BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ LIÊN TÂM
TRƯỜNG CA
VỀ THỜI CHỐNG MỸ TRONG VĂN
HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số
: 62 22 34 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. PHÙNG QUÝ NHÂM
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
LỜI CAM ĐOAN CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả được trình
bày trong luân án này là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Liên Tâm
DẪN NHẬP
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Cuộc chiến tranh thời chống Mỹ đã qua đi trên một phần tư thế kỷ nhưng âm vang hào
hùng của n-ó vẫn vọng đến tận bây giờ và mãi mãi về sau. Văn học đã ghi lại một thời kháng
chiến oanh liệt của dân tộc. Những chiến công hiển hách; những tấm gương anh dũng; những
mối tình thuỷ chung son sắt; tình yêu quê hương, đất nước… cả những đau thương, mất mát
không gì bù đắp nổi cũng được tái hiện trong văn học. Đó chính là hơi thở của cuộc sống chân
thực đã từng diễn ra trên đất nước ta.
Hậu quả chiến tranh để lại thật tàn khốc bởi nó là những dư âm đọng lại trong những tháng
năm hòa bình. Chiến tranh không phải là định mệnh nhưng nó đã khiến cho bao người phải chịu
những số phận nghiệt ngã. Dư ba của chiến tranh như những con sóng nối tiếp nhau cứ lan mãi
đến ngày sau… Tất cả những điều ấy được các nhà thơ thời chống Mỹ, những cây bút thời hậu
chiến... tập trung sức viết để ngưỡng vọng, đồng cảm, sẻ chia về một thời quá khứ đã in đậm dấu
ấn vào cuộc sống của dân tộc. Văn học góp phần thể hiện cuộc sống thăng trầm của lịch sử. Sức
khái quát hiện thực của thơ ca - đặc biệt là trường ca - thật mạnh mẽ, sâu rộng, đã phản ánh lịch
sử một thời mà thấm suốt không gian, thời gian của bao thời đại sau này. Trường ca hiện đại là
một thể loại thơ ca trữ tình mang dung lượng khá đồ sộ; thể hiện cảm xúc mãnh liệt và nội dung
lớn; có khả năng phản ánh, tổng kết một giai đoạn lịch sử, những vấn đề lớn lao của dân tộc.
Nền văn học Việt Nam không thể thiếu vắng mảng trường ca về thời chống Mỹ, bởi:
Từ khi mới xuất hiện, trường ca có giá trị trong thời chống Mỹ đã có hiệu ứng xã hội tích
cực, tác động sâu rộng đến tâm hồn con người Việt Nam. Thời hoàng kim của trường ca về thời
chống Mỹ là vào thập niên 70. Ngày nay, trường ca vẫn chảy miệt mài trong lòng dân tộc, vì
vậy, nghiên cứu trường ca về thời chống Mỹ là một công việc có hấp lực mạnh mẽ đối với người
nghiên cứu.
- Nhiều trường ca nổi tiếng từ thời chống Mỹ đã được chọn để giảng dạy trong các trường
Phổ thông, Cao đẳng, Đại học. Các trích đoạn trong: Bài ca chim Chơ rao, Theo chân Bác, Mặt
đường khát vọng, Đường tới thành phố, Những người đi tới biển... mang chất trữ tình sâu sắc và
âm hưởng sử thi hào hùng, góp phần phản ánh hiện thực cuộc chiến tranh chống Mỹ. Gần đây,
các trích đoạn đặc sắc ấy vẫn được đưa vào chương trình văn học đã nêu trên. Vì vậy, nghiên
cứu giá trị lịch sử và giá trị văn học của trường ca cũng góp phần nhất định vào việc giảng dạy,
tiếp cận trường ca hiện đại.
- Tên gọi thống nhất; hệ thống hình tượng nhân vật; hệ thống đề tài, không gian sử thi;
giọng điệu sử thi… trong trường ca đã được chú ý nghiên cứu nhưng vẫn còn mang tính riêng lẻ.
Nhiều vấn đề khác trong trường ca vẫn chưa được nghiên cứu một cách hệ thống. Giá trị lịch sử
và giá trị văn học của trường ca trong tiến trình lịch sử văn học hầu như chưa được đánh giá
đúng mức. Nhiều bài viết, bài nghiên cứu hầu như chỉ tập trung vào việc xác định tên gọi hoặc
giới thiệu tác giả tiêu biểu đã sáng tác trường ca.
Xuất
phát
từ
những
lý
do
trên,
chúng
tôi
đã
chọn
đề
tài
“Trường
ca về thời chống Mỹ trong văn học hiện đại Việt Nam” để nghiên cứu trên cơ sở tiếp thu có
chọn lọc những công trình, bài viết quý báu của các nhà nghiên cứu đi trước, từ đó góp cái nhìn
bao quát hơn về trường ca sử thi hiện đại.
2. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Với mục đích khoa học đề ra, luận án tập trung nghiên cứu “Trường ca về thời chống Mỹ
trong văn học hiện đại Việt Nam”.
- Về lịch sử, thời chống Mỹ bắt đầu từ năm 1955 đến 1975. Về mặt văn học giai đoạn này,
các nhà thơ đã sáng tác trường ca (chủ yếu xuất hiện từ 1960) với mạch cảm xúc ngợi ca và
tâm thế của người trong cuộc. Nhưng từ sau 4/1975 đến khoảng 1980, họ vẫn chưa thoát khỏi
nỗi ám ảnh về cuộc chiến mới đi qua, vẫn sáng tác với tâm thế người trong cuộc, mạch cảm
xúc chủ đạo vẫn là phản ánh hiện thực cuộc chiến thời chống Mỹ. Vì thế, chúng tôi xếp
trường ca xuất hiện từ 1975 - 1980 vào nhóm trường ca 1960 - 1980 và tạm chia đối tượng khảo
sát vào hai mốc thời gian để thuận tiện cho nghiên cứu:
- Trường ca về thời chống Mỹ có giá trị ra đời từ 1960 đến 1980.
- Trường ca về thời chống Mỹ có giá trị ra đời từ 1980 đến nay (chủ yếu thiên về mạch
cảm xúc hồi tưởng và tâm thế của người nhìn lại quá khứ chiến tranh).
2.2. Phạm vi vấn đề
Với khả năng có hạn, chúng tôi cố gắng tìm hiểu những công trình nghiên cứu, phê bình để
khẳng định giá trị của trường ca về thời chống Mỹ, tiếp cận các bài nghiên cứu về tác giả để xác
định những đóng góp của họ trong sự nghiệp sáng tác trường ca. Qua đó, chúng tôi tiếp thu có
chọn lọc thành tựu của những công trình đi trước, vận dụng sự hiểu biết của bản thân để nghiên
cứu Trường ca về thời chống Mỹ. Người viết quan niệm: trường ca về thời chống Mỹ là
trường ca sử thi hiện đại và phạm vi vấn đề cần nghiên cứu là:
- Những nhân tố tạo nên sự xuất hiện của trường ca.
- Các nội dung chủ yếu như: hệ thống đề tài, sức khái quát hiện thực, đặc điểm sử thi.
- Các đặc điểm nghệ thuật như: sự phối hợp các thể thơ, không gian sử thi, giọng điệu sử
thi, sự liên tưởng, chất liệu văn học dân gian… của trường ca.
Tuy nhiên, sự phân chia chương II và chương III chỉ mang tính tương đối vì khó tách bạch
riêng lẻ yếu tố nội dung và nghệ thuật của tác phẩm nói chung và trường ca nói riêng.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu trường ca về thời chống Mỹ nhằm mục đích tìm hiểu: những nhân tố tạo nên
sự xuất hiện của trường ca, nội dung chủ yếu, đặc điểm nghệ thuật. Từ đó rút ra những kết luận
về sự đóng góp của các tác giả và giá trị của trường ca về thời chống Mỹ trong tiến trình lịch sử
văn học nước nhà.
4. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
- Xác định những nội dung cơ bản, những đặc điểm quan trọng và riêng biệt làm nên giá trị
của trường ca về thời chống Mỹ. Góp thêm một nhận thức về lý thuyết thể loại (tên gọi trường
ca sử thi hiện đại), bước đầu giải quyết các vấn đề đã đặt ra trên cơ sở kế thừa các công trình của
những nhà nghiên cứu đi trước.
- Dựa vào kết quả nghiên cứu, hy vọng góp một tiếng nói, một cái nhìn tổng hợp về giá trị
của trường ca về thời chống Mỹ; cung cấp thêm tài liệu tham khảo thiết thực phục vụ cho việc
giảng dạy, học tập về trường ca hiện đại.
5. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Nhận xét mở đầu
Qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy hầu như chưa có một công trình chuyên sâu, tổng hợp
giá trị trường ca về thời chống Mỹ. Trong luận văn Cao học “Đặc điểm trường ca viết về đề tài
chiến tranh thời chống Mỹ”, chúng tôi đã tiến hành phân loại lịch sử vấn đề theo hai nhóm:
- Những nhận xét, luận bàn về tên gọi và sự phát triển của trường ca.
- Những ý kiến nhận định về các tác giả và các trường ca có giá trị.
Tuy nhiên, trải qua mỗi chặng đường nghiên cứu, chúng tôi lại phát hiện thêm những điều
mới. Để thấy được kết quả nghiên cứu của những người đi trước, trong khuôn khổ của luận án,
chúng tôi xin lược thuật lại những điểm chính, bổ sung một số ý kiến, nhận định và cập nhật các
công trình nghiên cứu gần đây.
5.1. Những nhận xét, luận bàn về tên gọi và sự phát triển của thể loại
Đã có một số công trình nghiên cứu về thể loại trường ca; bàn luận và phân định đâu là thơ
dài, đâu là truyện thơ, xác định rõ những điều kiện cần và đủ để được gọi là trường ca (phải
mang nội dung lớn, dung lượng đồ sộ, khái quát những vấn đề của lịch sử…), đồng thời nghiên
cứu về sự phát triển của thể loại đặc biệt này.
Có thể kể đến một số bài viết đăng trên các tạp chí, các sách:
- Tạp chí Văn nghệ quân đội số 1, 2. 3/1981 có bài viết bàn về thể loại trường ca của Lại
Nguyên Ân, Hữu Thỉnh, Từ Sơn, Hoài Thanh, Trần Ngọc Vương, Phạm Tiến Duật…
- Trên Tạp chí Văn học số 6/1982 có các bài viết của Đỗ Văn Khang, Vũ Đức Phúc, Mã
Giang Lân...
- Trên Tạp chí Văn nghệ quân đội, báo Nhân Dân, Văn nghệ Trẻ năm 2007 - 2008 có
những bài viết của Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Hữu Quý...
