Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Hiệu quả của xét nghiệm PCA3 trong chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt: 130 trường hợp đầu tiên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.2 KB, 5 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 6 * 2015

Nghiên cứu Y học

HIỆU QUẢ CỦA XÉT NGHIỆM PCA3 TRONG CHẨN ĐOÁN UNG THƯ
TUYẾN TIỀN LIỆT: 130 TRƯỜNG HỢP ĐẦU TIÊN
Lê Phúc Liên*, Huỳnh Nhã Vân*, Dương Hoàng Phúc**, Trần Lê Linh Phương*,
Hồ Huỳnh Thùy Dương***

TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của điểm số PCA3 trong chẩn đoán sớm ung thư tuyến tiền liệt.
Phương pháp nghiên cứu: Đây là một nghiên cứu tiền cứu quan sát. Tiêu chuẩn chọn mẫu bao gồm những
bệnh nhân nghi ngờ ung thư tuyến tiền liệt bằng PSA và khám lâm sàng. Tiêu chuẩn loại trừ bao gồm những
bệnh nhân đã có chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt bằng sinh thiết trước đó.Tất cả bệnh nhân đều được lấy mẫu
nước tiểu và phân tích bằng bộ kit xét nghiệm của công ty Khoa Thương trước khi sinh thiết. Các dữ liệu nghiên
cứu bao gồm xét nghiệm máu thường quy, xét nghiệm nước tiểu, PSA toàn phần và PSA tự do, thể tích tuyến
tiền liệt được đo bằng siêu âm qua đầu dò trực tràng và kết quả sinh thiết tuyến tiền liệt.
Kết quả: Từ tháng 10 năm 2014 đến tháng 1 năm 2015, 130/150 bệnh nhân thỏa điều kiện được tham gia
nghiên cứu. Tuổi trung bình của nhóm được chẩn đoán là ung thư tuyến tiền liệt là 68.38 (±10.18). Với độ nhạy
60.6%, độ đặc hiệu của điểm số PCA3 là 85.56%. Giá trị tiên đóa dương của PCA3 (54) là 58.82% cũng cao hơn
so với PSA (10ng/ml) là 37.5% cho thấy khả năng chẩn đoán bệnh của PCA3 chính xác hơn.
Kết luận: Đây là nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam đánh giá vai trò của xét nghiệm PCA3 trong chẩn
đoán sớm ung thư tuyến tiền liệt và kết quả 130 trường hợp đầu tiên khá khả quan hứa hẹn một xét nghiệm
ít xâm lấn mới.
Từ khóa: PCA3, ung thư tuyến tiền liệt.

ABSTRACT
EFFECTIVENESS OF PCA3 TEST IN DIAGNOSIS PROSTATE CANCER: 130 FIRST CASES
Le Phuc Lien, Huynh Nha Van,Duong Hoang Phuc, Tran Le Linh Phuong, Ho Huynh Thuy Duong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - No 6 - 2015: 100 - 104
Aim: To investigate the effectiveness of prostate cancer antigen 3 (PCA 3) scores in early diagnosis


of prostate cancer.
Patients and methods: This was a prospective observational cohort study. Inclusion criteria included
patients suspected prostate cancer by PSA or DRE. Exclusion criteria included patients previously having
diagnosis of prostate cancer by biopsy. All urine samples were collected and analyzed using the Khoa Thuong Kit,
VN. Samples were collected before biopsy. A prospective database was created including routine blood tests, urine
test, total PSA (prostate-specific antigen) serum, free PSA serum, prostate volume by TRUS. The result of
prostate biopsy were also recorded.
Results: Between October 2014 and January 2015, 130 patients were included in the study out of an initial
cohort of 150 patients. Mean age at prostate cancer diagnosis was 68.38 (±10.18). With a sensitivity of 60.6%, the
specificity of PCA3 was of 85.56%. The PPV of PCA3 (58.82%) was also higher than the PPV of total
PSA (37.5%), suggesting that benign cases could be more accurately identified.
Conclusion: To our knowledge, this is the first prospective study in Viet Nam to demonstrate the expression
of PCA3 in prostate cancer patients. This pilot study assessing a minimally invasive CaP detection assay with

