Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Nhân 8 trường hợp phẫu thuật cắt một phần thận qua ngã nội soi trong điều trị bệnh lý bướu thận giai đoạn T1b tại Bệnh viện Bình Dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.83 KB, 6 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018

NHÂN 8 TRƯỜNG HỢP PHẪU THUẬT CẮT MỘT PHẦN THẬN
QUA NGÃ NỘI SOI TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH LÝ BƯỚU THẬN
GIAI ĐOẠN T1b TẠI BỆNH VIỆN BÌNH DÂN
Phạm Phú Phát*, Trang Võ Anh Vinh*, Đinh Quốc Đạt*

TÓM TẮT
Mục tiêu: Cắt một phần thận qua ngã nội soi là can thiệp ít xâm hại đang phát triển trong giai đoạn hiện
nay. Chúng tôi mô tả quá trình thực hiện cắt một phần thận nội soi qua ngã sau phúc mạc có khống chế mạch
máu thận tại Bệnh viện Bình Dân.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Báo cáo loạt trường hợp, chúng tôi đã thực hiện phẫu phuật cắt
một phần thận qua ngã nội soi sau phúc mạc cho 8 bệnh nhân có kích thước bướu từ 4-7cm. Số lượng trocar sử
dụng là từ 3 đến 4 cái. Động mạch thận được khống chế bởi dây thun. Bướu được cắt ra khỏi thận bằng kéo lạnh.
Đài bể thận được khâu lại bằng Vicryl 3-0 hoặc 4-0 khi có gây thương tổn và chủ mô thận được khâu lại bằng
Vicryl1-0, có sử dụng gối độn Surgicel bên dưới nếu chủ mô thận bị khiếm khuyết lớn. Toàn bộ các đường khâu
được chốt lại bằng kẹp kim loại và Hem-O-lock.
Kết quả: Kích thước trung bình của bướu 48,9 ± 6,8mm (42mm-60mm). Thời gian mổ và thời gian thiếu
máu nóng lần lượt là 181 ± 49 phút (120 phút – 255 phút) và 27,7 ± 9,6 phút (20 phút – 45 phút). Lượng máu
mất trung bình là 100ml (10ml – 500ml). Có 8 (100%) bệnh nhân được khâu lại đài bể thận do có xâm phạm
trong quá trình cắt bướu. Không bệnh nhân nào cần phải truyền máu. 1 trường hợp mổ hở với lý do chảy máu.
Kết luận: Tại các nước phát triển, phẫu thuật cắt một phần thận qua ngã nội soi được áp dụng ngày càng
nhiều và dần thay thế mổ hở trong điều trị bướu thận nhỏ. Phẫu thuật cắt một phần thận qua ngả nội soi là một
lựa chọn khả thi cho khối bướu thận cT1b. Để đạt được kết quả tốt về bảo tồn chức năng thận và ung thư với các
biến chứng ngoại khoa tối thiểu, cần có một bác sĩ phẫu thuật có kinh nghiệm với trợ lý được đào tạo tốt. Trong
điều kiện hiện nay tại Việt Nam, chúng tôi nhận thấy có thể thực hiện kỹ thuật này tương đối an toàn đối với
phẫu thuật viên nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực nội soi.
Từ khóa: Cắt một phần thận, bướu thận giai đoạn T1b.


ABSTRACT
A REPORT WITH 8 CASES: LAPAROSCOPIC PARTIAL NEPHRECTOMY FOR RENAL TUMOR
T1b IN BINH DAN HOSPITAL
Pham Phu Phat, Trang Vo Anh Vinh, Dinh Quoc Dat
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 2- 2018: 468 - 473
Objective: Laparoscopic partial nephrectomy is an emerging minimally invasive, nephron sparing approach
for renal tumor. We describe our technique of single center with purely retroperitoneal laparoscopic partial
nephrectomy with controling of renal vessel in Binh Dan Hospital.
Material and technique: A report case series, the retroperitoneal approache for laparoscopic partial
nephrectomy has been performed in 8 patients with size tumor: 4-7mm. This procedure was realized by 3 or 4
ports. The renal artery was controlled by the elastic string. The tumor was removed by the cold cisor. The
collecting system was closed by Vicryl 3-0 or 4-0, and renal parenchyma was closed by Vicryl 1-0 over Surgicel
* Bệnh viện Bình Dân.
Tác giả liên lạc: BS. Phạm Phú Phát ĐT: 0913903232