Về sách đã in:
- Lại Nguyên Ân có tác phẩm Văn học và phê bình (Nxb Tác phẩm mới - 1984) trong đó có
nhiều trang bàn luận về trường ca.
- Vũ Văn Sỹ có tập Về một đặc trưng thi pháp thơ Việt Nam 1945 - 1995 (Nxb KHXH 1999) đi sâu vào việc tìm hiểu thi pháp trường ca; trong tập tiểu luận Mạch thơ trong nguồn thế
kỷ (Nxb KHXH - 2005), ông cũng có bài viết “Trường ca trong hệ thống thể loại thơ Việt Nam
hiện đại” [85, tr.137].
- Phạm Quốc Ca với chuyên luận Mấy vấn đề về thơ Việt Nam hiện đại 1975 - 2000 (Nxb
Hội Nhà Văn - 2003), qua bài viết: “Sự biến đổi của trường ca” đã góp thêm tiếng nói về thể thơ
ca này [11, tr.177-183].
Sau đây, chúng tôi xin được tóm lược lại những vấn đề có liên quan đến thuật ngữ “trường
ca”, sự phát triển thể loại mà các nhà nghiên cứu đã đề cập trên cơ sở có bổ sung cẩn trọng:
Trong bài “Mấy suy nghĩ về thể loại trường ca” (TCVH số 4/1975) sau này in lại trong
Văn học và phê bình (5), Lại Nguyên Ân đã đề nghị gọi chung những tác phẩm thơ dài là trường
ca. Quan niệm này, có người đồng ý nhưng cũng có người không chấp nhận. Sau này, trong bài
“Bàn góp về trường ca” (4), ông cho rằng “hình như ai cũng đúng cả”. Thực sự, đề nghị của
ông về cách gọi tên chung như thế không phù hợp với đặc trưng riêng của thể loại trường ca vì
thơ dài khác với trường ca, thơ dài không cần thiết chứa đựng nội dung lịch sử, cảm hứng sử
thi, không gian sử thi... Những nghiên cứu của Lại Nguyên Ân là một đóng góp thiết thực cho
việc nhận định về con đường phát triển của trường ca.
Từ Sơn, trong bài “Về khái niệm trường ca” (TCVNQĐ số 1/1981) cho rằng trường ca
"là thơ chứ không phải là ca" [80, tr.120]. Theo ông, nên dùng thuật ngữ trường ca cho những
bài thơ dài có cốt truyện tự sự trên 500 câu và nên gọi chung là truyện thơ. Cách lý giải của Từ
Sơn nghiêng về việc lấy nghĩa gốc của thuật ngữ “trường ca” để đặt tên cho thể loại.
Cũng trên Tạp chí Văn nghệ quân đội số 5/1981, Hoài Thanh có bài "Thơ và chuyện trong
thơ". Ông cho rằng: Ba mươi năm đời ta có Đảng, Nước non ngàn dặm, Theo chân Bác của Tố
Hữu và cả Trường ca Nguyễn Văn Trỗi của Lê Anh Xuân đều là truyện thơ. Như vậy, theo Hoài
Thanh, "truyện thơ" và "trường ca" cũng chưa được phân định cụ thể như quan niệm hiện nay.
Trần Ngọc Vượng, trong bài “Về thể loại trường ca và tính chất của nó” (Tạp chí VNQĐ
số 5/1981), đã đưa ra những nhận định tinh tế, phân biệt sự khác nhau giữa trường ca và truyện
thơ, thơ dài. Theo ông "trường ca của ta bây giờ không phải cùng khuôn với các thể loại đã từng
có mặt trong lịch sử văn học" [11, tr.129]. Những lập luận để phân biệt trường ca với khúc
ngâm, truyện thơ, thơ dài mà ông đưa ra khá hợp lý: trường ca phân biệt với thơ dài trước hết ở
dung lượng cảm hứng, “cảm hứng đó là linh hồn của trường ca", và chỉ có thể xuất hiện ở một
thời đại cách mạng [114, tr.129]. Đây là một nhận định khá sâu, góp phần xác định đặc điểm
thể loại và lý giải vì sao giai đoạn này trường ca nở rộ.
Năm 1982, Mã Giang Lân đã góp tiếng nói bàn về thể loại trường ca trong bài "Trường ca,
vấn đề thể loại" đăng trên TCVH số 6. Ông nhận xét rằng: "Lâu nay các nhà nghiên cứu phê
bình văn học thường dùng thuật ngữ "trường ca" để chỉ về một thể loại văn học thời kỳ thượng
cổ như trường ca Đăm San, trường ca Xing Nhã... của đồng bào Tây Nguyên; trường ca Đẻ đất
đẻ nước của người Mường… hoặc tuỳ tiện cho tất cả những sáng tác thơ dài đều là trường ca
cả” [45, tr.104]. Sau khi dẫn ra một số tác phẩm thơ dài và trường ca để phân tích, lý giải về mặt
thể loại, Mã Giang Lân đi đến khẳng định: "Thơ dài và trường ca có những nét tương đồng như
sử dụng tổng hợp nhiều thể thơ, thay đổi không khí cảm xúc, hạn chế sự bằng phẳng đơn điệu,
thường khai thác và biểu hiện cái đẹp cái cao cả, cái anh hùng. Nhưng ở trường ca bộc lộ rõ
nội dung ca ngợi, hào hùng, nên cảm hứng anh hùng phải là mạch cảm xúc chủ đạo” [45,
tr.108-109].
Cuối cùng tác giả đưa ra kết luận có tính khái quát: “Đường đi của sử thi… là đến tiểu
thuyết. Còn thơ trữ tình là cái nôi của trường ca và thơ dài. Trường ca đã tiếp thu, vận dụng
sáng tạo trên các yếu tố cơ bản của thơ trữ tình và sử thi nghĩa là kết hợp cả hai phương thức
biểu hiện: trữ tình và tự sự" [45, tr.152]. Nghiên cứu của Mã Giang Lân đã giúp cho chúng tôi
có một sự phân định về trường ca và thơ dài khá rõ ràng.
Vũ Đức Phúc cũng rất quan tâm đến thể loại trường ca nên trên Tạp chí Văn học số 6/1982,
ông có bài viết “Chung quanh vấn đề trường ca". Cũng như Từ Sơn, ông nhận xét về nghĩa và
cách dùng thuật ngữ "trường ca". Theo ông: "trường ca là một thuật ngữ văn học mới, chưa
chính xác, chưa ổn định, để chỉ các sáng tác thơ dài" [73, tr.93] "khoảng từ bốn, năm trăm câu
trở lên [72, tr.94] và phải có sức "lay động được con tim người đọc” một cách mạnh mẽ, "thời
đại ta đòi hỏi phải có trường ca anh hùng" [72, tr.99]. Ông cho rằng: khi viết trường ca, nếu
viết bằng một thể thơ thì “trường ca dễ đơn điệu” [72, tr.101-102]. Chúng tôi hoàn toàn thống
nhất với nhận xét trên. Theo ông: "Theo chân Bác là một thiên trường ca" [72, tr.100], và Tố
Hữu đã phối hợp giữa anh hùng ca với trữ tình trên cái nền gợi lại sự kiện lịch sử. Nhìn chung
bài viết của Vũ Đức Phúc đã khẳng định lại những vấn đề mà một số nhà nghiên cứu trước đó
nêu ra: trường ca phải được xây dựng trên nền sự kiện lịch sử, độ dài cần vừa phải, cần có sự
pha trộn, thể loại và yếu tố trữ tình rất quan trọng. Đặc biệt, ông cho rằng yếu tố tự sự chỉ là
phần độn thêm, điều này đối lập với ý kiến của Đỗ Văn Khang khi cho rằng các trường ca đều
cố gắng lấy tự sự làm chính.
Trên Tạp chí Văn học số 6/1982, trong bài “Từ ý kiến về trường ca sử thi của Hêghen
đến trường ca hiện đại ở ta", Đỗ Văn Khang đã dẫn ra ý kiến của Hêghen viết về trường ca sử
thi (Mỹ học Hêghen - 1836) để làm nền tảng cho những lập luận của mình về “trường ca hiện
đại Việt Nam"; cụ thể là về: nguồn gốc sử thi, sức khái quát của trường ca sử thi, xung đột sử
thi, tính cách sử thi, chi tiết trong trường ca sử thi. Căn cứ vào công trình nghiên cứu sử thi của
Hêghen, ông xem xét trường ca ở các điểm sau đây:
+ "Chất khái quát tổng thể lịch sử, phong cách đồ sộ" [38, tr.87], trong đó chú ý đến tính
chất xung đột mang tính lịch sử.
+ "Các cá tính của trạng thái thế giới dân tộc rất mãnh liệt được biểu hiện qua cái tôi nhà
thơ" [38. tr.87].
+ "Vai trò của chi tiết trong trường ca… Cách tổ chức liên chương, liên đoạn” [38, tr.90].
+ "Trường ca hướng về các biến cố trung tâm” [38, tr.91 cố gắng lấy tự sự làm chính, "hình
thức kể" là nhân tố quan trọng góp phần làm nên trường ca.
Đây là những ý kiến, những lập luận cơ bản dựa vào Mỹ học Hêghen. Ông cũng không
loại trừ hoàn toàn sự biến dạng của thể loại trường ca trong quá trình vận động của lịch sử xã hội
và thực tiễn đời sống văn học nước ta. Từ những lập luận nêu trên, Đỗ Văn Khang đề nghị nên
gọi những bài thơ đúng bản chất, có ý nghĩa mỹ học đầy đủ là "trường ca sử thi hiện đại". Bản
thân người viết cũng đồng quan điểm về tên gọi trường ca sử thi hiện đại và rất quan tâm đến
“trạng thái dân tộc rất mãnh liệt biểu hiện qua cái tôi nhà thơ, cái tôi chứng nhân lịch sử” mà Đỗ
Văn Khang đã nghiên cứu.
Cũng trong năm 1982, Lại Nguyên Ân có bài "Thể trường ca trong thơ gần đây" in ra
trong Văn học và phê bình (5). Theo ông, trong phạm vi thơ hiện đại ở ta, vẫn còn đủ thận trọng
để “coi trường ca như là một thể loại đang hình thành và phát triển với yếu tố trữ tình là yếu tố
chủ đạo” [5, tr.8]. Ông nhận định: "Thể tài trường ca là biểu hiện cụ thể của xu hướng sử thi
hóa" [5, tr.22]. Ý kiến này giúp người viết tìm hiểu sâu về vấn đề thể loại và tính chất sử thi,
trữ tình trong trường ca về thời chống Mỹ.
