Đề tài: Nguyên nhân chính của việc phát triển và mở rộng thị trường khó khăn của
các doanh nghiệp fast food nước ngoài tại Việt Nam?
Cha đẻ của Marketing hiện đại, GS Phillip Kotler, khi đến Việt Nam đã đưa
ra một gợi ý cho slogan của Du lịch Việt Nam: “Việt Nam – Bếp ăn của thế giới”.
Đây là một ý tưởng xuất sắc. Tuy nhiên, ngoài việc tự hào về sự phong phú của ẩm
thực Việt, hay tự hào đồ ăn Việt là lành, là ngon, là v.v… thì hãy thực tế, chúng ta
cần phải những thương hiệu ẩm thực mạnh nếu thực sự muốn Việt Nam thành
“bếp ăn của thế giới”.
Cách thức để tạo thành thương hiệu ẩm thực mạnh? Câu trả lời là: xây dựng
chuỗi là con đường hiệu quả bậc nhất để có được những thương hiệu ẩm thực
mạnh. Trên thực tế, mô hình vận hành theo chuỗi là xu hướng từ lâu của thế giới
mà chúng ta tất yếu sẽ phát triển theo xu hướng đó.
Những thương hiệu ẩm thực quốc tế mạnh nhất đều ở dạng chuỗi. Chúng ta có
thể kể ra hàng loạt cái tên đình đám như chuỗi thương hiệu nhà hàng của Golden
Gate, Red Sun, Highland Coffee, Cộng, Urban Station, The Coffee House. Đó là chưa
kể đến những thương hiệu khác như Bánh mỳ Minh Nhật, The Kafe, Phở Ông
Hùng, Món Huế v.v…Và những thương hiệu ẩm thực đó đôi khi trở thành một đại
sứ giới thiệu văn hóa quốc gia một cách cực kỳ hiệu quả đến những quốc gia khác.
Chúng ta thấy được tinh thần Mỹ trong các quán McDonald’s hay Burger King.
Chúng ta cảm được văn hóa Hàn Quốc khi bước vào Lotteria hay BBQ Chicken.
Chúng ta nhớ về Thái Lan khi ăn đồ ăn ở Thai Express v.v…
Để kinh doanh phát triển được thượng hiệu, mở rộng thị trường thì doanh
nghiệp sẽ tốn nhiều công sức, tiền để có được một thương hiệu tầm cỡ, đủ sức
đứng trên thị trường và phủ sóng được nhiều nơi trên nước hoặc ngoài nước. Do
đó, để kinh doanh được thương hiệu lớn, được người tiêu dùng tin tưởng mà không
mất công sức, tiền của xây dựng thương hiệu thì nhiều doanh nghiệp chọn cách
nhượng quyền của các thương hiệu lớn trong ngành.
Theo đánh giá của các chuyên gia, tiềm năng của thị trường Việt Nam là rất lớn.
Mức thu nhập và thu nhập khả dụng ở Việt Nam đang tăng nhanh. Các chuỗi ăn
nhanh sẽ hướng tới tầng lớp người Việt Nam trung lưu, có thu nhập hộ gia đình
trong khoảng từ 500 1.000 USD mỗi tháng, và họ sẽ thành công.
Làn sóng nhượng quyền những thương hiệu ẩm thực quốc tế phát triển khá
rầm rộ trong vòng 10 năm trở lại đây. Đó là một mô hình tạo nên sức mạnh của
1
ngành công nghiệp fastfood trong suốt thế kỷ 20. Bản chất công cụ nhượng quyền
giúp giảm tải độ rủi ro hơn rất nhiều so với việc một công ty tự đứng ra xây dựng
quy trình và phát triển chuỗi với một thương hiệu hoàn toàn mới. Các công ty kinh
doanh fast food đã tích cực nhượng quyền để mở cửa hàng ở những vị trí đẹp. Rất
nhiều doanh nghiệp fast food có tên tuổi nước ngoài vào Việt Nam tham gia thị
trường ẩm thực như Burger King, KFC, McDonald’s của Mỹ, Lotteria của Hàn
Quốc, Jollibee của Philippines, và các chuỗi nhà hàng BBQ của Nhật, của Hàn
Quốc,... Tính đến nay, Lotteria và KFC đang sở hữu số lượng cửa hàng kinh doanh
fast food lớn nhất tại Việt Nam, với những vị trí đẹp và mở rộng nhiều nơi tại Việt
Nam.
