến nam
4,79 + 1,37
6,14 + 1,51
(N= 46)
(N= 58)
4,9 + 1,3
6,1 + 1,3
(N= 96)
(N= 107)
4,4 + 1,3
5,8 + 1,3
(N= 88)
(N= 110)
4,42 + 0,01
5,73 + 1,25
(N= 42)
(N= 34)
4,47 + 1,4
6,01 + 1,6
(N= 31)

(N= 88)

P

<0,0001*
<0,01**
<0,01*
<0,05*
< 0,01*

Ghi chú: * phép kiểm Mann – Witney, ** phép kiểm t

Sự khác biệt giữa nồng độ axit uric huyết
thanh với mức độ nặng của bệnh nhân vảy
nến
Chúng tôi nhận thấy có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê về nồng độ axit uric huyết thanh
giữa nhóm bệnh nhân mức độ nhẹ, mức độ
trung bình và mức độ nặng (p= 0,034). Kết quả
này tương tự với kết quả nghiên cứu của H. H.
Kwon và các cộng sự(5), Gisondi và các cộng sự(2).
Tương quan giữa nồng độ axit uric huyết thanh
với chỉ số PASI của bệnh nhân vảy nến mảng
Kết quả của chúng tôi cho thấy chỉ có yếu tố
PASI là yếu tố nguy cơ độc lập dẫn đến tăng axit
uric huyết thanh ở bệnh nhân vảy nến với p<
0,05 và OR là 1,09. Nghiên cứu của Gisondi và
các cộng sự(2)cũng ghi nhận PASI là yếu tố nguy
cơ độc lập dẫn đến tăng axit uric, nghiên cứu của
H. H. Kwon và các cộng sự(5)kết luận rằng PASI

và BMI là hai yếu tố nguy cơ độc lập dẫn đến
tăng axit uric ở bệnh nhân vảy nến.

KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu nồng độ axit uric trong
huyết thanh 104 bệnh nhân vảy nến tại bệnh
viện Da Liễu TP. Hồ Chí Minh trong thời gian từ
tháng 07/2014 đến tháng 04/2015 và so sánh với
70 người bình thường, chúng tôi rút ra một số
kết luận sau:

38

Mẫu nghiên cứu của chúng tôi có tỉ lệ bệnh
nhân nữ (44,2 %) thấp hơn bệnh nhân nam
(56,8%). Phân loại biểu hiện của bệnh vảy nến:
vảy nến mảng chiếm tỷ lệ cao nhất với 47,1%.
Nồng độ axit uric trong huyết thanh trung bình
ở bệnh nhân vảy nến là 5,55 + 1,59 mg/dl. Nồng
độ axit uric huyết thanh trung bình nhóm người
bình thường 4,41 + 1,17 mg/dl. Trong đó tỉ lệ
phần trăm số ca có nồng độ axit uric huyết thanh
tăng trong nhóm bệnh nhân vảy nến cao hơn 4
lần so với nhóm người bình thường (24,04% và
5,71%).
Khi so sánh giữa nhóm vảy nến với nhóm
người bình thường, nồng độ axit uric huyết
thanh trung bình của bệnh nhân vảy nến cao
hơn so với nhóm người bình thường (p<0,0001).
Nồng độ axit uric huyết thanh trung bình của

bệnh nhân vảy nến cao hơn so với nhóm người
bình thường trong từng giới (p<0,0001). Chúng
tôi không ghi nhận có khác biệt về nồng độ axit
uric huyết thanh giữa nhóm bệnh nhân khởi
phát sớm và nhóm khởi phát muộn (p= 0,413).
Khi xem xét về mối liên quan giữa nồng độ
axit uric và các đặc điểm của bệnh vảy nến,
chúng tôi thấy không có sự tương quan giữa
nồng độ axit uric huyết thanh với thời gian bệnh
(p= 0,125) cũng như tuổi khởi phát (p= 0,198). So
sánh nồng độ axit uric giữa 3 nhóm mức độ
nặng của bệnh cho thấy có khác biệt về nồng độ
axit uric huyết thanh giữa nhóm bệnh nhân mức
độ nhẹ, mức độ trung bình và mức độ nặng (p=
0,034). Chúng tôi cũng ghi nhận có sự khác biệt
về tỷ lệ bệnh nhân có tăng axit uric huyết thanh
giữa nhóm bệnh nhân mức độ nhẹ, mức độ
trung bình và mức độ nặng (p= 0,026).
Chúng tôi tiến hành phân tích hồi quy
logistic 3 yếu tố có thể gây tăng axit uric huyết
thanh là giới tính, BMI và PASI cho kết quả chỉ
có yếu tố PASI là yếu tố nguy cơ độc lập dẫn đến
tăng axit uric huyết thanh ở bệnh nhân vảy nến
(p<0,05 và OR= 1,09).
Qua kết quả nghiên cứu thu nhận được
chúng tôi có những kiến nghị như sau: định


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 2 * 2016
lượng axit uric huyết thanh là một xét nghiệm

đơn giản, dễ thực hiện, cho kết quả nhanh
chóng, chính xác và chi phí khá thấp. Do đó,
nồng độ axit uric huyết thanh có thể được
khuyến cáo sử dụng như một công cụ hỗ trợ
trong việc đánh giá độ nặng của bệnh vảy nến
cũng như theo dõi và điều trị.