Phạm Huy Thông, nhà thơ nổi danh với Tiếng địch sông Ô - phỏng tích Trương Lương
dùng tiếng địch làm tan nát hàng ngũ quân sỹ Hạng Võ; đã có báo cáo tại hội nghị khoa học về
Trường ca do Khoa Văn Đại học Tổng hợp tổ chức (1983). Trong phần II mang tựa "Trường
ca", Phạm Huy Thông đã khẳng định “độ dài của trường ca là một yếu tố thuận. Độ dài góp
phần cấp trọng lượng cho chất tráng của thi ca" [98, tr.12]. Phương châm của Huy Thông là
"linh hoạt để sát hợp" [98, tr.17]. Bản thân người viết đồng tình với quan điểm: độ dài cần linh
hoạt, độ dài là yếu tố thuận, mà điều này thơ ngắn khó đạt được khi cần khái quát vấn đề lớn
lao của lịch sử, phản ánh cảm xúc mãnh liệt của cái tôi chứng nhân lịch sử.
Hoàng Ngọc Hiến có những ý kiến được trình bày khá rõ trong bài "Về đặc trưng của
trường ca” (TCVH số 3/1984), đặc biệt là những nhận định quan trọng về đặc trưng thể loại
trường ca của Biêlinxki, của giáo sư A.N.Sô-kô-lôv chuyên nghiên cứu về trường ca [28, tr.116].
Đồng thời, ông cũng giới thiệu một số thành tựu về trường ca của nền văn học Xô viết và cuộc
thảo luận về trường ca kéo dài trên ba tháng đăng ở báo Văn học Liên Xô [28, tr.110]. Ông hoàn
toàn nhất trí với ý kiến của Biêlinxki: "Trường ca chỉ là một thể loại tác phẩm thơ đặc biệt... có
nội dung lớn và dung lượng lớn”, "tương quan giữa nguyên tắc trữ tình và nguyên tắc tự sự là
một vấn đề trung tâm của thi pháp trường ca; trong trường ca hiện đại, xu thế trữ tình lấn át tự
sự” [28, tr.111-110]. Cách lập luận và giải quyết vấn đề của ông dễ hiểu, phù hợp với cách hiểu
hiện nay về thể loại trường ca, nhất là nhận định: xu thế trữ tình trong trường ca hiện nay lấn
át tự sự. Tuy vậy, ta cũng không loại trừ có trường ca viết ở thời gian sau này như Những cánh
đồng dưới lửa của Văn Lê, Đi trong sen ngát bóng xanh của Phạm Thái Quỳnh lại thiên về xu
hướng tự sự.
Vấn đề phân định thể loại trường ca và thơ dài đã khiến Mã Giang Lân trăn trở và viết tiếp
bài “Thử phân định giữa ranh giới trường ca và thơ dài" (Tạp chí Văn học số 5,6/1988).
Trong cuốn “Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam”, ở phần "Xu hướng mở rộng dung lượng phản
ánh" [47, tr.356], ông cũng tập trung đi sâu vào việc tìm sự giống nhau và khác nhau của hai
loại này. Theo ông, “trường ca có kết cấu rõ và hoàn chỉnh hơn; thể thơ đa dạng; nhân vật có
đường nét, tâm trạng hơn; nhịp điệu, nhạc điệu trong trường ca sôi nổi, hào hùng hơn; yếu tố tự
sự và trữ tình bổ sung cho nhau; đề tài: thuộc về hiện tại mà tác giả từng sống, chứng kiến”.
Đây là một sự nghiên cứu khá công phu, giúp ta thấy được sự tương đồng và khác biệt giữa
trường ca và thơ dài.
Sự ra đời mạnh mẽ của trường ca đã trở thành một hiện tượng văn học nổi bật trong đời
sống thơ ca. Tháng 3/2002, trên Tạp chí Giáo dục số 26, Đào Thị Bình có bài "Góp phần tìm
hiểu trường ca viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước". Đây là một bài viết có giá trị,
tổng kết lại một số ưu điểm nổi trội của trường ca; giúp ta có một cái nhìn bao quát về thể loại;
mở ra hướng mới khi nghiên cứu, nhất là "chất suy nghĩ và triết lý", "chất trí tuệ chính luận"
[10, tr.30-31] trong trường ca.
Phạm Quốc Ca, trong chuyên luận Mấy vấn đề về thơ Việt Nam hiện đại 1975 - 2000 (Nxb
Hội Nhà Văn - 2003) đã dành nhiều trang để viết về thể loại trường ca. Ông nhận định “về tên
gọi thể loại trường ca đã có sự không rạch ròi… Do sự thâm nhập, hòa trộn giữa các thể loại...
người ta đã gọi các tác phẩm khá khác nhau bằng một cái tên chung là trường ca” [11, tr.178].
Theo ông: có sự khác nhau khá rõ, chủ yếu là ở phương thức sáng tác; truyện thơ gắn với nhân
vật và kết cấu, cốt truyện; thơ dài gắn với cảm xúc trữ tình; trường ca phân biệt ở chỗ dù có cốt
truyện hay không, nó phải mang cảm hứng lớn về nhân dân, về tổ quốc, về thời đại [11, tr.179].
Đây là những nhận xét khá thống nhất với nhận định của các nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân,
Vũ Đức Phúc, Mã Giang Lân, Trần Ngọc Vượng… về cảm hứng sử thi, kết cấu, cái tôi trữ
tình… trong trường ca.
Tuy nhiên, cuối cùng, trong cách lập luận của tác giả vẫn có một vài điểm chưa thống nhất
khi nói rằng: “cho đến nay, vẫn rất khó phân biệt giữa trường ca, truyện thơ, và thơ dài” [11,
tr.178]. Về vấn đề này, người viết đã trình bày trong phần mở đầu luận văn Cao học “Đặc điểm
trường ca viết về đề tài chiến tranh thời chống Mỹ ”: trường ca hiện đại có thể có cốt truyện
hoặc không cần cốt truyện như truyện thơ nhưng phải mang cảm hứng lớn về nhân dân, tổ quốc,
thời đại (cảm xúc trữ tình dễ lẫn với thơ dài). Đặc trưng nổi bật của trường ca giai đoạn 1960 1980 biểu hiện xu hướng sử thi hóa, âm điệu hào hùng, giọng điệu ngợi ca. Trường ca ra đời sau
1980 thường đậm chất hồi tưởng, trăn trở, bi tráng.
Vũ Văn Sỹ, trong phần thứ nhất của tập Mạch thơ trong nguồn thế kỷ [85] đã cho in lại một
số tiểu luận có liên quan đến trường ca như: “Hiện tượng đối thoại với quan niệm nghệ thuật sử
thi trong thơ” (TCVH số 4/1990, tr 98); “Thành tựu và giới hạn lịch sử” (TCVH số 6/1990, tr
85): “Trường ca trong hệ thống thể loại thơ Việt Nam hiện đại” (TCVH số 137/2000)... Trong
đó, ông đã có những nhận định, đánh giá rất khách quan và sâu sắc về thể loại trường ca,
thiên về ý kiến cho rằng trường ca là một hiện tượng thâm nhập của thể loại. Nhưng ông cũng
không tránh khỏi băn khoăn khi đặt ra câu hỏi: “Liệu có những nguyên tắc cho sự mềm dẻo của
kết cấu trường ca? và phải chăng trường ca đã thay thế cho truyện thơ” [85, tr.138-139]. Sau
đó, chính ông cũng đã lý giải: “Trường ca kế thừa truyện thơ nói riêng và những kinh nghiệm tự
sự của thơ ca nói chung... Chính vì thế, về bản chất, trường ca khác với truyện thơ truyền thống,
khác với truờng ca cổ điển nhưng lại gần gũi với thơ trữ tình”. Theo ông, trường ca lấy sự
trưởng thành của ý thức làm thước đo các biến cố và sự kiện, là căn cứ để phân biệt bản chất
giữa trường ca và truyện thơ truyền thống. Đây là vấn đề mà luận án chúng tôi tập trung nghiên
cứu.
Lê Thành Nghị, tác giả của tập Tiểu luận Trước đèn... thơ có những lập luận tương đồng ý
kiến Vũ Văn Sỹ khi cho rằng: “sự khác nhau giữa thơ dài và trường ca, có thể dễ nhận thấy qua
kết cấu của tác phẩm. Trường ca đòi hỏi một kết cấu chặt chẽ, hợp lý, các chương đoạn có thể
không theo qui luật thời gian, không gian, có thể kết cấu theo tuyến sự kiện hoặc tuyến nhân
vật... trường ca khác hẳn một bài thơ dài ở tính chặt chẽ của kết cấu” [58, tr.178].
Vũ Tuấn Anh, trong bài “Thơ chống Mỹ, cứu nước trong tiến trình thơ hiện đại” [1],
cũng đã trình bày những luận điểm sau:
+ Thơ ca chống Mỹ có cốt cách và tầm vóc của một nền thơ lớn, trước hết là do tính quần
chúng sâu rộng… Một nền thơ trữ tình - sử thi, giàu tính chính luận và chất trí tuệ.
+ Thời đại lịch sử đã khai sinh một mô hình thơ ca mới, một kiểu nhà thơ mới, một cái Tôi
trữ tình công dân, một cái Ta dân tộc.
+ Nền thơ chống Mỹ làm phong phú rất nhiều khả năng biểu hiện của thơ ca: từ việc sử
dụng linh hoạt các thể thơ cho đến cấu trúc thơ, ngôn ngữ thơ.
Những vấn đề được tác giả nêu ra mặc dầu còn mang tính khái quát về thơ chống Mỹ nói
chung; nhưng lại là những vấn đề rất đáng quan tâm, sát hợp với nội dung nghiên cứu để giúp
người viết phân tích, tổng hợp các vấn đề từ thể loại trường ca hiện đại viết về thời chống Mỹ
nói riêng.
Chúng tôi cũng sử dụng các luận văn sau đây trong quá trình nghiên cứu:
+ Luận văn Thạc sĩ “Đặc điểm trường ca viết về đề tài chiến tranh chống Mỹ” (2002) của
Nguyễn Thị Liên Tâm.
+ Luận văn Thạc sĩ “Đặc điểm trường ca Thu Bồn” (2005) của Nguyễn Xuân Cổn.