468

Email:

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018

Nghiên cứu Y học

bolster for large defects. All sutures were locked by clip and Hem-O-Lock.
Results: Mean tumor size was 48,9 ± 6,8mm (range: 42mm to 60mm). The mean operating time and warm
ischemia time was 181 ± 49 min (range: 120min to 255min) and 27,7 ± 9,6 min (range: 20min to 45min). The
median estimated blood loss was 100ml (range: 10ml to 500ml). The pelvicaliceal system was entered and repaired

in 8 patients (100%). Transfusion was required in 0 patients. 1 case was convert cause hemorragie.
Conclusion: Laparoscopic partial nephrectomy, in the developped country, is an attractive alternative to
open partial nephrectomy for traitment of small renal tumor. Laparoscopic partial nephrectomy is aviable option
for performing minimally invasive surgical extirpation of cT1b renal masses. In order to achieve excellent
functional and oncologic outcomes with minimal perioperative complications an experienced surgeon with
assistant are important. In Viet Nam condition, this technique is feasible and safety by the hands of experienced
laparoscopic surgeon.
Key works: Laparoscopic partial nephrectomy, cT1b renal masses.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Phẫu thuật cắt một phần thận được Cremyz
mô tả lần đầu tiên vào năm 1890. Sau đó, do gây
ra quá nhiều tỷ lệ thương tật nên phẫu thuật này
đã bị hạn chế. Đến năm 1950, Vermooten đưa ra
đề nghị áp dụng phẫu thuật này cho các bướu
nằm phía ngoại vi thận và còn khu trú trong vỏ
bọc với mặt cắt bướu chứa mô lành cho kết quả
khả quan hơn(1). Và nhờ vào phát triển của hình
ảnh học, kỹ thuật mổ, các dụng cụ khống chế
mạch máu. Phẫu thuật cắt một phần thận dần
dần được chỉ định rộng rãi(12).
Cắt một phần thận qua ngả nội soi, hiện nay
được xem như là xu hướng mới tại các nước
phát triển đối với bệnh lý ung thư tế bào thận
giai đoạn sớm(3,11). Các kết quả của phương pháp
này qua theo dõi lâu dài 5-10 năm về phương
diện ung thư học đã cho thấy tương đương với
cắt thận tận gốc và có lợi thế hơn cắt một phần
thận qua ngả mổ hở do ít gây thương tật, khả
năng hồi phục của người bệnh sớm hơn...(8,10).

Trên thế giới, cắt một phần thận qua ngả nội
soi đã được chỉ định rộng rãi tại các trung tâm
lớn, đặc biệt là ở những bướu thận có kích thước
< 4cm giai đoạn T1a, do đã có những nghiên cứu
theo dõi trong thời gian dài. Với sự hỗ trợ của
các phương tiện nội soi hiện đại, đã tiến hành
nhiều nghiên cứu chứng minh tính hiệu quả và
an toàn của phẫu thuật này trong bướu thận giai
đoạn T1b(2,5,6).

Tại Việt Nam, theo hướng dẫn của VUNA
(2013), phẫu thuật cắt một phần thận được lựa
chọn thường quy cho những trường hợp ung
thư tế bào thận T1a và xem xét chỉ định trong
trường hợp T1b.
Tại bệnh viện Bình Dân với những kinh
nghiệm về phẫu thuật cắt một phần thận qua
ngã nội soi với bướu thận nhỏ gia đoạn T1a,
chúng tôi tiếp tục tiến hành thực hiện phẫu thuật
này với những bướu thận có kích thước lớn hơn
T1b với mong muốn mang lại lợi ích lớn hơn cho
bệnh nhân.

ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả
loạt trường hợp.
Đối tượng nghiên cứu: bệnh nhân được
phẫu thuật cắt một phần thận quan nội soi ngoài
phúc mạc tại Bệnh viện Bình Dân.
Tiêu chuẩn chọn bệnh:

-Bướu thận còn khu trú trong thận có kích
thước 4-7cm.
-Vị trí nằm cách rốn thận ít nhất 1cm.
Tiêu chuẩn loại trừ:
-Bướu thận còn khu trú trong thận có kích
thước <= 4cm.
Các bước phẫu thuật nội soi ngoài phúc mạc cắt
bán phần thận
+ Tạo khoang sau phúc mạc.

