Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Phẫu thuật một thì trong miệng niệu đạo đóng thấp thể nặng: Kinh nghiệm qua 50 trường hợp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (453.17 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019

Nghiên cứu Y học

PHẪU THUẬT MỘT THÌ TRONG MIỆNG NIỆU ĐẠO ĐÓNG THẤP
THỂ NẶNG: KINH NGHIỆM QUA 50 TRƯỜNG HỢP
Lê Nguyễn Yên*, Ngô Xuân Thái*

TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá kết quả bước đầu trong điều trị miệng niệu đạo đóng thấp thể nặng bằng phẫu thuật
một thì theo Koyanagi cải biên.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Từ tháng 9 năm 2017 đến tháng 2 năm 2019, có tất cả 50 bệnh
nhi được chẩn đoán miệng niệu đạo đóng thấp thể nặng và phẫu thuật tạo hình niệu đạo một thì theo kỹ thuật
Koyanagi cải biên theo Hayashi. Thời gian theo dõi từ 2 – 11 tháng. Kết quả thu thập tập trung vào các biến số: rò
niệu đạo, hẹp miệng niệu đạo, hẹp niệu đạo, tụt miệng niệu đạo, tương quan chiều dài dương vật trước và sau
mổ, thời gian phẫu thuật, thời gian lưu ống thông tiểu.
Kết quả: Trong 50 trường hợp được phẫu thuật, có 31 trường hợp hoàn thiện trong một lần mổ với thời
gian theo dõi trên 6 tháng, 10 trường hợp tụt miệng niệu đạo trong đó 6 trường hợp phải mổ lần hai, 9 trường
hợp rò niệu đạo. Không ghi nhận hẹp niệu đạo, chiều dài dương vật tăng hơn 40% so với chiều dài dương vật
trước mổ trong hầu hết trường hợp.
Kết luận: Áp dụng kỹ thuật Koyanagi cải biên trong phẫu thuật điều trị những trường hợp miệng niệu đạo
đóng thấp thể nặng có thể giảm đáng kể số lần phẫu thuật cho bệnh nhi với tỷ lệ biến chứng chấp nhận được.
Từ khóa: miệng niệu đạo đóng thấp thể nặng, kỹ thuật Koyanagi cải biên

ABSTRACT
HAYASHI – MODIFIED KOYANAGI REPAIR FOR SEVERE HYPOSPADIAS:
EXPERIENCE IN 50 CASES
Le Nguyen Yen, Ngo Xuan Thai
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 3 - 2019: 199 – 204
Objective: Evaluate the result of 50 cases of severe Hypospadias underwent Hayashi – modified Koyanagi
procedures with a lot of variable.


Methods: From Sept 2017 until Feb 2019, a total of 50 patients with proximal hypospadias who underwent
Hayashi – modified Koyanagi repaired in a single stage. The follow – up ranged from 2 months to 11 months.
Result of series of patients were focus on the complications after operation which include urethral fistule, meatal
stenosis, urethral stenosis, urethral or glans breakdown, the length of penis pre – post operation, the time of
retaining the uretheral tube.
Results: In 50 cases of surgery, there were 31 cases completed in one stage surgery with a follow up time of 6
months, 10 cases of urethral and glans breakdown in which 6 cases had to be operated in second times, 9 cases of
urethral fistule, no case of urethral stenosis. The penis length increased by 40% over the length of penis before
surgery in most cases.
Conclusions: Applying Hayashi - modified Koyanagi technique in case of severe hypospadias repair can
reduce the number of operations, with the complication rate can be acceptable.
Keywords: hypospadias repaired, Hayashi - modified Koyanagi
*Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS Lê Nguyễn Yên

Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học

ĐT: 0908824867

Email:

199


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019

ĐẶTVẤNĐỀ
Miệng niệu đạo đóng thấp là một trong

những bất thường bẩm sinh cơ quan sinh dục
ngoài thường gặp ở bé trai với tỷ lệ khoảng
1:300. Có nhiều hệ thống phân loại khác nhau.
Trong đó, miệng niệu đạo đóng thấp thể nặng
chiếm tỷ lệ khoảng 10 – 20%. Mục đích chính của
phẫu thuật là sửa tật cong, tạo hình niệu đạo
đưa vị trí miệng niệu đạo lên đỉnh quy đầu, sửa
tật chuyển vị dương vật bìu, tật bìu chẻ đôi kèm
theo. Để đạt được mục đích phẫu thuật, các kỹ
thuật tạo hình hai thì đến thời điểm hiện tại vẫn
là lựa chọn phổ biến của các phẫu thuật viên tiết
niệu nhi trên thế giới bởi tính an toàn và hiệu
quả. Bên cạnh đó, phẫu thuật một thì bằng kỹ
thuật Koyanagi cải biên theo Hayashi (2000) cho
tỷ lệ thành công đến 70%, không ghi nhận có
biến chứng nặng như hẹp niệu đạo, tính ưu thế
vượt trội về số lần phẫu thuật và tính thẩm
mỹ(5,6,9,10). Ở Việt Nam, tại bệnh viện Nhi đồng 1
chúng tôi áp dụng kỹ thuật này từ năm 2015 với
kết quả bước đầu rất khả quan, tỷ lệ biến chứng
ghi nhận trong 12 trường hợp là 33,3%(8). Nhằm
đánh giá kết quả ngắn hạn toàn diện hơn, chúng
tôi mở rộng áp dụng kỹ thuật này trên 30 trường
hợp khác, được chẩn đoán miệng niệu đóng
thấp thể nặng từ tháng 9 năm 2017 đến tháng 9
năm 2018 tại bệnh viện Nhi đồng 2.

ĐỐITƯỢNG- PHƯƠNG PHÁPNGHIÊNCỨU
Đối tượng
Bé trai được chẩn đoán miệng niệu đạo đóng

thấp thể nặng được phẫu thuật theo kỹ thuật
Koyanagi cải biên theo Hayashi tại bệnh viện
Nhi đồng 2 từ tháng 9/2017 đến tháng 2/2019.
Thể nặng bao gồm những trường hợp miệng
niệu đạo đóng thấp ở gốc dương vật, bìu, đáy
chậu, có cong dương vật nặng phải cắt sàn niệu
đạo để chỉnh cong.
Thiết kế nghiên cứu
Mô tả loạt trường hợp.
Phương pháp nghiên cứu
Thân nhân bệnh nhi được giải thích rõ ràng
về mục đích phẫu thuật và tỷ lệ biến chứng theo

200

Y Yăn thế giới và hiện tại ở Việt Nam. Chấp
nhận kí đồng thuận tham gia nghiên cứu. Đây
cũng là một kỹ thuật được áp dụng trên thế giới
và có trong sách giáo khoa Tiết Niệu nhi, được
đưa vào phác đồ điều trị tại bệnh viện Nhi đồng
1. Trên cơ sở đó khẳng định phương pháp này
không vi phạm vấn đề y đức.
Tiến hành phẫu thuật tạo hình niệu đạo một
thì theo kỹ thuật Koyanagi cải biên theo Hayashi
với các bước:
Vẽ đánh dấu đường rạch da (Hình 1)

Hình 1: Vẽ đánh dấu đường rạch da
Rạch da theo đường ngoài cùng vòng
quanh miệng niệu đạo, tách da dương vật và

mô dưới da sao cho hạn chế tổn thương mạch
máu ở cân Dartos.
Rạch da theo đường vòng quanh rãnh quy
đầu, bóc tách vạt da niêm quanh miệng niệu đạo
cùng với Dartos ra khỏi cân Buck đồng thời cắt
sàn niệu đạo chỉnh cong dương vật (Hình 2).
Chuyển vạt da niêm xuống mặt bụng dương
vật theo kiểu chui lỗ.
Tạo hình ống niệu đạo với hai đường khâu
liên tục bằng chỉ PDS 7.0 vị trí 6h và 12h trên ống
nuôi ăn dạ dày số 8Fr hoặc 10Fr (Hình 3).
Xẻ dọc quy đầu, khâu đính miệng niệu đạo
tân tạo vào đỉnh quy đầu, khép lại hai cánh
quy đầu.
Phủ niệu đạo tân tạo bằng Dartos tại chỗ.
Chỉnh hình da dương vật, khâu da bằng PDS
7.0 (Hình 4).
Băng ép, lưu ống thông tiểu ở vị trí phù hợp.

Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019

Nghiên cứu Y học

Hình 2: Tiến hành chỉnh dương vật
Biến số thu thập
Tỷ lệ rò niệu đạo, hẹp miệng niệu đạo, hẹp
niệu đạo, tụt miệng niệu đạo, tương quan chiều

dài dương vật trước và sau mổ, thời gian phẫu
thuật, thời gian lưu ống thông tiểu.