Nhìn một cách tổng quát; các nhận định, công trình nghiên cứu nêu trên đã giúp chúng tôi
có một cách nhìn, cách nghĩ, cách cảm... sâu sát về trường ca. Ở giai đoạn đầu, khi trường ca
mới xuất hiện, tính chất tự sự đóng vai trò chủ yếu (khiến dễ lẫn với truyện thơ). Càng về sau
1975, yếu tố tự sự càng kết hợp chặt chẽ với trữ tình, nhưng vai trò của yếu tố trữ tình bộc lộ
mạnh mẽ, rõ nét hơn (khiến dễ lẫn với thơ dài, thơ trữ tình).
Để kết thúc phần nhận định về thể loại trường ca, trên cơ sở đã trình bày ở trên kết hợp với
ý kiến mang tính tổng hợp của Đào Thị Bình, người viết cũng cho rằng: "Trường ca hiện đại là
một thể loại văn học thuộc hệ thống thơ ca hiện đại Việt Nam, ra đời và phát triển trong hoàn
cảnh xã hội có những biến cố lịch sử lớn lao, có dung lượng khá đồ sộ, cảm hứng mãnh liệt,
nội dung hoành tráng chứa đựng những sự kiện lịch sử phong phú, âm điệu hào hùng, hình
thức thể loại hiện đại, phốí hợp đa dạng các thể thơ, đậm tính trữ tình, giàu chất suy nghĩ, triết
lý” (TCGD số 26/2002). Đồng thời, người viết cũng bổ sung ý kiến của ĐàoThị Bình: “trường
ca hiện đại không chỉ ra đời và phát triển trong hoàn cảnh xã hội có những biến cố lịch sử trọng
đại, lớn lao mà còn ra đời cả trong thời bình”. Vì thực tế, sau 1975, trong thời bình không có
biến cố lịch sử lớn lao nhưng vẫn có hàng loạt trường ca ra đời hưởng ứng các cuộc vận động
sáng tác về đề tài chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ và đa phần được viết bằng thủ pháp
“hồi tưởng”.
5.2 Những ý kiến phê bình, nhận định về các tác giả và các trường ca tiêu biểu
Hầu hết đây là những bài phê bình nhận định về một tác giả, về một trường ca cụ thể.
Bích Thu có bài viết “Thu Bồn”, đăng trong Phê bình bình luận Văn học -do Vũ Tiến
Quỳnh chủ biên [78], trích từ Nhà thơ Việt Nam hiện đại (Nxb KHXH - 1884). Tác giả nhận
định ngòi bút Thu Bồn có khả năng mở rộng sự sáng tạo ở nhiều lãnh vực, thể loại, đặc biệt là ở
thể loại trường ca. Là một người lính gắn bó với chiến trường miền Nam, Thu Bồn đi nhiều, viết
khỏe. Ngòi bút sáng tạo kết hợp hài hòa cảm xúc và trí tuệ, khái quát mà không tách rời hiện
thực. Bên cạnh mảng thơ trữ tình, Thu Bồn tập trung sức sáng tác trường ca. Sau khi ra mắt Bài
ca chim Chơrao (1964), ông viết tiếp Vách đá Hồ Chí Minh (1972), Quê hương mặt trời vàng,
Chim vàng chốt lửa (1975), Badankhát (1977), và Campuchia hy vọng (1979). Theo Bích Thu,
Thu Bồn là người sáng tác trường ca hiện đại với số lượng khá nhiều, gắn với thời kỳ hoàng kim
của thể loại. Và sau 1975, Thu Bồn vẫn say viết trường ca, nhất là viết về Tây Nguyên. Bài ca
chim Chơrao có kết cấu theo cốt truyện, được đánh giá là tác phẩm thành công, đưa ông đến với
độc giả trong và ngoài nước (giải Bông sen - tại Đại hội các nhà văn Á Phi họp tại Liên Xô
1973). Bích Thu cho rằng: “Trường ca của Thu Bồn thường có tính chất thời sự. Song từ điểm
mạnh này, thơ anh cũng bộc lộ một số hạn chế. Chất liệu hiện thực trong thơ… nhiều khi còn bề
bộn, ngổn ngang…, có cảm giác Thu Bồn còn cầu kỳ, chuộng lạ trong cách đặt tên cho các tiêu
đề của trường ca” [78, tr.66-68]. Qua nghiên cứu, chúng tôi cũng khẳng định rằng: sự xuất hiện
rầm rộ của trường ca, trong đó có sự đóng góp chủ lực của Thu Bồn, là một hiện tượng văn học
nổi bật trong đời sống thơ ca những năm chống Mỹ.
Tố Hữu, cánh chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng Việt Nam, đã được rất nhiều nhà phê
bình như Trần Đình Sử, Lê Đình Kỵ, Phong Lan… nghiên cứu và Theo chân Bác được đánh giá
là một thiên trường ca viết về Hồ Chí Minh. Nguyễn Văn Hạnh có tiểu luận “Theo chân Bác một thành công mới của Tố Hữu”, in trong cuốn “Tố Hữu về tác gia và tác phẩm” do Phong Lan
chủ biên. Theo ông, ngay việc đặt đầu đề cho trường ca, Tố Hữu đã thể hiện kín đáo ý đồ nghệ
thuật: “Theo chân Bác” để làm sống lại trước mắt những chặng đường Bác đã đi qua. Trong
trường ca, lịch sử và cảm xúc, tự sự và trữ tình, thủ pháp kể chuyện và miêu tả, biểu hiện xen
kẽ… Nguyễn Văn Hạnh cũng ca ngợi: “Theo chân Bác với những thành công nổi bật của nó về
nhiều mặt… Bài thơ viết với một cảm hứng lớn, công phu và với một trình độ già dặn… đã gửi
vào bản trường ca tất cả tâm huyết, tất cả sức mạnh nghệ thuật của anh và bài thơ đã
làm“nhiệm vụ lịch sử” của nó một cách xứng đáng” [43, tr. 670, 674, 675]. Tuy vậy, ông cũng
chỉ ra những hạn chế của trường ca: có những đoạn không hay, dễ dãi, dàn trải… có đoạn nặng
tưởng tượng, một số hình ảnh trùng lặp, ít có sức nặng (ngẩng đầu cao, vỗ cánh bay…). Những
nhận định của ông giúp chúng tôi có cơ sở nghiên cứu giá trị văn học, giá trị lịch sử, cảm hứng
sử thi của trường ca về thời chống Mỹ.
Tôn Phương Lan đã đánh giá cao về tài năng Nguyễn Khoa Điềm trong bài viết “Nguyễn
Khoa Điềm, nhà thơ trẻ có nhiều triển vọng" (TCVH số 5/1976): “Một điểm đáng chú ý trong
thơ Nguyễn Khoa Điềm là những liên tưởng độc đáo, kết quả của một sự am hiểu cuộc sống và
một cảm quan nhạy bén” [44, tr.110]. Tôn Phương Lan cũng khái quát về giá trị phản ánh của
tác phẩm: “góp cho văn học một phong cách mới... những khái quát thơ sâu sắc với bút pháp
hiện thực và lãng mạn quyện chặt vào nhau [44, tr.112]. Cuộc sống chiến đấu vĩ đại của toàn
dân là cơ sở hiện thực cho những dòng suy tư cuộn chảy” [44, tr.115]. Tuy nhiên, Tôn Phương
Lan cũng cho rằng chất suy tưởng đằm sâu của Nguyễn Khoa Điềm nhiều khi khiến cho thơ ít
chất hồn nhiên tươi tắn: "Lắm khi nó trở nên rắc rối, cầu kì, chữ nghĩa" [44, tr.112]. Những
nhận định chính xác của tác giả giúp chúng tôi nghiên cứu sâu hơn về sức khái quát hiện thực
của tác phẩm và phong cách chính luận của Nguyễn Khoa Điềm.
Trong bài viết “Thơ chống Mỹ, cứu nước trong tiến trình thơ hiện đại” Vũ Tuấn Anh
cũng nhận xét: “Trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm mở ra cuộc đối thoại
thảo ngay… Phương thức chính luận mở ra nhiều bình diện, đi sâu vào nhiều khía cạnh của nội
dung lịch sử - dân tộc, thời đại, tạo nên tính thuyết phục trí tuệ của thơ ca, mở rộng những khả
năng mới cho thơ trữ tình” [1]. Nhận xét trên góp phần khẳng định giá trị của Mặt đường khát
vọng, tài năng của Nguyễn Khoa Điềm, mở ra hướng nghiên cứu về nội dung lịch sử - dân tộc,
thời đại, biểu hiện qua phương thức chính luận giàu chất trữ tình, giúp người viết đánh giá về sự
đóng góp của tác giả và tác phẩm.
Trong bài viết “Nguyễn Khoa Điềm với tập thơ Ngôi nhà có ngọn lửa ấm” (TCVH số
4/1988) Vũ Tuấn Anh cũng cho rằng “Triết lý và trữ tình cuộn chảy và lắng đọng, sự già dặn
của suy nghĩ đan lẫn nét tinh tế và tài hoa - sự hợp chuyển hài hòa những yếu tố ấy là kết quả
của nhận thức lý trí, của sự mẫn cảm của thơ với nhịp đập thời đại mà đời và thơ anh nhập
cuộc”.
Vũ Văn Sỹ, trong tiểu luận “Thơ Nguyễn Khoa Ðiềm - một giọng trữ tình giàu chất sử
thi” [85, tr.290] đã ca ngợi: “Với Đất ngoại ô và Mặt đường khát vọng có thể khẳng định
Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ trẻ đặc sắc của thế hệ các nhà thơ chống Mỹ. Một tiếng nói
trẻ trung, có cá tính, vừa “đồng thanh”, vừa đại diện cho một thế hệ trực tiếp cầm súng và vào
trận”. Những đánh giá của Vũ Văn Sĩ và Vũ Tuấn Anh về tác giả khá cụ thể, nhất là về sự tinh
tế, tài hoa, nhận thức thời đại, sự kết hợp giữa tính triết lý và trữ tình.
"Thanh Thảo, thơ và trường ca" (TCVH số 2/1980) là bài nhận định của Thiếu Mai về
một cây bút bộ đội viết về người lính Trường Sơn thời chống Mỹ. Theo Thiếu Mai: "Ngòi bút
Thanh Thảo tinh tế mà thanh thoát, phong phú mà nhẹ nhõm… lời thơ đẹp, không dễ dãi, buông
thả” [52, tr.102]… là thơ của một tâm hồn giàu suy tưởng, giàu trí tuệ. Thơ Thanh Thảo có
chiều sâu…, bao giờ anh cũng muốn vượt qua những hiện tượng bên ngoài để tìm đến cái đích
thực, cái bản chất của sự vật” [52, tr.99]. Bài viết đã dành nhiều trang nhận định về giá trị của
Những người đi tới biển, giúp người viết có thuận lợi ban đầu trong việc nghiên cứu về tác giả
và đặc biệt là giọng điệu và sức khái quát hiện thực của trường ca.