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018

469


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018

+ Vén phúc mạc và mỡ, lấy cơ thắt lưng
chậu làm chuẩn. Bộc lộ mặt sau thận tách rời
thận ra khỏi cơ thắt lưng chậu. Bóc tách thẳng
trực tiếp vào rốn thận có thể tìm thấy động
mạch nhờ vào mạch đập. Tìm rốn thận bóc
tách bộc lộ động mạch.
+ Để sẵn dây khống chế mạch máu thận.
+ Bóc tách mỡ Gerota quanh bướu bảo đảm
sau khi cắt bướu có thể thao tác khâu dễ dàng.
Nếu cần có thể bóc tách toàn bộ mỡ quanh thận
để làm di động thận nhằm bộc lộ rõ ràng vị trí

bướu.
+ Đánh dấu đường cắt quanh bướu cách 1cm
bảo đảm đường cắt chứa mô lành bằng dao điện.
+ Kéo dây cao su để khống chế mạch máu,
thời điểm bắt đầu tính thời gian thiếu máu nóng.
+ Tiến hành cắt bỏ bướu bằng kéo theo
đường đã đánh dấu.
+ Dùng chỉ Vicryl 4.0 khâu đài bể thận nếu có
cắt đi 1 phần. Khâu tiếp lớp thứ 2 chủ mô thận
bằng Vicryl 1.0 có sử dụng gối độn Surgicel (nếu
chủ mô thận bị khuyết nhiều) và khóa chỉ phía
ngoài chủ mô thận bằng Hem-O-Lok.
+ Ngưng khống chế mạch máu bằng cách thả
lỏng dây cao su, thời điểm kết thúc tính thời gian
thiếu máu nóng.
+ Ghi nhận lại thời gian thiếu máu nóng.
+ Kiểm tra lại mặt cắt khâu tăng cường bằng
Vicryl 1.0 nếu cần.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Từ tháng 1 năm 2009 đến tháng 5 năm 2012
chúng tôi có 8 trường hợp thỏa tiêu chuẩn nhận
bệnh và sau phẫu thuật các trường hợp này
được theo dõi đến tháng 5 năm 2015.
Dịch tễ
-Tuổi: trung bình 56,4 ± 11,4 tuổi; nhỏ nhất:
35 tuổi, lớn nhất 71 tuổi. Những trường hợp
bướu có kích thước thường gặp ở nhóm người
cao tuổi.
-Giới tính: Nam 75%, Nữ 25%; về mặt giới

tính, nam chiếm ưu thế hơn nữ.
Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng
Triệu chứng lâm sàng: Đau hông là triệu
chứng chiếm đa số 8/8 trường hợp (TH) (100%);
Bản chất: chẩn đoán hình ảnh bướu trước
mổ: Có 4/8 TH (50%) được chẩn đoán bằng hình
ảnh học trước mổ là RCC. Phần còn lại là nghi
ngờ hoặc không loại trừ được bướu ác (4/8; 50%).
Kich thước bướu: trung bình 48,9 ± 6,8mm,
lớn nhất 60mm, nhỏ nhất 42mm.
Các số liệu về kết quả trong khi phẫu thuật

Thời gian mổ (phút)
- Nhanh nhất: 120 phút; Lâu nhất: 255 phút;
trung bình: 181 ± 49 phút.
Thời gian thiếu máu nóng (phút)
- Ít nhất: 20 phút; nhiều nhất: 45 phút. Trung
bình: 27,7 ± 9,6 phút.
Với thời gian thiếu máu nóng trung bình 27,7

+ Sau khi bảo đảm cầm máu tốt tháo dây
thun ra khỏi rốn thận.

± 9,6 phút, có thể chấp nhận được so với tiêu

+ Cho bướu vào bao đựng bệnh phẩm rồi lấy

Máu mất (ml)
- Ít nhất: 10 ml; nhiều nhất: 500 ml; trung vị:
100 (27,5-375,5)ml.


ra khỏi cơ thể.
+ Kiểm tra bờ phẫu thuật
+ Đặt ống dẫn lưu.
+ Đóng bụng khâu da cố định ống dẫn lưu.
+Gởi bệnh phẩm cho giải phẫu bệnh lý 2
mẫu riêng biệt để kiểm tra: 1 mẫu là khối bướu,

chuẩn ≤ 30 phút của đa số tác giả trên thế giới.