Tuy nhiên, ngoài những thuận lợi thì việc mua nhượng quyền cũng có những rủi
ro đi kèm, cụ thể:
. Mức giá để mua nhượng quyền tại 1 quốc gia chắc chắn là không rẻ;
. Áp lực phải mở rộng đủ điểm bán theo đúng hợp đồng nhượng quyền (thường
thì bên mua nhượng quyền sẽ phải cam kết mở được bao nhiêu điểm trong thời
gian bao nhiêu tháng).
. Mức giá thuê nhà ở những vị trí đắc địa là khá cao.
. Thời gian thuê nhà không dài.
. Nhân sự ít khi coi phục vụ trong nhà hàng là 1 nghề nghiêm túc.
. Chi phí vận chuyển một số nguyên liệu thực phẩm từ công ty mẹ sang Việt
Nam rất cao dẫn đến mức giá của một số chuỗi fast food quốc tế tại Việt Nam quá
cao so với nhu cầu của người tiêu dùng.
. Thu nhập của người dân Việt Nam.
. Sở thích và văn hóa ẩm thực Việt Nam.
Thực tế, các chuỗi ăn nhanh chỉ rầm rộ một thời gian đầu sau đó dần dần chìm
hẳn. Không ít thương hiệu lớn đầu tư hàng tỷ đồng thuê mặt bằng tại các cửa hàng
trung tâm thành phố, sau một thời gian, đã âm thầm đóng cửa. Số lượng các cửa
hàng trong chuỗi ăn nhanh cũng giảm dần như Burger King, hoặc không phát triển
như kế hoạch như McDonald's…. McDonald's từng đặt mục tiêu 100 nhà hàng sau
10 năm vào Việt Nam, song họ mới chỉ có vài địa điểm ở Việt Nam.
Từ đó cho thấy việc doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh fast food tại Việt
Nam – được mệnh danh là “Việt Nam – Bếp ăn của thế giới” không phải dễ, có
một số nguyên nhân sau:
2
Mức giá để mua nhượng quyền tại 1 quốc gia chắc chắn là không rẻ: để
nhượng quyền kinh doanh một thương hiệu fast food có tên tuổi của nước ngoài (số
tiền sẽ phụ thuộc vào giá trị của thương hiệu), do đó, áp lực kinh doanh mở rộng
thị trường, thu hút người tiêu dùng, tăng thu nhập để bù đắp những khoản chi phí
đầu tư ban đầu rất lớn, trong khi văn hóa ẩm thực Việt Nam rất phong phú và đa
dạng.
. Sở thích và văn hóa ẩm thực Việt Nam: văn hóa ẩm thực tại Việt Nam rất
phong phú và đa đạng, người Việt không thích những món khô khan, ăn nhanh để
làm việc (sang trọng) là không phù hợp với người Việt. Người Việt Nam nếu là ăn
trong quán sang trọng thì phải có thời gian thưởng thức, thức ăn phải đa dạng không
phải những món khô khan ăn nhanh; giá cả chưa phù hợp lắm, thức ăn thiếu sự linh
hoạt cho phù hợp với người Việt. Nếu ăn nhanh để làm việc thì rất có nhiều sự lựa
chọn tại Việt Nam phù hợp với sở thích người Việt Nam.
Mức giá thuê nhà ở những vị trí đắc địa tại Thành phố Hồ Chí Minh và Thành
phố Hà Nội là khá cao cho những vị trí đẹp, phù hợp phong cách, quy chuẩn của các
thương hiệu đặt ra, làm tăng chi phí đầu tư cho doanh nghiệp; Thời gian thuê nhà
không dài, không tạo được sự ổn định trong kinh doanh, người chủ nhà có thể tăng
giá theo từng giai đoạn trong hợp đồng, do đó lại càng gây áp lực cho doanh nghiệp.
Áp lực phải mở rộng đủ điểm bán theo đúng hợp đồng nhượng quyền (thường
thì bên mua nhượng quyền sẽ phải cam kết mở được bao nhiêu điểm trong thời
gian bao nhiêu tháng). Tuy nhiên, việc kinh doanh fast food tại Việt Nam không
thuận lợi vì chưa thu hút được người tiêu dùng như đã nói ở trên, do đó, việc mở
rộng các điểm bán như thỏa thuận là gặp rất nhiều khó khăn.