Trong bài "Thanh Thảo, một gương mặt tiêu biểu trong thơ từ sau 1975" đăng trên
TCVH số 5, 6/1985, Bích Thu nhận xét: Thơ anh “hướng ngòi bút vào chân dung người lính,
vào hiện thực chiến trường, vào đời sống nhân dân… để khám phá ra chân dung tinh thần của
một thế hệ người lính trong giai đoạn chiến tranh khốc liệt mà hào hùng… là tiếng nói thâm
trầm, thấm thía về hiện thực chiến tranh, về trách nhiệm và số phận của thế hệ mình trước Tổ
quốc, nhân dân” [99, tr.67]. Đánh giá về Những người đi tới biển, Bích Thu khẳng định so với
nhiều trường ca xuất hiện rầm rộ vào những năm 70, tác phẩm thực sự gây ấn tượng đẹp đối với
người đọc về thể thơ này vì: “Cái tôi trong trường ca. là cái tôi từng trải, cái tôi chứng kiến...
mang đậm dấu vết cá nhân, không lập lại bất cứ ai, lý giải được những vấn đề sinh tử của một
giai đoạn lịch sử, chất liệu hiện thực đi vào thơ Thanh Thảo, vừa bình dị, đời thường vừa lung
linh, huyền ảo…” [99, tr.70-71]. Như vậy, Bích Thu đã điểm qua về vấn đề xây dựng cái tôi của
nhà thơ, nhận xét về chất liệu cuộc sống trong trường ca và có nhận định rất khách quan rằng:
“Thanh Thảo có những tìm tòi mới trong hành trình sáng tạo [99, tr.69], nhưng "Thơ Thanh
Thảo giàu chất suy tư, hơi quá trí thức mà thành ra khó hiểu" [99, tr.72].
Tuy nhiên, cuối cùng, Bích Thu vẫn khẳng định Thanh Thảo xứng đáng là một gương mặt
thơ tiêu biểu [99, tr.73]. Những nhận xét của Bích Thu và Thiếu Mai giúp chúng tôi tìm hiểu sâu
hơn về giá trị phản ánh hiện thực thời chống Mỹ, cái tôi và cái ta trong trường ca của Thanh
Thảo, những đóng góp của nhà thơ đối với dòng văn học thời chống Mỹ để thực hiện việc
nghiên cứu chương II của luận án.
Lại Nguyên Ân cũng đã viết về Thanh Thảo trong bài "Dấu chân và người lính trẻ trong
thơ Thanh Thảo”, [5, tr.45]. Ông đã nhận định: “Thanh Thảo… đi vào chiến trường cuối những
năm 60, suốt dọc Trường Sơn, theo dấu chân người lính trẻ... Và tâm trạng người lính, đời sống,
chiến đấu của người lính, đời sống nhân dân trong vùng sát nách giặc đã dội vào thơ các anh
với những âm điệu và màu sắc có khác”. Thơ Thanh Thảo viết về cuộc chiến đấu ở dọc Trường
Sơn và đồng bào Nam Bộ, cố gắng phác họa chân dung tinh thần của những người lính bình
thường, vô danh nhưng rất có ý thức về vận mệnh Tổ quốc. Thơ anh không thiếu cái cụ thể... mà
“vẫn giàu khái quát” [5, tr.52]. Nhận định trên đã khẳng định sức khái quát hiện thực của
Những người đi tới biển và ngòi bút Thanh Thảo mà chúng tôi sẽ nghiên cứu ở chương II.
Đánh giá về bút pháp xây dựng trường ca Những người đi tới biển, Lại Nguyên Ân cho
rằng: “Thanh Thảo chính đã thành công ở phần chân thật trong cảm quan về thực tại chiến đấu,
có hy sinh mất mát, có chiến thắng lạc quan; sắc thái bi hùng, trữ tình… hòa hợp ở mức khá cao
với tính sử thi, điều này đem lại thành công cho anh” [5, tr.55]. Ý kiến của Lại Nguyên Ân tạo
thêm cơ sở để chúng tôi nghiên cứu sức khái quát hiện thực; yếu tố sử thi, trữ tình trong
trường ca cũng như bút pháp hiện thực của Thanh Thảo.
Mai Hương rất tâm đắc với phong cách viết trường ca của Hữu Thỉnh - một nhà thơ bộ đội
thời chống Mỹ. Trên TCVH số 3/1980, với bài "Đọc Đường tới thành phố”, Mai Hương cho
rằng: "Ngòi bút Hữu Thỉnh thật tỉnh táo, khỏe khoắn, không một chút cường điệu dễ dãi... khi
viết về cuộc hành trình vĩ đại của cả dân tộc” [35, tr.109]. Trong những trang viết khá cẩn thận,
Mai Hương đã nhận xét khái quát từng chương của trường ca: cách khai thác chủ đề, cách chọn
vấn đề của tình cảm, chọn tình huống gây cấn để mô tả, từ đó đưa người đọc đến với “sự tinh tế
trong đời sống” tình cảm vốn đẹp và trong lành của con người Việt Nam, đặc biệt là sự hoà
quyện giữa cá nhân và cộng đồng [35, tr.110]. Mai Hương cũng cho rằng: "Khi tác giả cố chỉ
thuần lao tìm về mặt hình thức, ở những chỗ ấy... khó đọc, khó nhớ và có phần nặng nề" [35,
tr.112]. Nhưng cuối cùng, tác giả vẫn khẳng định Đường tới thành phố đã thu hút được sự chú ý,
tin yêu của đông đảo bạn đọc. Điều này đã giúp người viết khẳng định thêm giá trị của trường ca
và bút lực của Hữu Thỉnh.
"Hữu Thỉnh - một phong cách thơ sáng tạo" là bài viết của Lưu Khánh Thơ, đăng trên
TCVH số 2/1988. Trước hết, Khánh Thơ đã giới thiệu sự thành công của Đường tới thành phố
(giải ba báo Văn nghệ 1972 - 1973, giải nhất báo Văn nghệ 1975 - 1976, tặng thưởng của Hội
Nhà Văn 1980). Theo Khánh Thơ: "trước khi là nhà thơ, Hữu Thỉnh đã là một người lính. Hình
tượng người lính và hiện thực lớn lao, sôi động của những năm tháng chiến tranh ác liệt đã trở
thành nguồn cảm hứng chủ đạo cho các sáng tạo của anh” [95, tr.75]. Như vậy, “người lính và
hiện thực cuộc cách mạng lớn lao của dân tộc” là nội dung quan trọng trong Đường tới thành
phố. Cảm hứng, phong cách sáng tạo của tác giả cũng là vấn đề được tập trung nghiên cứu ở
chương II.
Lúc bấy giờ, Lưu Khánh Thơ đã đánh giá khá dè dặt:“Hữu Thỉnh đã khẳng định mình là
một trong những nhà thơ có thành công khi viết về đề tài chiến tranh chống Mỹ". Tác giả nhận
xét trường ca có khá nhiều những đoạn thơ cảm động, những câu thơ sắc nhọn, phản ánh sâu sát
hiện thực của một thời chiến, hơn hẳn những tác phẩm ở giai đoạn trước. Tuy nhiên, Khánh Thơ
cũng chỉ ra những hạn chế: "chất lượng các chương không đồng đều... ở đoạn cuối không giấu
nổi tình trạng hụt hơi... có khi không làm chủ được ngòi bút của mình, thơ bị rơi vào tình trạng
lan man" [95, tr.81-82].
Như vậy, cả hai bài viết đều đánh giá cao bút lực của Hữu Thỉnh, nhưng Lưu Khánh Thơ đi
sâu về tính chất văn chương, nghệ thuật biểu hiện nhân vật ở những câu thơ minh họa. Giá trị
của Đường tới thành phố cũng được Mai Hương và Lưu Khánh Thơ khẳng định. Ngày nay, lời
nhận xét ấy vẫn được trân trọng và là cơ sở để giúp người viết thực hiện việc nghiên cứu giá trị
tác phẩm và vai trò của tác giả trong dòng văn học hiện đại Việt Nam.
Nhận định khái quát về giá trị tư tưởng của Mặt trời trong lòng đất, Dục Tú cho rằng: “Tác
phẩm ngợi ca sức mạnh của nhân dân, sức mạnh của cuộc chiến tranh chính nghĩa" [79, tr.146].
Thành công của Mặt trời trong lòng đất (Trần Mạnh Hảo) chính là nhờ sự phản ánh trung thực
cuộc sống chiến đấu của nhân dân Củ Chi và bút pháp lãng mạn bay bổng. Tuy nhiên, người viết
cũng nhận thấy trong trường ca này, những đoạn triết lý nhiều là những đoạn tối nghĩa, có
những mạch liên tưởng thiếu lô-gic [101, tr.152].
Hồng Diệu với bài viết "Những chặng đường thơ Anh Ngọc" (TCVH số 6/1987), đã nhận
xét bút pháp và đánh giá Sông núi trên vai: “Cùng với tuổi tác và sự từng trải, nhà thơ có ý thức
sâu sắc hơn về con người và cuộc đời”. Thơ Anh Ngọc có bản sắc riêng của lớp nhà thơ trẻ mặc
áo lính, thường đặt yêu cầu cao về tư tưởng, đồng thời chú trọng tính chân thực trong thơ. Tại
hội thảo về Trường ca do Tạp chí Văn nghệ tổ chức (1980), Anh Ngọc có bài phát biểu nhan đề
“Hãy đưa tôi một tư tưởng”, ở dòng chữ ghi cuối trường ca Sông núi trên vai (1983), anh cũng
nêu rõ điều này. Hồng Diệu cho rằng: "Anh Ngọc tập trung nhiều và thành công… rõ hơn là ở
trường ca Sông núi trên vai...”. Ca ngợi như thế nhưng Hồng Diệu cũng không bỏ qua những
nhược điểm mà Anh Ngọc mắc phải: "Có những câu thơ trong Sông núi trên vai còn công thức
và nhạt lắm”. Tuy nhiên, bài phê bình này còn khá chung chung, chưa đào sâu giá trị hiện thực
của Sông núi trên vai, mặc dù đây là vấn đề quan trọng nhất làm nên sự thành công cho tác phẩm
(vì thực tế, các cô gái trong đoàn Vận tải H 50 ở mảnh đất cực Nam Trung bộ, ngày nay vẫn còn
lại một số các chị quá lứa, lỡ thì, đơn lẻ... nhưng lòng không quên những niềm vui; những nhọc
nhằn, khốn khó mà họ đã từng trải qua).