Do khống chế mạch máu không phải là
tuyệt đối nên chảy máu là điều không thể
tránh khỏi, có 1 TH mất máu nhiều nhất là 500
ml, không có trường hợp nào phải truyền máu
trong lúc phẫu thuật.

1 mẫu còn lại là các mẫu mô bờ phẫu thuật.

470

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Kỹ thuật cắt và khâu
Dụng cụ cắt: Cắt bằng kéo lạnh: 8/8 TH (100).
Cắt vào đài bể thận: Có 8/8 TH (100%) buộc
phải cắt đài bể thận.
Khâu có sử dụng gối độn Surgicel: Surgicel
làm gối độn (8/8; 100%) do khiếm khuyết của

chủ mô thận khá lớn sau khi đã cắt bướu.

Biến chứng
- Biến chứng nhẹ không can thiệp phẫu
thuật: Tụ dịch: 1/8 TH (12,5%).
- Biến chứng có can thiệp phẫu thuật:
+ Chuyển mổ mở khâu cầm máu: 1/8 TH
(12,5%).
+ Nội soi đặt JJ: 1/8 TH (12,5%). (trường hợp
này BN suy thận  đặt ra yêu cầu cần cắt một
phần thận, có bướu thận và sỏi niệu quản hai
bên. BN được cắt một phần thận và mở niệu
quản lấy sỏi).
Ung thư học
Bảng 1. Kết quả GPB bản chất của bướu
Bướu ác tính

Không
Tổng

Số BN
6
2
8

Tỷ lệ (%)
75
25
100.0


Bảng 2. Kết quả GPB của bờ biên phẫu thuật
Bờ biên phẫu thuật có chứa
tế bào bướu

Không
Tổng

Số BN

Tỷ lệ (%)

2
6
8

25
75
100.0

Nhận xét: ghi nhận 2 TH (25%) còn tế bào
bướu ở bờ biên phẫu thuật khi kiểm tra kết quả
của giải phẫu bệnh (GPB). Tuy nhiên hai trường
hợp này theo dõi đến nay vẫn chưa ghi nhận
bướu tái phát khi theo dõi qua MSCT.
Theo dõi hậu phẫu

Thời gian dùng thuốc giảm đau
- Ít nhất: 5 ngày. Nhiều nhất: 13 ngày, trung
vị: 6 (5-7,75) ngày.
Thời gian có trung tiện

- Ít nhất: 1 ngày. Nhiều nhất: 3 ngày, trung
bình: 2 (2-2,75) ngày.

Nghiên cứu Y học

Thời gian rút ống dẫn lưu
- Ít nhất: 4 ngày. Nhiều nhất: 12 ngày, trung
bình: 5 (4-7,25) ngày.
Thời gian nằm viện
- Ít nhất: 4 ngày. Nhiều nhất: 13 ngày, trung
bình: 5 (4-7,25) ngày.

BÀN LUẬN
Về phương diện can thiệp qua ngả nội soi,
theo Hội Niệu Khoa Châu Âu thì đây là phẫu
thuật có thể thực hiện được. Cắt một phần thận
mổ hở vẫn là tiêu chuẩn của điều trị theo hướng
dẫn năm 2008, và phẫu thuật cắt một phần thận
nội soi nên được thực hiện ở các trung tâm lớn
có nhiều kinh nghiệm. Đến năm 2014, Hiệp Hội
này đã nhìn nhận phẫu thuật nội soi đang thay
thế dần mổ hở ở những trung tâm y khoa lớn có
nhiều kinh nghiệm, chỉ định tối ưu cho cắt một
phần thận nội soi là những bướu thận có kích
thước tương đối và ở ngoại vi(4).
Hiện nay theo quan điểm của AUA 2014,
bướu ở giai đoạn T1a (bệnh nhân khỏe mạnh)
chỉ định ưu tiên là cắt thận một phần, nội soi
có thể thực hiện ở những trường hợp bướu
đơn giản(1,9).