Nhân sự ít khi coi phục vụ trong nhà hàng là 01 nghề nghiêm túc, việc tuyển
chọn phục vụ trong những cửa hàng fast food là những người trẻ, họ còn nhiều thời
gian để dễ dàng thay đổi nghề nghiệp, theo quan niệm của người Việt Nam việc
phục vụ trong nhà hàng không phải là mong muốn của họ, nó chỉ mang tính chất
tạm thời trong giai đoạn nào đó để phục vụ cho những mục đích lớn hơn (các bạn
sinh viên làm thêm để bớt phần nào trang trãi chi phí học tập, hoặc các bạn trong
thời gian chờ tìm được việc đúng sở thích, đúng chuyên môn….). Do đó, nhân viên
thường thay đổi, sẽ dẫn đến việc mất nhiều chi phí đào tạo, và việc thuần thục
trong phục vụ theo đúng cung cách phục vụ của thương hiệu.
Chi phí vận chuyển một số nguyên liệu thực phẩm từ công ty mẹ sang Việt
Nam rất cao dẫn đến mức giá của một số chuỗi fastfood quốc tế tại Việt Nam quá
cao so với nhu cầu của người tiêu dùng. Các thương hiệu điều muốn trong hệ
3
thống thì chất lượng của các sản phẩm như nhau, đồng nhất, do đó nguồn nguyên
liệu được công ty mẹ cung cấp cho cả hệ thống, nguyên liệu từ nước ngoài vào
Việt Nam thì chi phí tăng cao hơn, làm cho việc kinh doanh gặp nhiều khó khăn, vì
người Việt có nhiều sự lựa chọn.
Thu nhập của người dân Việt Nam chưa cao, đó cũng là một cản trở cho
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp fastfood.
Ngoài ra, sự ồ ạt của các nhà hàng Nhật, Hàn,... tăng thêm sự lựa chọn ẩm
thực của người Việt cũng tạo nên áp lực cho các cửa hàng ăn nhanh. Chi phí cao nên
các chuỗi cửa hàng này không thể tồn tại lâu dài nếu doanh thu không hiệu quả.
Tóm lại, có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự khó khăn trong việc phát triển mở
rộng thị trường fastfood của các doanh nghiệp nước ngoài nhưng nguyên nhân chính
là thực đơn của các chuỗi ăn nhanh nước ngoài chưa thật sự đáp ứng nhu cầu của
người Việt, trong khi hệ thống các chuỗi vẫn muốn giữ cái đặc trưng, cái đặc biệt
của thương hiệu, do đo nếu tồn tại và phát triển thì buộc các doanh nghiệp phải
linh động thay đổi thực đơn, khẩu vị để phù hợp văn hóa ẩm thực người Việt, từng
vùng miền. Các doanh nghiệp fast food lừng danh thế giới như Burger King,
McDonald's họ có tiềm lực tài chính, có hệ thống quản lý hàng đầu tuy nhiên vẫn
phải gặp khó khăn khi hoạt động tại Việt Nam, không phát triển như kế hoạch họ
đưa ra, do đó không thể nói là thiếu tiềm lực tài chính, hệ thống quản lý không tốt.
Các nhà quan sát cho rằng vấn đề ở đây có thể liên quan đến khẩu vị và thu nhập
của dân địa phương. Trước đây, khi các chuỗi cửa hàng fast food nước ngoài đến
Việt Nam, chưa nơi nào bán thêm cơm; nhưng, giờ cơm lại gần như trở thành món
chủ đạo đối với thực khách Việt Nam. Như vậy, có thể nói sản phẩm phù hợp thị
hiếu thói quen ẩm thực của người dân vẫn là yếu tố lõi, quan trọng bậc nhất tạo
nên sự thành công của một thương hiệu fastfood phát triển theo chuỗi điều mà một
số thương hiệu fastfood có tên tuổi trên thế giới không linh động để phù hợp với
người Việt, dẫn đến khó khăn trong việc phát triển mở rộng thị trường tại Việt
Nam.
4