Vũ Duy Thông, trong lời giới thiệu Lửa mùa hong áo, đã bày tỏ suy nghĩ: “Không biết có
lầm không nhưng các nhà thơ nữ hình như rất ít viết trường ca, bởi đây là lần đầu tôi đọc
trường ca của một cây bút khác giới… chúng tôi đã quen nghĩ trường ca đòi hỏi vóc dáng vạm
vỡ, mạch thơ dài hơi, bố cục lớp lang, bài bản… không hợp lắm với phụ nữ”. Nhưng đọc Lửa
mùa hong áo của Lê Thị Mây, Vũ Duy Thông không chỉ thấy đậm chất nữ rất riêng mà còn thấy
bút lực của người viết trên những trang thơ.
Hồng Diệu, trong “Thêm vài suy nghĩ” (TCVN số 5/1981) đã có một nhận xét (theo ông là
một nhận xét vui): “Trong bao nhiêu trường ca in ra mấy chục năm nay, chưa có một trường ca
nào mà tác giả của nó là nữ mặc dầu các bạn gái làm thơ của chúng ta khá nhiều. Và nếu có
trường ca của một bạn gái thì “chất” trường ca ở đó có gì đặc biệt?”. Thật sự, từ sau năm 2000,
đã có vài trường ca của các nhà thơ nữ ra đời và chất lượng hầu như không lệ thuộc nhiều vào
vấn đề nhà thơ là nam hay nữ mà phụ thuộc ở vốn thực tế, sức viết, cảm xúc và tài năng của họ.
Chúng ta có thể kể đến Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây, Bà mẹ Quảng Nam của Trần Thị
Thắng, Mẹ của Phạm Thị Bảo... Nhưng có thể thấy rằng Lửa mùa hong áo được độc giả chú ý
nhiều hơn.
- Trong sách Phê bình, bình luận văn học - Nxb Văn nghệ (1998) do Vũ Tiến Quỳnh chọn
và giới thiệu cũng có một số bài viết về các tác giả và phân tích một số trường ca tiêu biểu được
khẳng định giá trị, chẳng hạn như:
+ Nguyễn Viết Lãm có "Bài ca chim Chơ rao, một bản trường ca hay, viết về Thu Bồn
và tác phẩm, đã đăng trên TCVH số 5/1965 [78, tr.196-209].
+ Hoài Thanh với bài "Tấm lòng của một thanh niên trên tiền tuyến lớn”, viết về nhà
thơ Lê Anh Xuân, đã in trong TCVH số 10/1968 [78, tr.93].
+ Phạm Văn Sỹ với bài "Thơ ca chống Mỹ cứu nước ở Miền Nam 1954 - 1970 [78, tr.34]
đã có những lời nhận định về Hưởng Triều, Giang Nam, Lê Anh Xuân, Thu Bồn…
- Mã Giang Lân có bài "Anh Ngọc, tình yêu và người lính" in trong tập Tiến trình thơ
hiện đại Việt Nam, [47, tr.558-564] Nxb Giáo Dục - 2000.
- Nguyễn Hữu Quý có bài “Cổ tích về sự hồi sinh” viết về các trường ca được sáng tác từ
cuộc phát động viết về Bác Hồ của tuần báo Văn nghệ đăng trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội số
617/2004.
Những công trình nghiên cứu, những bài phê bình, những bài viết trên đã tạo cơ sở, tiền đề
cơ bản quan trọng cho chúng tôi thực hiện công trình này. Ngoài ra, cũng cần nhắc đến một số
công trình khác, tuy không trực tiếp liên quan đến trường ca hiện đại, nhưng cũng gợi ý cho
chúng tôi có những hiểu biết sâu sắc hơn về tính chất sử thi anh hùng hiện đại. Đó là:
+ Bài "Mấy ý kiến về anh hùng ca - bài ca Đăm San” của Lê Văn Khoa (TCVH số 6/1982).
+ Luận án Tiến sĩ: “Thể loại sử thi anh hùng của các dân tộc ở Tây Nguyên” của Võ Quang
Nhơn, có trích đăng trên Tạp chí Văn nghệ (4) 1987.
+ Luận văn Thạc sĩ: "Thi pháp sử thi anh hùng của dân tộc Ê-đê" của Huỳnh Thống Nhất
(2002).
Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc và trân trọng những công trình nghiên cứu đã nêu, trong
luận án này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu Trường ca về thời chống Mỹ trong văn học hiện
đại Việt Nam, cụ thể về các nội dung: “những nhân tố tạo nên sự xuất hiện trường ca về thời
chống Mỹ; nội dung chủ yếu, đặc điểm nghệ thuật của trường ca”.
5.3. Phạm vi nghiên cứu
Trường ca về thời chống Mỹ xuất hiện từ 1960 đến 1980 khá nhiều và đa phần có giá trị.
Sau năm 1980, trường ca vẫn tiếp tục phát triển. Bên cạnh đề tài chiến tranh, các nhà thơ còn
quan tâm đến những đề tài về cuộc sống thường nhật, đề tài đời tư thế sự. Nhưng thực tế cho
thấy, những trường ca ấy chưa tạo nên những ấn tượng, những giá trị như trường ca về thời
chống Mỹ giai đoạn 1960 - 1980. Do vậy, phạm vi nghiên cứu của luận án này không thể khảo
sát tất cả các trường ca, mà chỉ dừng lại ở những trường ca tiêu biểu, có giá trị viết về thời chống
Mỹ của Thu Bồn, Tố Hữu, Lê Anh Xuân, Giang Nam, Hưởng Triều, Nguyễn Khoa Điềm, Hữu
Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, Thanh Thảo, Anh Ngọc, Nguyễn Quang Thiều, Lê Thị Mây, Văn
Công Hùng… và một vài tác giả khác như ở thư mục đã giới hạn.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi áp dụng các phương pháp sau:
6.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Vận dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để nghiên cứu những nhân tố khách quan và
chủ quan tạo nên sự xuất hiện của trường ca về thời chống Mỹ; phân tích, giải mã sự gắn kết
giữa cảm xúc thời đại và dân tộc, sự hoà quyện giữa cá nhân và cộng đồng. Phân tích giá trị
phán ánh hiện thực; những đặc điểm của sự phức hợp, đa dạng về thể thơ; tính chất đa giọng
điệu và giọng điệu sử thi, không gian sử thi, sự liên tường, chất liệu dân gian của trường ca về
thời chống Mỹ. Phương pháp tổng hợp sẽ tạo thuận lợi cho chúng tôi hệ thống các vấn đề, luận
điểm đã nghiên cứu và rút ra những nhận định chung.
6.2. Phương pháp lịch sử - xã hội
Các trường ca về thời chống Mỹ phản ánh cuộc sống hiện thực phong phú. Tư tưởng nghệ
thuật của các nhà thơ có cội nguồn từ hiện thực lịch sử và thời đại mà họ đã và đang sống. Vì
thế, chúng tôi luôn vận dụng phương pháp lịch sử - xã hội trong quá trình tiếp cận, nghiên cứu
giá trị các trường ca và cái tôi nhà thơ theo hệ thống trục thời gian lịch sử (từ 1960 đến 1980, từ
1980 đến nay). Hệ thống lại các ý kiến nhận xét về thể loại; các ý kiến đánh giá về tác giả, tác
phẩm theo quan điểm lịch sử xã hội phù hợp với thời điểm xuất hiện.
6.3. Phương pháp so sánh, thống kê
Ngoài hai phương pháp trên, chúng tôi còn sử dụng phương pháp so sánh và thống kê ở
chừng mực cần thiết khi phân tích tác phẩm, đối sánh sự khác biệt về vai trò cá nhân, tính sử thi,
giọng điệu, kết cấu… của trường ca hiện đại so với trường ca cổ điển, so sánh phong cách của
các tác giả. Ở trường hợp cần thiết, sử dụng phương pháp thống kê để có cái nhìn tổng hợp về
tần số xuất hiện của các thể thơ, giọng điệu, chủ thể trữ tình trong trường ca.
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần dẫn nhập và kết luận, luận án được trình bày thành ba chương:
Chương I. Những nhân tố tạo nên sự xuất hiện của trường ca về thời chống Mỹ.
Chương II. Nội dung chủ yếu của trường ca về thời chống Mỹ.
Chương III. Đặc điểm nghệ thuật của trường ca về thời chống Mỹ.
Cuối cùng là phụ lục, tài liệu tham khảo và những công trình của tác giả đã công bố có liên
quan đến đề tài luận án.
Chương 1
NHỮNG NHÂN TỐ TẠO NÊN SỰ XUẤT HIỆN CỦA TRƯỜNG CA VỀ THỜI
CHỐNG MỸ
1.1 Những nhân tố khách quan tạo nên sự xuất hiện của trường ca
1.1.1 Sự kết nối từ truyền thống đến hiện đại
Văn học hiện đại nói chung, thơ ca Việt Nam thời chống Mỹ nói riêng, đã được đội ngũ
nhà thơ kết hợp nét truyền thống cùng với sự mới mẻ hiện đại để tạo thành tiếng nói đặc sắc
riêng. Sự kết nối từ truyền thống đến hiện đại về nội dung và hình thức phát triển của thể loại
đã tạo nên một sắc thái mới cho thơ. Đây cũng là một nhân tố góp phần tạo nên sự xuất hiện của
trường ca về thời chống Mỹ.
Trường ca, một loại hình nghệ thuật ra đời tương đối sớm trong đời sống tinh thần của
nhân loại. Đầu tiên là sự xuất hiện của các trường ca cổ đại như: Iliat-Ôđixê của Hy Lạp,
Mahabharata và Ramayana của Ấn Độ... Ở Lào có Phra Lac Phra Lam, ở Khơme có Riêmkê.
Việt Nam có các Khan - là trường ca cổ sơ thiên về hát, kể bằng làn giọng du dương trầm bổng
có thể kết hợp với vũ điệu. Điển hình như: trường ca Đam San, trường ca Xinh Nhã, trường ca
Đăm Di, H’ mon Dăm Noi, MLan, Xing Chơniếp của các dân tộc Tây Nguyên (thuộc sử thi anh
hùng, chủ yếu ca ngợi các nhân vật anh hùng tiêu biểu của bộ lạc); của dân tộc Mường như: sử
thi thần thoại Đẻ đất, đẻ nước. Xuất phát từ mục đích phản ánh đời sống xã hội mà nó tồn tại, thi
pháp trường ca luôn chịu sự qui định của xã hội mà nó được sản sinh.