KẾT QUẢ
Tổng số 50 bệnh nhi được phẫu thuật tại
khoa niệu Bệnh viện Nhi Đồng 2, độ tuổi trung
bình được phẫu thuật 28,4 tháng, tuổi nhỏ nhất
là 11 tháng, lớn nhất là 12 tuổi.
Thời gian theo dõi hậu phẫu từ 2 – 11 tháng,
42 trường hợp theo dõi trên 6 tháng, 8 trường
hợp theo dõi trong 2 tháng.
Hình 3: Tạo hình ống niệu đạo

Có 5 trường hợp miệng niệu đạo đóng thấp
thân dương vật nhưng dương vật cong nặng, 31
trường hợp thể gốc dương vật - bìu, 14 trường
hợp thể bìu. Chuyển vị dương vật bìu và tật bìu
chẻ đôi kèm theo trong 22 trường hợp.
Thời gian phẫu thuật trung bình 115 phút
(dài nhất 165 phút, ngắn nhất 95 phút).

Hình 4: Chỉnh hình da dương vật

Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học

Chiều dài trung bình của dương vật trước
mổ là 3,2 cm (ngắn nhất 2,5 cm, dài nhất 5,5 cm).
Chiều dài trung bình của dương vật sau mổ 4,5
cm (ngắn nhất 3,5 cm, dài nhất 7,2 cm). Chiều
dài dương vật tăng lên được tính bằng chiều dài

thay đổi từ miệng niệu đạo ban đầu đến miệng
niệu đạo mới sau khi cắt sàn để chỉnh cong
dương vật. Động tác cắt sàn niệu đạo chỉnh cong
làm tăng chiều dài dương vật lên hơn 40% so với
chiều dài dương vật trước khi cắt sàn.

201


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019

Vạt da niêm quanh miệng niệu đạo và quy
đầu dùng tạo hình niệu đạo đủ để cuộn ống từ
miệng niệu đạo sau cắt sàn đến đỉnh quy đầu
trong tất cả trường hợp.
Không có biến chứng trong mổ.
Biến chứng trong thời gian hậu phẫu gần (thời
gian nằm viện – 2 tuần sau mổ)
Thời gian lưu ống thông tiểu từ 10 – 14 ngày,
trung bình 12,7 ngày.
Có 9 trường hợp băng vết mổ thấm máu
cũ, bẩn phải thay sớm sau 3 ngày. 41 trường
hợp duy trì băng ép và thay băng lần đầu sau
mổ 5 ngày.
Có 21 trường hợp loét bong thượng bì da
dương vật sau tháo băng đáp ứng với chăm sóc
tại chỗ, xảy ra chủ yếu da mặt bụng dương vật,
không có trường hợp nào cần cắt lọc hay ghép

da sau đó.
Ghi nhận có 4 trường hợp gập ống thông
tiểu trong lòng niệu đạo tân tạo. Biểu hiện bằng
tình trạng tiểu rặn ngoài ống thông nhiều hơn
ngày hậu phẫu trước đó, khi bơm rữa ông thông
thấy nước trào ra rất nhanh ở miệng niệu đạo.
Trong lô nghiên cứu này, 1 trường hợp xảy ra
hậu phẫu ngày 10, trường hợp còn lại xảy ra
ngày 11, 1 trường hợp đủ 14 ngày và 1 trường
hợp hậu phẫu ngày 5 buộc chúng tôi quyết định
rút ống thông tiểu sớm hơn và đặt lại bằng ống
thông Foley 8Fr.
Rò niệu đạo ngay sau rút ống thông tiểu gặp
trong 6 trường hợp, 3 trường hợp còn lại xảy ra
ở tuần thứ 2 sau xuất viện.
1 trường hợp có tụt miệng niệu đạo đến rãnh
quy đầu ngay sau rút ống thông tiểu.
Tái khám sau 6 tháng
1 trường hợp rò niệu đạo sau 1 tháng xuất
viện, trong thời gian 6 tháng sau xuất viện có
tổng cộng 11 trường hợp rò niệu đạo. Trong đó,
2 trường hợp tự lành, 8 trên 9 trường hợp rò đã
được phẫu thuật vá rò, đến hiện tại chưa thấy rò
tái phát trong thời gian theo dõi 4 - 6 tháng. Một
trường hợp còn lại đang chờ mổ.
10 bệnh nhi xuất hiện tụt miệng niệu đạo, đa