100


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 6 * 2015

Nghiên cứu Y học

single cell sensitivity cell-capture and characterization from the post-DRE urine holds promise for further
development of this novel assay platform.
Key words: PCA3 TEST, Prostate Cancer.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư tiền liệt tuyến ngày nay được xem
như là một trong những bệnh lý quan trọng nhất
ở nam giới. Đây là bệnh thường gặp ở người lớn
tuổi do đó ung thư tiền liệt tuyến trở thành vấn

đề y khoa lớn ở các nước phát triển. Ở châu Âu,
ung thư tiền liệt tuyến đứng hàng thứ hai sau
ung thư thư phổi và ung thư đại trực tràng với tỉ
lệ hiện mắc là 214 trường hợp /1000 nam giới(2).
Dù cho ung thư tiền liệt tuyến là loại ung thư
tiến triển chậm nhưng theo thống kê ung thư
tiền liệt tuyến vẫn đứng hàng thứ hai trong các
nguyên nhân gây tử vong ở nam giới(8). Tuy tỉ lệ
ung thư tiền liệt tuyến thấp hơn ở các nước châu
Á nói chung và Việt Nam nói riêng nhưng tỉ lệ
bệnh ngày càng gia tăng trong dân số do tuổi thọ
ngày càng tăng. Ước tính ở Việt Nam, tỉ lệ mắc
chuẩn theo tuổi là 2.2/100000 người(7).
Hiện nay, chương trình tầm soát và chẩn
đoán sớm ung thư tiền liệt tuyến thường bao
gồm kết quả thăm khám tuyến tiền liệt bằng
ngón tay qua ngã trực tràng (DRE) và xét
nghiệm kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt
(PSA).
Tuy nhiên độ nhạy cũng như độ đặc hiệu
của các xét nghiệm này không cao do ảnh hưởng
bởi nhiều yếu tố bệnh lý khác. Nồng độ PSA
tăng trong các bệnh lý như viêm tiền liệt tuyến,
nhiễm trùng niệu, tác động cơ học kéo dài trên
tiền liệt tuyến, hay xuất tinh trong vòng 48 giờ.
Do đó tỉ lệ chẩn đoán ung thư tiền liệt tuyến với
PSA theo nhiều nghiên cứu trên thế giới là
khoảng 40% và với DRE là 41-46%(1) và theo số
liệu của bệnh viện Bình Dân năm 2009 là 30.8%
với nồng độ PSA >10ng/ml(9).

Do tính chính xác của các xét nghiệm tầm
soát ung thư tiền liệt tuyến hiện nay không cao
nên yêu cầu trên lâm sàng cần phải có một xét
nghiệm tầm soát có độ chính xác cao hơn giúp
chẩn đoán sớm được bệnh, giảm tỉ lệ phải sinh

thiết tiền liệt tuyến, cũng như giảm chi phí hay
các tai biến biến chứng do sinh thiết tiền liệt
tuyến đem lại.
Gen PCA3 được phát hiện lần đầu tiên bởi
bác sĩ Marion Bussemakers khi đang hợp tác làm
việc với bác sĩ Jack Schalken tại trường đại học
Nijimegen ở Hà Lan và trong phòng thí nghiệm
của bác sĩ William Isaacs tại đại học John
Hopkins ở Baltimore(3). Họ phát hiện ra nồng độ
RNA thông tin của gen PCA3 hiện diện rất
nhiều trên 95% mô ung thư tiền liệt tuyến so với
mô tiền liệt tuyến lành tính ở cùng trên 1 bệnh
nhân(6) và không ảnh hưởng đến thể tích tiền liệt
tuyến. Từ phát hiện này, năm 2006 xét nghiệm
PCA3 trong nước tiểu (PROGENSA) đã được sử
dụng trên thị trường và được FDA công nhận
vào tháng 11/2007.
Nghiên cứu này được thực hiện đầu tiên ơ
Việt Nam để đánh giá hiệu quả của xét nghiệm
PCA3 trong chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt và
sử dụng bộ kit của công ty Khoa Thương.

Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá vai trò của xét nghiệm PCA3

trong nước tiểu trong việc chẩn đoán ung thư
tiền liệt tuyến.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Tiền cứu quan sát

Tiêu chuẩn chọn bệnh
Tất cả bệnh nhân nam có chỉ định sinh thiết
tiền liệt tuyến do nghi ngờ ung thư tuyến tiền
liệt bằng xét nghiệm PSA (PSA > 10ng/ml hoặc
PSA từ 4-10ng/ml với phần trăm freePSA/total
PSA<15%) hoặc khám lâm sàng.

Phương pháp tiến hành
Tất cả bệnh nhân trước khi sinh thiết tuyến
tiền liệt được
- Xoa tuyến tiền liệt bằng ngón tay (3

101


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 6 * 2015

Nghiên cứu Y học
lần/thùy).
- Lấy 20-30ml nước tiểu sau khi xoa tuyến
tiền liệt vào ống bảo quản và chuyển ngay đến
phòng thí nghiệm.
- Phòng xét nghiệm sẽ khuếch đại phân tử

ARN thông tin của gen PCA3, từ đó tính được
điểm số PCA3, sử dụng bộ Kit của công ty
Khoa Thương.
Các bệnh nhân đều được ghi nhận về xét
nghiệm máu thường quy, xét nghiệm nước tiểu,
PSA toàn phần và PSA tự do, thể tích tuyến tiền
liệt được đo bằng siêu âm qua đầu dò trực tràng
và kết quả sinh thiết tuyến tiền liệt.

Tuổi trung bình của nghiên cứu là 68,38 tuổi,
đây là cũng lứa tuổi thường được phát hiện ung
thư tuyến tiền liệt như trong y văn. Giá trị trung
bình của PSA trong nghiên cứu này cao so với
các nghiên cứu trên thế giới là do chương trình
tầm soát bệnh hàng năm vẫn chưa được quan
tâm đúng mức. Đa số bệnh nhân đến bệnh viện
với trị số PSA rất cao và chỉ đến khám khi có
triệu chứng đường tiểu (70%).
Bảng 2: Kết quả sinh thiết tuyến tiền liệt theo PSA,
PCA3 và thăm khám tuyến tiền liệt bằng ngón tay
qua ngã trực tràng (DRE)

Các dữ liệu được xử lý bằng phần mềm spss
12 nhằm đánh giá độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị
tiên đoán dương của xét nghiệm PCA3 và so
sánh với PSA, DRE.

KẾT QUẢ

PSA


DRE
PCA3

Bảng 1: Đặc điểm dịch tễ của mẫu nghiên cứu
(n=130)
Các thông số
Tuổi (năm)
PSA (ng/ml)
Thể tích tuyến tiền liệt (ml)
LDNV: tiểu khó

Mẫu n =130
68,38 (±10,18)
36,47 (±55,13)
48,24 (±28,77)
91 (70%)

< 4ng/ml
4-10 ng/ml
>10 ng/ml
Dương tính
Âm tính
>54
<54

Ung thư tuyến
tiền liệt
0
0

33 (37,5%)
22 (66,67%)
11 (11,34%)
20 (58,82%)
13 (13,54%)

Gleason > 7
0
0
29 (32,95%)
21 (63,63%)
12 (12,37%)
18 (52,94%)
11 (11,45%)

Tất cả các mẫu sinh thiết dương tính đều có
PSA trên 10ng/ml, trong khi đó trên lâm sàng khi
PSA có giá trị từ 4-10ng/ml và tỉ lệ phần trăm
PSA tự do/ PSA toàn phần < 15% đều được chỉ
định sinh thiết tuyến tiền liệt. Như vậy có rất
nhiều trường hợp có thể tránh được sinh thiết
nếu có một xét nghiệm có độ đặc hiệu cao hơn.