Nghiên cứu Y học

7.

8.

Chúng tôi hy vọng nghiên cứu này sẽ tạo
tiền đề cho những nghiên cứu lớn hơn, chuyên
sâu hơn về axit uric cũng như các rối loạn về
chuyển hóa trên bệnh vảy nến trong tương lai,
và có thể sử dụng axit uric như một yếu tố tiên
lượng độ nặng của bệnh vảy nến.

9.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

11.

1.

2.


3.

4.

5.

6.

Abdel-Hafez K, Abdel-Aty MA, Hofny ER (2003) "Prevalence
of skin diseases in rural areas of Assiut Governorate, Upper
Egypt". International journal of dermatology, 42 (11), 887-92.
Arican O, Aral M, Sasmaz S, Ciragil P (2005), "Serum Levels of
TNF-α, IFN-γ, IL-6, IL-8, IL-12, IL-17, and IL-18 in Patients
With Active Psoriasis and Correlation With Disease Severity",
Mediators Inflamm, 2005(5), pp.273-279.
Gisondi P, Tessari G, Conti A, et al (2007). Prevalence of
metabolic syndrome in patients with psoriasis: a hospitalbased casecontrol study. Br J Dermatol; 157: 68–73
GudjonssonEJ, Elder TJ (2012), "Psoriasis", Fitzpatrick's
Dermatology in General Medicine, McGraw-Hill, 7, 1, pp. 197231.
Kwon HH, KwonHI, Choi WJ and YounIJ (2010). “Crosssectional study on the correlation of serum uric acid with
disease severity in Korean patients with psoriasis”, Seoul
National University College of Medicine, Seoul, Korea.
Mai Phi Long (2013). “Nồng độ Interleukin 6 trong huyết
thanh bệnh nhân vảy nến điều trị tại bệnh viện Da Liễu TP Hồ

10.

12.

13.


Chí Minh từ tháng 11/2012 đến tháng 6/2013”, Luận văn thạc
sĩ y học chuyên ngành da liễu, Đại học Y Dược TP.Hồ Chí
Minh.
Nguyễn Đạt Anh (2012). Axit uric, Các xét nghiệm thường
quy áp dụng trong thực hành lâm sàng, nhà xuất bản Y Học,
tr. 56-60.
Nguyễn Tất Thắng (2003). "Nghiên cứu điều trị bệnh vảy nến
chưa biến chứng bằng kẽm và DDS", Luận án tiến sĩ y học
chuyên ngành bệnh học nội khoa, Đại học Y Dược TP.Hồ Chí
Minh.
Phạm Ngọc Trâm (2013). “Nồng độ Interleukin 7 trong huyết
thanh bệnh nhân vảy nến điều trị tại bệnh viện Da Liễu TP Hồ
Chí Minh từ tháng 11/2012 đến tháng 6/2013”, Luận văn thạc
sĩ y học chuyên ngành da liễu, Đại học Y Dược TP.Hồ Chí
Minh.
Phạm Thị Dung (2014). “Nghiên cứu tình trạng tăng axit uric
huyết thanh, yếu tố liên quan và hiệu quả can thiệp chế độ ăn
ở người 30 tuổi trở lên tại cộng đồng nông thôn Thái Bình”,
Luận án tiến sĩ y học, Đại học Y Hà Nội.
Phạm Thúy Ngà (2011). “Nồng độ homocysteine và acid folic
huyết tương ở bệnh nhân vảy nến mảng tại bệnh viên da liễu
TP Hồ Chí Minh”, Luận án bác sĩ chuyên khoa 2 y học chuyên
ngành da liễu, Đại học Y Dược TP.Hồ Chí Minh.
Takahashi H, Tsuji H, Hashimoto Y, Ishida-Yamamoto A,
Iizuka H (2010), "Serum cytokines and growth factor levels in
Japanese patients with psoriasis", Clin Exp Dermatol, 35(6),
pp.645-9.
Trương Lê Anh Tuấn (2011). “Mối liên quan giữa bệnh vảy
nến và hội chứng chuyển hóa”, Luận văn thạc sĩ y học chuyên

ngành da liễu, Đại học Y Dược TP.Hồ Chí MinhAli, Tariq
Abd Al Hassan (2011) "The pattern of skin diseases in Karbala
city: A retrospective study". QMJ, 7 (12), 117-12

Ngày nhận bài báo:

24/11/2015

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

28/11/2015

Ngày bài báo được đăng:

20/02/2016

39



×