202

số xảy ra sau mổ 2 - 4 tuần. Trong đó có 6 trường

hợp tụt xuống dưới rãnh quy đầu khoảng 3mm
được phẫu thuật tạo hình niệu đạo thêm một
đoạn ngắn lên đỉnh quy đầu. 4 bệnh nhi còn lại
miệng niệu đạo tụt đến rãnh quy đầu nhưng
bệnh nhi vẫn tự tiểu tia thẳng không ướt chân và
kích thước quy đầu nhỏ nên chúng tôi quyết
định theo dõi tiếp mà không vội vàng tạo hình
lại niệu đạo (Bảng 1).
31 trường hợp dương vật thẳng, miệng
niệu đạo trên rãnh quy đầu, tự tiểu tia lớn, dễ
dàng, không ướt chân. Trong đó có 2 trường
hợp trước đó có rò nhưng tự lành sau thời gian
theo dõi 6 tháng.
Không ghi nhận biến chứng hẹp miệng niệu
đạo, hẹp niệu đạo, cong dương vật tái phát.
Bảng 1: Các biến chứng sau mổ
Biến chứng

Số bệnh Tỷ lệ
nhi (n=50) (%)

Rò niệu đạo

9

18

Tụt miệng
niệu đạo


10

20

Tổng số

19

38

Ghi chú
Có 2/11 trường hợp rò
tự lành
6 trường hợp tụt miệng
niệu đạo dưới rãnh quy
đầu phải mổ lần 2
Tuy nhiên chỉ có 15/50
trường hợp (30%) phải
mổ lần 2

BÀN LUẬN
Kỹ thuật Koyanagi cải biên
So với kỹ thuật Koyanagi nguyên bản (1983)
với tỷ lệ biến chứng 47% các cải biên của các tác
giả Snow và Cartwright (1994), Emir (2000), Catti
(2009), Hayashi (với 2 lần cải biên năm 2000 và
2006), Lei Kang (2016) tỷ lệ biến chứng giảm
đáng kể(2,3,4,5,7,12). Chúng tôi chọn kỹ thuật
Koyanagi cải biên theo Hayashi (năm 2000) vì
hiện tại được nhiều trung tâm phẫu thuật tiết

niệu nhi trên thế giới áp dụng hơn so với kỹ
thuật cải biên lần thứ 2 của chính tác giả. Với ưu
thế của kỹ thuật Koyanagi là dùng vạt da niêm
có cuống để tạo hình niệu đạo và kỹ thuật khâu
tạo ống niệu đạo với hai đường khâu dọc, tránh
được biến chứng hẹp miệng nối giữa miệng niệu
đạo gốc và niệu đạo tân tạo(1,11).

Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Biến chứng phẫu thuật
Trong các biến chứng sớm gồm rò niệu đạo,
tụt miệng niệu đạo có thể xảy ra ngay khi rút
ống thông tiểu hoặc trong 2 tuần đầu sau mổ còn
biến chứng mới ghi nhận trong lô nghiên cứu
này là gập ống thông tiểu. Chúng tôi khẳng định
ống thông tiểu hoàn toàn không bị gập trong mổ
vì trong mổ kiểm tra ống thông tiểu hoạt động là
động tác bắt buộc ngay trước khi cuộn ống niệu
đạo và ống thông vẫn hoạt động trong những
ngày sau đó. Chúng tôi đưa ra giả thuyết rằng
Bảng 2: Biến chứng muộn
Năm

Tác giả
(7)

1994

Koyanagi
(12)
1994 Snow và Cartwright
(3)
2000
Emir
(5)
2001
Hayashi
(4)
2007
Hayashi
(2)
2009
Catti
(10)
Nerli
2010
(1)
2011
Arnaud
(6)
2013
Vepakomma
(8)
2017 Lê Nguyễn Yên & cs
2019
Chúng tôi

Số bệnh

nhi
70
4
20
20
12
31
14
21
24
12
50

Nghiên cứu Y học

ống thông tiểu (được sử dụng là ống thông dùng
nuôi ăn kích thước 8Fr) đã bị cuộn do được đặt
quá sâu, đoạn ống thông trong bàng quang quá
dài có thể là điều kiện dễ làm ống cuộn ngược
trở ra niệu đạo khi bàng quang co bóp. Để tránh
biến chứng này, chúng tôi lưu ý đặt ống thông
vào sâu không quá 20 cm tính từ đỉnh quy đầu
và hạn chế cho bệnh nhi rặn tiểu bằng chế độ
dinh dưỡng kết hợp thuốc nhuận trường nhằm
tránh tình trạng táo bón sau mổ (Bảng 2).