500
450
400

437.65
396.1


350
300
250
200
150

94.85

100
26.22

50
0
Pca

Non Pca

Gleason > 7

Gleason < 7

Mean PCA3 score

Hình 1: So sánh trung bình chỉ số PCA3 trong hai nhóm ung thư và không có ung thư tuyến tiền liệt.

102


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 6 * 2015
Bảng 3: Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương

(PPV), giá trị tiên đoán âm (NPV) của PSA, DRE và
PCA3
Độ
nhạy
DRE
66,67%
PSA (>10ng/ml) 100%
PCA3 (>54)
60,6%

Độ đặc Giá trị tiên Giá trị tiên
hiệu
đoán
đoán âm
dương
88,65%
88,65%
66,67%
43,2%
100%
37,59%
85,56%
86,45%
58,82%

Xét nghiệm PCA3 và DRE có độ nhạy và độ
đặc hiệu tương tự nhau, và cao rất nhiều so với
PSA, do đó DRE vẫn giữ vai trò rất quan trọng
trong quá trình chẩn đoán ung thư tuyến tiền
liệt.

Tuy nhiên DRE có tính chủ quan, phụ thuộc
rất nhiều vào người thăm khám, trong khi PCA3
là một xét nghiệm rất khách quan.
Thống kê cho thấy trung bình của PCA3 cao
hơn có ý nghĩa thống kê giữa nhóm ung thư
tuyến tiền liệt so với nhóm không có ung thư
(p<0,05), tuy nhiên không có khác biệt giữa hai
nhóm có Gleason > 7 và Gleason < 7 (p=0,065).
Như vậy xét nghiệm PCA3 có thể giúp phân
biệt nhóm có ung thư và không có ung thư tuyến
tiền liệt.

Nghiên cứu Y học
được đánh giá là xét nghiệm có giá trị chẩn đoán
trung bình và 0.8-0.9 là tốt.
Ở nghiên cứu này AUC của PCA3 được tính
là 0.811, chứng tỏ xét nghiệm tốt để chẩn đoán,
tầm soát ung thư tuyến tiền liệt.
Vì độ nhạy cao thì độ đặc hiệu sẽ thấp và
ngược lại, do đó chúng tôi tìm điểm cắt tối ưu
theo hệ số Youden index J và khoảng cách tối
thiểu d của xét nghiệm PCA3 là 54 để đạt được
độ đặc hiệu cao với độ nhạy tương đối.

BÀN LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ ung thư
tuyến tiền liệt trong nghiên cứu là 25.38% như
vậy 97 bệnh nhân (74,62%) bị chẩn đoán quá
mức và chịu một thủ thuật sinh thiết không
cần thiết.

Nếu sử dụng chỉ riêng xét nghiệm PCA3 với
giá trị ngưỡng là 54 chúng ta có thể tránh được
73.84% trường hợp sinh thiết tuyến tiền liệt với tỉ
lệ bỏ sót ung thư là 13,55%.
Xét nghiệm PCA3 có giá trị hơn cả ở nhóm
PSA < 10ng/ml. Nghiên cứu cho thấy trong số
trường hợp PSA từ 4-10ng/ml, không có trường
hợp nào sinh thiết có ung thư tuyến tiền liệt và
chỉ có 3 trường hợp PCA3 > 54. Như vậy nếu sử
dụng xét nghiệm PCA3 có thể tránh được 34/37
trường hợp sinh thiết không cần thiết.
Tương tự với nhóm PSA < 4ng/ml, nghi ngờ
ung thư khi thăm khám tuyến tiền liệt bằng
ngón tay (DRE), không có trường hợp nào có
PCA3 >54 và sinh thiết dương tính.