Từ nghĩa gốc “ca là hát”, các tác phẩm sử thi cổ xưa của Việt Nam chuyển tải cái hồn
phách đến lòng người bằng âm thanh giai điệu, bằng lối kể “tổng hợp”. Thường, trong các ngôi
nhà rông ấm ngọn lửa của làng, những bài ca sử thi đã được cất lên bằng giọng hát, giọng kể.
Đây có lẽ cũng là một trong những điều kiện thuận lợi cho sử thi cổ điển phát triển, vì hát ca sẽ
giúp cho người nghe dễ nhớ, dễ thuộc và dễ lưu truyền. Thế nhưng, trong dòng văn học hiện đại,
thể loại trường ca ngày nay lại không mang yếu tố “hát ca”.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng các trường ca nổi tiếng trong kho tàng văn học dân tộc là
trường ca, vì yếu tố “thi” và “ca” gắn chặt nhau, có yếu tố “trường” và “truyện” xen lẫn, trường
ca cùng một hình thức với truyện thơ [80]. Các bài thơ có dung lượng đồ sộ hiện nay không có
yếu tố “ca”. Người viết lại cho rằng trường ca hiện đại phải mang hơi thở sử thi, âm hưởng các
cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, chứa đựng nội dung lớn lao. So sánh với trường ca cổ điển,
điều khác biệt lớn là trường ca cổ điển không có chỗ đứng cho sự sáng tạo cá nhân, không
thể đưa cách nhìn riêng của bản thân vào tác phẩm mà chỉ có thể kể, thuật lại sự kiện là chủ yếu.
Tất cả là nhờ vào ký ức của tập thể nhân dân nhớ về q khứ anh hùng của dân tộc. Trường ca
sử thi hiện đại chính là bắt nguồn từ trường ca cổ điển về phương diện kết cấu, độ dài, chất sử
thi anh hùng ca; nhưng mỗi thời đại đều có những trường ca mang đặc điểm riêng về hình thức
lẫn nội dung phù hợp với mỗi thời.
Vũ Văn Sỹ, trong tiểu luận “Trường ca trong hệ thống thể loại thơ Việt Nam hiện đại”
in trong Mạch nguồn thơ thế kỷ [85] đã khẳng định: năm 1980, 1981, 1982, nhiều cuộc hội thảo
về trường ca diễn ra sơi nổi. Tạp chí Văn nghệ Qn đội (1981) mở thêm mục “Trao đổi về
trường ca”. TCVH số 6/1982 đặc biệt đã đăng tải lại nhiều bản tham luận cơng phu của các nhà
nghiên cứu văn học về “trường ca cổ điển và trường ca hiện đại”. Theo ơng, các tham luận có
thể quy về bốn cụm ý kiến:
+ Một là, các tác phẩm dài hơi đương thời nên gọi là truyện thơ (vì khái niệm trường ca chỉ
là vay mượn ở Châu Âu).
+ Hai là, trường ca, với ý nghĩa mỹ học đầy đủ nhất, có tên gọi là trường ca sử thi hiện đại,
và lấy tự sự làm chính.
+ Ba là, trường ca có thể là khúc anh hùng ca được tiếp tục trong giai đoạn mới của lịch sử
văn học (chủ yếu: trữ tình cách mạng kết hợp tự sự).
+ Bốn là, trường ca là một hiện tượng giao thoa giữa tự sự và trữ tình của các thể loại. Nét
đặc biệt là cái tơi của nhà thơ chủ động tham gia tích cực vào kết cấu tác phẩm dưới hình thức
nhân vật trung tâm và nhân vật hành động. Và điều này lý giải vì sao đây là thời kỳ hồng kim
của trường ca sử thi hiện đại.
Sự tổng hợp các ý kiến trao đổi về trường ca của Vũ Văn Sĩ khá hợp lý. Trong luận văn
“Đặc điểm trường ca viết về đề tài chiến tranh thời chống Mỹ”, chúng tơi đã khẳng định vấn
đề: những bài thơ dài có kết cấu chặt chẽ, mang nội dung lịch sử lớn lao, có tính sử thi… mới
được gọi là trường ca. Viết về thời chống Mỹ, nhiều bài thơ dài khơng hề có cốt truyện lại thiên
về giọng điệu bày tỏ cảm xúc như: Đường tới thành phố - Hữu Thỉnh, Mặt đường khát vọng Nguyễn Khoa Điềm, Những người đi tới biển - Thanh Thảo... vẫn được xếp vào thể trường ca sử
thi hiện đại. Và cách sắp xếp ấy là hợp lý vì:
+ Trường ca sử thi hiện đại thường có dung lượng khá đồ sộ với cảm hứng mãnh liệt;
nội dung hoành tráng; âm điệu hào hùng; có khả năng tổng hợp cả về nội dung lẫn hình thức
thể loại; vừa đậm đà chất trữ tình; vừa giàu chất suy nghó, triết lý... Chính vì thế, có thể cho
rằng: trường ca sử thi hiện đại, về bản chất khác với truyện thơ truyền thống, khác với trường ca
cổ điển nhưng gần gũi với thơ trữ tình.
+ Trường ca sử thi hiện đại là một thể loại văn học nằm trong hệ thống thơ ca hiện đại
Việt Nam, “ra đời và phát triển trong hoàn cảnh xã hội có những biến cố lịch sử trọng đại, lớn
lao” [10, tr.110]. Tuy nhiên, trong thực tế, ở thời bình vẫn có hàng loạt trường ca ra đời hưởng
ứng các cuộc vận động sáng tác về đề tài chiến tranh, phản ánh về một thời kháng chiến đã qua
và đa phần được viết bằng thủ pháp “hồi tưởng”.
Bàn về vấn đề này, thi hào Pháp Victor Hugo, một trong những nhà thơ lãng mạn lớn nhất
của Phương Tây ở thế kỷ XIX và nhà thơ lớn Maiakovki của Liên Xô (cũ) ở nửa đầu thế kỷ XX
đều cho rằng thể loại trường ca sống mãi. Tất nhiên là hình thức của thể loại trường ca phải phù
hợp với thời đại. Thời đại qui định thi pháp trường ca, trường ca in đậm dấu ấn thời đại.
Quả là con đường từ sử thi truyền thống đến sử thi hiện đại là cả một quãng thời gian dài
dằng dặc. Trên thế giới, các trường ca sử thi nổi tiếng như: trường ca Iliat-Ôđixê của Hilạp cổ
đại, trường ca Mahabharata, Raymayana của Ân Độ, Bài ca Rôlăng của Pháp, Trường ca của
Maiacốpki... đã được tôn vinh, mang giá trị văn hoá đặc sắc của toàn nhân loại. Ở Việt Nam ta
cũng thế, từ Đẻ đất đẻ nước, Đam San-Xing Nhã… đến các trường ca sử thi hiện đại là cả một
khoảng dài thời gian sàng lọc và sáng tạo quí giá.
Ở thời kỳ chống Pháp, trường ca rất hiếm. Có thể kể đến:
+ Trường ca Tiếng địch sông Ô của Phạm Huy Thông (xuất hiện từ phong trào thơ Mới
1932 - 1945) là một khúc anh hùng ca về tiếng địch Trương Lương làm xao lòng khách anh
hùng.
+ Trường ca Từ đêm mười chín, còn có tên Quảng Nam - Đà Nẵng hùng ca (1951) của
Khương Hữu Dụng, Đây là “bản trường ca duy nhất viết về cuộc bùng nổ toàn quốc kháng
chiến, một cuộc bùng nổ đầy ý thức của dân tộc, thời điểm bùng nổ ý thức công dân” [91, tr.41].
Dòng thơ ca Việt Nam - chủ yếu là trường ca - xuất hiện ở thời kỳ này đã có ít nhiều ảnh
hưởng thể trường ca của Phương Tây. Ngay cả âm nhạc cũng có những bài ca dài bất hủ về đề
tài kháng chiến vùng châu thổ sông Hồng như: Trường ca Người Hà Nội (Nguyễn Đình Thi), Du
kích sông Thao (Đỗ Nhuận), Trường ca sông Lô (Văn Cao)… ra đời chủ yếu là để phục vụ cho
nhiệm vụ chính trị. Nhưng, cũng có những dấu hiệu chứng tỏ trường ca hiện đại tiếp nối nguồn
gốc sử thi anh hùng ca cổ điển của các dân tộc Việt Nam như các khan (Đam San, Xing Nhã…),
sử thi Mường (Đẻ đất đẻ nước), các truyện thơ của Tày - Nùng - Thái (Sóng chụ chon sao,
Chàng Lú nàng Ủa)...
Chúng ta cũng thấy rằng, nhiều nhà thơ trưởng thành trong thời chống Mỹ vẫn có cảm hứng
sáng tác về đề tài chiến tranh thời chống Pháp như Trần Đăng Khoa với Khúc hát người anh
hùng (1974) viết về nữ du kích Mạc Thị Bưởi. Nguyễn Bá với trường ca Hòn Khoai (2000) viết
về anh hùng Phan Ngọc Hiển. Dương Tam Kha với trường ca Anh hùng Lò Văn Giá (2003). Nhà
thơ Võ Văn Trực có Ngày hội của rạng đông (1978) viết về không khí khởi nghĩa Xô Viết Nghệ
Tĩnh; riêng trường ca Người anh hùng đất Hoan Châu (1976) phản ánh cuộc khởi nghĩa nông
dân và anh hùng Mai Hắc Đế. Giang Nam với Sông Dinh mùa trăng khuyết (2003) viết về liệt sĩ
Nguyễn Thị Trừ của thời chống Pháp nhưng cũng có những chương đoạn mang cảm hứng về
thời chống Mỹ.
Thời kỳ đầu chống Mỹ, số lượng trường ca xuất hiện cũng không nhiều. Nhưng càng về
sau, số lượng tăng dần do yêu cầu cần phản ánh và bày tỏ cảm xúc trước hiện thực chiến tranh
diễn ra hàng ngày trên quê hương, đất nước.