Theo hiệp hội ung thư Hoa Kỳ (NCCN) 2015,
đối với bướu thận giai đoạn T1b thì có thể cân
nhắc cắt một phần thận thay dần cho cắt toàn bộ
thận. Có thể thực hiện phẫu thuật này qua ngả
nội soi hoặc mở tùy lựa chọn của phẫu thuật
viên hoặc điều kiện của bệnh nhân cũng như tại
bệnh viện (4,7). Dưới sự hỗ trơn của các phương
tiện trong phẫu thuật nội soi và trình độ tay
nghề của phẫu thuật viên ngày một nâng cao thì
việc lựa chọn phẫu thuật nội soi trong tình
huống này có thể mang lại lợi ích về phẫu thuật
cho bệnh nhân như: tính thẫm mỹ, ít sang chấn
và hồi phục nhanh sau mổ. Trong nghiên cứu
này chúng tôi chọn đường ngoài phúc mạc vì
phù hợp với giải phẩu học của niệu khoa cơ
quan ngoài phúc mạc, không ảnh hưởng các
tạng trong ổ bụng và đồng thời tiếp cận động
mạch thận nhanh chóng hơn. Tuy nhiên đối với
can thiệp cắt một phần thận qua soi ngã nội là

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018

471


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018

phẫu thuật tương đối phức tạp bởi vì thận là

tạng đặc chứa nhiều máu, lượng máu đến 2 thận
chiếm đến 20% cung lượng tim mặc dù trọng
lượng 2 quả thận chiếm không quá 1% trọng
lượng cơ thể.
Trong điều kiện hiện nay không có đầy đủ
phương tiện kỹ thuật, nhằm an toàn cho bệnh
nhân và cũng là một trong những thử nghiệm
đầu tiên nên chúng tôi lựa chọn phương án có
khống chế mạch máu, bằng kỹ thuật khống
chế động mạch thận riêng rẽ với dụng cụ là
dây thun chuyên dùng của chuyên khoa mạch
máu. Với kết quả đạt được thời gian thiếu máu
nóng trung bình là 27,7 ± 9,6 phút, kích thước
trung bình bướu 48,9 ± 6,8cm, thực hiện trên 8
TH. Kết quả này chúng tôi tạm hài lòng vì so
với các nghiên cứu khác của các đồng nghiệp
trên thế giới. Tuy nhiên chúng tôi vẫn còn mối
băng khoăn trong giai đoạn cắt bướu bảo đảm
bờ mặt cắt chứa mô lành chúng tôi thường
xuyên phải cắt rộng hơn dự tính nên nhiều
trường hợp phải xâm phạm vào đài bể thận.
Trong khi trên thế giới 1 số nơi đã bắt đầu ứng
dụng kỹ thuật đánh dấu mô bướu nhằm bảo
đảm mô bướu được cắt trọn vẹn.
Tiểu máu sau mổ là triệu chứng được ghi
nhận nhiều nhất. Thông thường những trường
hợp có cắt vào đài bể thận gần như chắc chắn
sau mổ nước tiểu có lẫn máu nhưng hầu hết sẽ
trong lại sau 24 giờ. Nguyên nhân chính của tiểu
máu chúng tôi nhận định là do loạt trường hợp

này đều thực hiện trên bướu lớn và đều cắt vào
hệ thống đài bể thận và được khâu lại đài bể
thận và tiểu má có thể do mũi khâu của đài bể
thận không kín.
Chúng tôi ghi nhận được gồm 1 trường hợp
tụ dịch tự khỏi. Đây là biến chứng nhẹ không
cần can thiệp phẫu thuật.
Nhóm biến chứng chảy máu chuyển mổ mở
để cầm máu chúng tôi có 1/8 TH. Trong quá
trình nội soi phải chuyển mổ hở cầm máu nhưng
vẫn bảo tồn được thận. Bệnh nhân (BN) này có
kích thước bướu là 5,5 cm, thời gian mổ là 255

472

phút, thời gian thiếu máu nóng là 45 phút, lượng
máu mất là 500 ml. Vị trí chảy máu là do có tổn
thương nhánh nhỏ động mạch trong rốn thận
không kiểm soát được bằng các mũi khâu theo
quy ước. Nhìn các chỉ số nêu trên chúng ta nhận
thấy bướu lớn có thể là yếu tố bất lợi cho cắt thận
một phần qua ngả nội soi, điều này sẽ được xác
nhận trong các phép kiểm ở phần sau.
Về phương diện giải phẫu bệnh, 2 TH (25%)
được xác nhận sau phẫu thuật là bướu lành, hai
trường hợp này ban đầu đều là nghi RCC. Điều
này cho thấy chẩn đoán hình ảnh không được
tin cậy trong việc xác định bản chất của bướu.