Hình 2: Đường cong ROC của xét nghiệm PCA3

Do đó khi kết hợp các xét nghiệm chẩn đoán
ung thư tuyến tiền liệt hiện có hiện nay như
PSA, DRE với PCA3 có thể tránh được 86.15%
trường hợp sinh thiết trong đó tỉ lệ bỏ sót ung
thư vẫn chấp nhận được 17,87%.

Đường cong ROC biểu diễn mối tương quan
giữa độ nhạy và độ đặc hiệu của một chẩn đoán.
Phần diện tích dưới đường cong AUC là khả
năng chẩn đoán chính xác của xét nghiệm. Trong
các xét nghiệm chẩn đoán, khi AUC từ 0.7-0.8


Kết quả của nghiên cứu trên độ nhạy, độ đặc
hiệu của PCA3 mặc dù sử dụng bộ Kit của công
ty Khoa Thương sản xuất ở Việt Nam nhưng vẫn
cho kết quả tương đương với các nghiên cứu về
PCA3 khác trên thế giới(4,5).

103


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 6 * 2015

KẾT LUẬN
Kết quả từ 130 trường hợp đầu tiên đã mở ra
một hướng mới trong việc chẩn đoán sớm ung
thư tuyến tiền liệt nhằm tránh những trường
hợp sinh thiết tuyến tiền liệt không cần thiết do
đó tránh được các biến chứng do thủ thuật này
gây ra.
Sử dụng bộ Kit ở nước ngoài để đo lường
chỉ số PCA3 sẽ rất tốn kém và không thiết
thực. Việc phát triển và sử dụng bộ Kit có sẵn
trong nước sẽ đem lại nhiều lợi ích cho cả
bệnh nhân và thầy thuốc.

2.
3.

4.


5.

6.

7.

Team.., Mortality Results from a Randomized Prostate-Cancer
Screening Trial. N Engl J Med 2009. 360: p. 1310-1319
Boyle P and F. J., Cancer incidence and mortality in Europe Ann
Oncol, 2004. 16(3): p. 481-8.
Bussemakers MJ, van Bokhoven A, et al., DD3: a new prostatespecific gene, highly overexpressed in prostate cancer. Cancer Res,
1999. 59: p. 5975-9.
Capoluongo E, Zambon CF, and B.D.e. al., PCA3 score of 20
could improve prostate cancer detection: results obtained on 734
Italian individuals. Clin Chim Acta, 2014. 429: p. 46-50.
Haese A, de la Taille A, and v.P.H.e. al, Clinical utility of the
PCA3 urine assay in European men scheduled for repeat biopsy. Eur
Urol 2008. 54(5): p. 1081-1088.
Hessels D, Klein Gunnewiek JM, and v.O.I.e. al., DD3PCA3based molecular urine analysis for the diagnosis of prostate cancer.
Eur Urol 2003. 44: p. 8-16.
/>Siegel RAJ, and Ward E, Cancer statistics. CA Cancer J Clin,
2008. 58(2): p. 71-96.
Vũ Lê Chuyên (2010), Tầm soát ung thư tiền liệt tuyến-Kết quả
bước đầu tại bệnh viện Bình Dân. Y học TpHCM, 2010. 14(1).

Do đó để có thể áp dụng được xét nghiệm
PCA3 trên lâm sàng trong thời gian tới chúng tôi
cần mở rộng mẫu nghiên cứu lớn hơn để có
thêm nhiều số liệu thuyết phục.


8.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Ngày nhận bài báo:

16/10/2015

1.

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

23/10/2015

Ngày bài báo được đăng:

05/11/2015

104

Andriole GL, Crawford ED, Grubb RL 3rd, Buys SS, Chia D,
Church TR, Fouad MN, Gelmann EP, Kvale PA, Reding DJ,
Weissfeld JL, Yokochi LA, O'Brien B, Clapp JD, Rathmell JM,
Riley TL, Hayes RB, Kramer BS, Izmirlian G, Miller AB,
Pinsky PF, Prorok PC, Gohagan JK, Berg CD; PLCO Project

9.




×