Một số bài thơ dài và trường ca thường được
nhắc tới như: Ba mươi năm đời ta có Đảng (1960), Theo chân Bác (1970), Nước non ngàn dặm
(1973) của Tố Hữu; Người thợ ảnh (1963), Người Bác sĩ (1968) của Huy Cận; Bài ca chim
Chơrao (1963), Vách đá Hồ Chí Minh (1970), Quê hương mặt trời vàng (1975) của Thu Bồn,
trường ca Nguyễn Văn Trỗi (1967) của Lê Anh Xuân; Cái én (1967) của Phạm Huy Thông,
Người anh hùng Đồng Tháp (1968) của Giang Nam; Cách mạng, chương đầu (1970), Những bài
thơ đánh giặc (1972), Ngày vĩ đại (1975), Thơ bổ sung (1975) của Chế Lan Viên; Câu chuyện
quê hương (1973) của Tế Hanh; Kể chuyện ăn cốm giữa sân (1974) của Nguyễn Khắc Phục;
Trường ca ở làng Phước Hậu của Trần Vũ Mai; Như trong mơ (1975) của Hoàng Trung Thông,
Mặt đường khát vọng (1974) của Nguyễn Khoa Điềm... Một số trường ca khác cũng viết về đề
tài chiến tranh nhưng không được đánh giá cao như Lửa sáng rừng của Thái Giang, Núi rừng
mở cánh - Liên Nam, Phóng sự 30/4/75 - Nguyễn Duy, Sóng Nậm Rốm - Vương Trung…
Từ sau năm 1975; văn thơ, đặc biệt là trường ca nở rộ đã tiếp tục nhiệm vụ viết tiếp trang
sử của quá khứ và phản ánh hiện thực cuộc sống. Cảm hứng về thời đại và vốn sống phong phú
mà các nhà thơ tích lũy được trong những tháng năm nơi chiến trường đã tạo điều kiện cho thể
loại trường ca phát triển. Thanh Thảo có Những người đi tới biển (1977); Hữu Thỉnh có Đường
tới thành phố (1979), Trường ca Biển (1994); Trần Mạnh Hảo với Mặt trời trong lòng đất
(1981), Đất nước hình tia chớp (1994); Nguyễn Đức Mậu với Trường ca Sư Đoàn (1980); Anh
Ngọc với trường ca Sông núi trên vai (1983); Giang Nam với Ánh chớp đêm giao thừa (1998),
Sông Dinh mùa trăng khuyết (2002); Thu Bồn với Badan khát (1977), Quê hương mặt trời vàng
(1975), Nguyễn Trọng Tạo với Con đường của những vì sao (1981); Lê Đạt với Trường ca Bác
(1990)…
Trong hai đợt vận động sáng tác về đề tài chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang
nhân dân (1992 - 1995 và 2001 - 2004), một số nhà thơ đã trở lại với những sự kiện lịch sử xa
xưa để ca ngợi, tự hào. Một số nhà thơ lại viết theo dòng hồi ức và nhu cầu cần giải thoát sự trăn
trở của nội tâm. Có thể kể đến Nguyễn Quang Thiều với Những người lính của làng (1994); Văn
Lê với Những cánh đồng dưới lửa (1997); Dông bão (2000) của Nguyễn Xuân Hạnh; Năm tháng
và chiều cao, (2000) của Nguyễn Thuỵ Kha; Về miền thương nhớ (2005) của Tạ Kim Khánh,
Anh Ngọc, ngoài Sông núi trên vai còn có Điệp khúc vô danh (1993); Ngô Văn Phú có Hà Nội
tháng mười hai (2003); Lê Huy Quang có Hồi ức tuổi hai mươi (1994), Một thời để nhớ (2004);
Thi Hoàng có Gọi nhau qua vách núi (1997); Nguyễn Hương Trâm có Hà Nội Thăng Long
(2000); Từ Nguyên Tĩnh với Trường ca Hàm Rồng (2000), Vũ Đình Thự có Bài ca dâng Đảng
(2004)... Một số trường ca phản ánh cuộc chiến tranh biên giới như: Đảo chìm (1994) của
Vương Trọng, Trường ca Côn Đảo của Nguyễn Đức Mậu, Mười bảy khúc đảo ca của Dương
Thuấn... Riêng Thu Bồn “vượt qua biên giới” khi phản ánh những sự kiện khủng khiếp đang
diễn ra ở đất nước Chùa Tháp trong Campuchia hy vọng.
Như vậy, từ năm 1990 trở đi, sau một thời gian gần như im vắng, trường ca xuất hiện trở lại
trên văn đàn ngày càng nhiều nhờ các đợt phát động thi sáng tác trường ca. Một số tác phẩm và
tác giả được chú ý như: Ngựa trắng bay về (2002) của Văn Công Hùng, Trước núi Ngọc Linh
của Vũ Hùng (2005), Những người lính của làng của Nguyễn Quang Thiều (1994), Đổ bóng
xuống mặt trời (1999) của Trần Anh Thái, Lửa mùa hong áo (2003) của Lê Thị Mây, Trường ca
Hàm Rồng (2000) của Từ Nguyên Tĩnh, Mảnh hồn chim Lạc (2004) của Nguyễn Hưng Hải, Sinh
ở cuối dòng sông (2003) của Nguyễn Hữu Quý, Trầm tích (1999) của Hoàng Trần Cương,
Những cánh đồng dưới lửa (1997) của Văn Lê, Tiếng bom và tiếng chuông chùa của Phạm Tiến
Duật, Đi trong sen ngát bóng xanh (2005) của Phạm Thái Quỳnh... Những trường ca kể trên
thường thiên về cảm hứng bi tráng; nặng chất hồi tưởng, suy ngẫm khác với trường ca những
năm 1960 - 1980 thiên về cảm hứng ngợi ca; giàu chất tráng ca, anh hùng ca. Bởi, độ lùi của
chiến tranh đã giúp các nhà thơ tỉnh táo hơn, cẩn trọng và công bằng hơn trong việc nhìn nhận,
phản ánh vấn đề.
Một số trường ca thuộc về nhiều đề tài khác có: Người bác sĩ (1963) của Huy Cận; Ngày
hội của rạng đông (1978) của Võ Văn Trực; Hơi thở rừng hồi (2002) của Vương Trọng; Sông
Mêkông bốn mặt (1988) của Anh Ngọc. Trong Trường ca thành Tây Đô, Văn Đắc ca ngợi công
lao của Hồ Quý Ly, Thanh Chương tráng khúc của Nguyễn Bùi Vợi ca ngợi hào khí của quê nhà
“địa linh nhân kiệt”. Năm 2001, Nguyễn Khắc Phục, cho ra đời trường ca Bài ca nữ thần Jang
Hơ-ri (3.947 câu). Cũng trong năm này, Phan Quế có Cổ kính và phóng túng (1795 câu), viết về
đất và người thủ đô thời trước 1945. Thanh Thảo nổi tiếng với Những người đi tới biển lại có
cảm hứng về nhân vật lịch sử Nguyễn Đình Chiểu nên đã sáng tác Trò chuyện với nhân vật của
mình (960 câu thơ) nhân dịp kỷ niệm 160 năm ngày sinh của nhà thơ Nam bộ này (hầu như được
viết toàn bộ bằng thơ văn xuôi). Trước đây, trong đợt vận động sáng tác lần đầu (1992 đến
1995), Thanh Thảo cũng đã viết về đề tài này qua trường ca mang tên: Những ngọn sóng mặt
trời gồm hai trường ca nhỏ: Những nghĩa sĩ Cần Giuộc và Bùng nổ của mùa Xuân.
Đến đợt vận động sáng tác lần thứ hai về đề tài chiến tranh và lực lượng vũ trang (2002 2005), số lượng trường ca đã tăng lên mạnh mẽ, trên 50 trường ca ra đời, phần lớn viết về cuộc
chiến đấu chống Mỹ của dân tộc. Cuộc thi sáng tác trường ca viết về đề tài “Bác Hồ của chúng
ta” do tuần báo Văn nghệ phát động (2005) nhân kỷ niệm 115 năm ngày sinh của Bác Hồ cũng
đã khép lại nhưng bầu trời thơ ca thì đã nở rộ một không khí mới: có trên 2.500 tác giả dự thi với
7.950 bài thơ và trường ca viết về Bác. Đây cũng là hình thức thể hiện sự trở lại của trường ca
sau một thời gian dài hầu như vắng bóng.
Theo ý kiến chung của các nhà nghiên cứu văn học, đặc biệt là nghiên cứu về sự xuất hiện
cũng như sự phát triển của thể loại trường ca hàng mấy mươi năm nay, nhiều người cho rằng cái
thời sôi nổi của trường ca đã qua. Nhưng gần đây, trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội số 617,
Nguyễn Hữu Quý đã viết: “trường ca đã quay trở lại thời hoàng kim”. Chúng tôi cho rằng ý
kiến trên thể hiện mục đích động viên tinh thần sáng tác trường ca của các nhà thơ. Bởi lẽ, qua
nghiên cứu, chúng tôi thấy rằng “người trong cuộc viết về chính bản thân mình; về đồng đội;
nhân dân trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt sẽ hiện thực và đặc sắc hơn; tâm tư, cảm xúc sẽ
được giải bày sâu kỹ hơn”.
Từ 2004 đến nay, trong các bản trường ca hiện đại, các nhà thơ vẫn dành những chương,
khúc để viết về thời chống Mỹ như Ngày đang mở sáng (2007) của Trần Anh Thái, Mở bàn tay
gặp núi của Nguyễn Đức Mậu, Vạn Lý Trường Sơn của Nguyễn Hữu Quý, Trường ca Trường
Sơn của Nguyễn Anh Nông… Đề tài chiến tranh và người lính không ngừng ám ảnh họ. Bên
cạnh sự ra đời của trường ca sử thi hiện đại; việc tìm kiếm, sưu tầm, bảo tồn và lưu giữ những
tác phẩm sử thi - tài sản quý báu của dân tộc vẫn được chú trọng, cụ thể là “vừa phát hiện ba bộ
sử thi liên hoàn của các dân tộc MơNông, BaNa và Xêđăng, khảo sát sử thi ở hàng nghìn buôn,
bon, plây ở năm tỉnh: Đắc Lắc, Đắc Nông, Gia Lai, Bình Phước, Bình Thuận và sưu tầm trên
500 tác phẩm sử thi” (Tạp chí Văn nghệ Quân đội số 641 - 2/2006).
Tóm lại, qua các cứ liệu đã dẫn trên, chứng tỏ các nhà thơ của chúng ta muốn tìm mọi hình
thức thích hợp, phong phú để thể hiện cuộc sống đa dạng của những tháng năm nhiều biến động
và đầy tự hào của dân tộc. Điều đó chứng tỏ khả năng của họ muốn vươn tới một tầm cao của tư
tưởng nhận thức về nhân dân và đất nuớc. Đó cũng là kết quả tất yếu của một quá trình thừa
hưởng, tiếp nối hào khí thời đại đã qua và cũng là sự tiếp nối hình thức trường ca sử thi từ truyền
thống đến hiện đại: góp phẩn khẳng định: trường ca sử thi hiện đại là sự tiếp nối trường ca sử thi