KẾT LUẬN

Trong xu hướng hiện nay trên thế giới, bảo
tồn chức năng thận là mục tiêu của bác sĩ ngoại
tiết niệu nói riêng và ngành y nói chung. Tỷ lệ
bệnh nhân suy thận ngày càng tăng và số lượng
BN chờ ghép thận ngày càng nhiều, nhất là ở
Việt Nam, nơi mà văn hóa Á Đông vẫn còn ảnh
hưởng nhiều đến việc hiến tạng. Do đó, việc ứng
dụng kỹ thuật cắt một phần thận là một nhu cầu
thực tế, và đồng thời nếu thực hiện được qua
ngả nội soi thì đó là lợi ích lớn cho bệnh nhân.
Qua ghi nhận từ 8 trường hợp can thiệp cắt
một phần thận qua ngả nội soi ở những bệnh
nhân có bướu thận kích thước 4-7cm, chúng tôi
nhận thấy những kết quả đáng khích lệ trong
trường hợp bướu thận có kích thước 4-7cm (giai
đoạn T1b) ở những vị trí thuận lợi việc can thiệp
bằng phương pháp cắt một phần thận qua ngã
nội soi. Cần có những nghiên cứu lớn hơn để
làm rõ hơn vai trò của cắt một phần thận qua
ngả nội soi tại Việt Nam. Tuy nhiên trong điều
kiện hiện nay với các phương tiện hỗ trợ ngày
càng hiện đại cho phẫu thuật nội soi cũng như
trình độ phẫu thuật viên ngày càng cải thiện thì
phẫu thuận nội soi cắt một phần thận cần được
khuyến cáo mở rộng chỉ định nhằm mang lại lợi
ích cho bệnh nhân.

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.
5.
6.
7.

Campbell SC, et al (2016). Malignant Renal Tumors. In:
McDougal W. Campbell’s Urology, vol 10, 11th edition, pp.
353 - 382. Elsevier, Inc., Newyork.
Canes D. (2008). Long-term oncological outcomes of
laparoscopic partial nephrectomy. Curr Opin Urol, vol. 18, pp.
145-149.
Link RE. (2005). Exploring the learning curve, pathological,
outcomes and perioperative morbidityof laparoscopic partial
nephrectomy performed for renal mass. J Urol, vol. 173, pp.
1690-1694.
Ljungberg B, et al (2014). Guidelines on renal cell carcinoma.
European association of urology.
Moinzadeh A, et al (2006). Laparoscopic partial nephrectomy:
3-year followup. J Urol, vol. 175, pp. 459-462.
Monish A, et al (2008). Transumbilical single-port laparoscopic
partial nephrectomy. BJU Inter, vol. 103, pp. 516-521.
NCCN Guidelines Version 3. 2015 Panel Members. Kidney

Cancer.

8.

9.
10.
11.

12.

Nghiên cứu Y học

Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng và cs (2009). Cắt 1 phần thận qua
nội soi cho bướu ác chủ mô thận: Kinh nghiệm ban đầu tại
bệnh viện Bình Dân, Y Học Thực Hành, 10 (680), tr. 15-19.
Novick AC et al (2014). Guideline for management of clinical
stage 1 renal mass, American Urological Association.
Trần Ngọc Sinh và cs (2004). Sổ tay tiết niệu học lâm sàng, Nhà
xuất bản Y Học, tr. 34-37.
Vũ Lê Chuyên (2007). Áp dụng kỹ thuật cắt bỏ thận qua nội
soi, Sở khoa học và công nghệ TP.HCM, đề tài nghiên cứu
khoa học cấp thành phố.
Vũ Lê Chuyên và cs (2002). Niệu học lâm sàng, Nhà xuất bản Y
Học, tr. 196-228.

Ngày nhận bài báo:

25/12/2017

Ngày phản biện nhận xét bài báo:


30/12/2017

Ngày bài báo được đăng:

25/03/2018

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018

473



×