Biến chứng
Rò niệu đạo (n - %) Hẹp miệng niệu đạo
15 (21,4)
12 (17,1)

2 (50)
0
4 (20)
0
3 (15)
3 (15)
1 (8,3)
0
12 (38,7)
4 (12,9)
3 (21,4)
1 (7,1)
12 (57,1)
0
5 (20,8)
2 (8,3)
1 (8,3)
2 (16,7)
9 (18)
0

Tỷ lệ biến chứng chung trong nghiên cứu
của chúng tôi là 38%. Tuy nhiên không ghi nhận
biến chứng nặng và đáng sợ nhất là hẹp niệu
đạo, 19 trường hợp có biến chứng hiện tại chỉ có
15 trường hợp phải mổ lần 2 (30%). Xét về khía
cạnh số lần phẫu thuật, có đến 70% trường hợp
không phải mổ lần 2.
Với kết quả bước đầu cho thấy Kỹ thuật
Koyanagi cải biên theo Hayashi mở ra cho bệnh

nhi có tật miệng niệu đạo đóng thấp thể nặng cơ
hội thành công với chỉ một lần phẫu thuật.
Trong trường hợp biến chứng thì phẫu thuật lần
2 để vá rò hoặc thậm chí tạo hình lại một đoạn
niệu đạo ngắn cũng nhẹ nhàng hơn phẫu thuật
tạo hình niệu đạo lần 2 trong phẫu thuật hai thì.

KẾT LUẬN
Kỹ thuật Koyanagi cải biên theo Hayashi có
thể trở thành một chọn lựa hiệu quả và an toàn

Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học

Hẹp niệu đạo Tụt miệng niệu đạo
6 (8,6)
0
0
0
0
0
0
0
0
0
1 (3,2)
6 (19,4)
0
1 (7,1)
0
9 (42,9)

1 (4,2)
2 (8,3)
0
1 (8,3)
0
10 (20)

cho phẫu thuật viên trong trường hợp phẫu
thuật một thì chỉnh sửa tật miệng niệu đạo đóng
thấp thể nặng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.

3.

4.

5.

6.

Arnaud A, Harper L, Aulagne MB, et al (2011). “Choosing a
technique for severe hypospadias”. Afr J Pediatr Surg, 8:286–290.
Catti M (2009). “Original Koyanagi uretheroplasty versus
modified Hayashi technique: Outcome in 57 patients”. J Pediatr
Urol, 5:300–306.
Emir H, Jayanthi VR, Nitahara K, et al (2000). “Modification of
Koyanagi technique for the single stage repair of proximal

hypospadias”. JUrol, 164:973–976.
Hayashi Y, Kojima Y, Mizuno K, et al (2007). “neo-modified
Koyanagi technique for the single stage repair of proximal
hypospadias”. The Journal of Pediatric Urology, 3:239 – 242.
Hayashi Y, Kojima Y, Mizuno K et al (2001). “The modified
Koyanagi repair for severe proximal hypospadias”. BJU
International, 87:235–238.
Jayanthi VR (2008). “The modified Koyanagi hypospadias
repair for the one-stage repair of proximal hypospadias”. Indian
journal Urology, 24:206–209.

203


Nghiên cứu Y học
7.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019

Kang L, Huang G, Zeng L (2016). “A new modification of the
Koyanagi technique for the one – stage repair of severe
hypospadias”. Jpediatr Urol, pp.175-179.
8. Lê Nguyễn Yên và cs (2018). “Kết quả bước đầu trong điều trị
miệng niệu đạo đóng thấp thể nặng bằng kỹ thuật Koyanagi cải
biên”. Y học TP Hồ Chí Minh, 22(1):408–412.
9. Mouriquand PDE, Rink RC (2012). “Hypospadias”. Pediatric
Urology, 2thedition, Chapter 41, pp.526–543.
10. Nerli R, Santhoshi P, Guntaka A, et al (2010). “Modified
Koyanagi’s procedure for proximal hypospadias: our
experience”. Int JUrol, 17:294 – 296.


204

11. de Mattos e Silva E, Gorduza DB, Catti M, et al (2009). “outcome
of severe hypospadias repair using three different techniques”.
JPediatr Urol, 5:205–211.
12. Snow B, Cartwright PC (2004). “The Yoke hypospadias repair”.
Hadidi.AZMY Hypospadias surgery, pp.203–208.

Ngày nhận bài báo:

01/04/2019

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

05/05/2019

Ngày bài báo được đăng:

10/06/2019

Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học



×