Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Vai trò của doanh nghiệp du lịch đối với phát triển với di sản văn hóa trong chính sách phát triển du lịch bền vững tại thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (415.56 KB, 11 trang )

VAI TRÒ CỦA DOANH NGHIỆP
DU LỊCH ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN VỚI DI SẢN VĂN HÓA
TRONG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Tóm tắt:
Khía cạnh di sản văn hóa là một trong những nội dung quan trọng trong phát triển
du lịch bền vững. Thế nhưng hiện nay công tác khai thác, bảo tồn và tôn tạo các di tích
văn hóa lịch sử trong phát triển du lịch tại Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) chưa
được đảm bảo. Xét từ góc độ vai trò của doanh nghiệp du lịch đối với phát triển di sản
văn hoá trong du lịch, trong năm 2017, các doanh nghiệp du lịch chỉ đóng góp 17% kinh
phí tôn tạo di tích lịch sử văn hóa của TP.HCM. Xuất phát từ thực trạng trên, bài viết
này đã đưa ra một số giải pháp liên quan đến vai trò của doanh nghiệp kinh doanh du
lịch trong khai thác và tôn tạo di sản văn hóa.

Từ khóa: Di sản văn hóa, du lịch bền vững, Thành phố Hồ Chí Minh.

Mở đầu
Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh tuy là một thành phố trẻ, nhưng có
những giá trị di sản văn hóa hết sức độc đáo với đặc trưng kiến trúc - trang
trí thể hiện sự giao lưu văn hóa đậm nét. Để phát huy những giá trị này, một
vấn đề hết sức quan trọng trong việc khai thác di tích văn hóa vào hoạt động
du lịch là phải đi đôi với hoạt động bảo tồn, trùng tu. Thế nhưng, tại TP.HCM,
việc trùng tu và bảo tồn các di tích chưa thật sự hiệu quả. Trong thời gian
vừa qua, chỉ có khoảng hơn 20 di tích được trùng tu, tôn tạo.
Theo Trung tâm Bảo tồn và phát huy giá trị di tích TP.HCM, vừa qua TP.HCM
có hơn 20 di tích được trùng tu, tôn tạo, tu sửa cấp thiết bao gồm Mộ và đền thờ ông
Phan Công Hớn, Bảo tàng Mỹ thuật, đình Bình Hòa (mộ và đền thờ ông Phạm Văn
Chí), Hội quán Nhị Phủ, đình Nam Chơn, lăng Võ Di Nguy, Hội trường Thống Nhất,
đền thờ Hùng Vương (trong khuôn viên Thảo Cầm viên), đình Xuân Hòa, Hội ủng hộ
Vệ quốc đoàn, địa đạo Phú Thọ Hòa, Nhà truyền thống cách mạng người Hoa, Cột
cờ Thủ Ngữ, quán Nhan Hương, mộ và đền thờ Phan Chu Trinh, đình Tăng Phú,


1

đình Nhơn Hòa, đình Bình Quới Tây, đình Phú Nhuận, chùa Giác Viên .
1 Minh Anh, Trăn trở quản lý, khai thác di sản văn hóa, . vn/tran-tro-quan-ly-khaithac-di-san-van-hoa-472478.html, 2017.

1


Trong năm 2017, TP.HCM có hơn 20 di tích được trùng tu, tôn tạo, tu
sửa cấp thiết với tổng kinh phí đầu tư 95,9 tỷ đồng, trong đó nguồn ngân
sách nhà nước là 79,5 tỷ đồng (chiếm 82,9%), nguồn xã hội hóa 16,4 tỷ đồng
(17,1%)2. Với số liệu này, nguồn vốn ngân sách vẫn chiếm đa số trong việc
trùng tu, tôn tạo và tu sửa di tích lịch sử, văn hóa ở TP.HCM. Vốn xã hội hóa
chỉ chiếm 17.1%, và doanh nghiệp du lịch chỉ đóng góp một phần trong tỷ lệ
này.
Thực trạng này đặt ra câu hỏi, vậy vai trò giữa doanh nghiệp du lịch lữ
hành trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa xã hội tại TP.HCM
trong quá trình phát triển du lịch như thế nào? Để trả lời cho câu hỏi nghiên
cứu này, tác giả tiến hành xây dựng bảng câu hỏi dựa trên khung phân tích
của Hội đồng Tiêu chí phát triển Du lịch bền vững toàn cầu (2015) để khảo
sát về vai trò của doanh nghiệp du lịch đối với việc bảo tồn và phát huy các
giá trị di sản. Tác giả lựa chọn 20 doanh nghiệp du lịch theo phương pháp
phi xác xuất thuận tiện. Các thang đo trong bảng khảo sát được đo lường với
04 mức độ là Rất tốt, tốt, không tốt và rất không tốt.

1. Một số vấn đề lý thuyết về phát triển du lịch bền vững và
mối quan hệ giữa doanh nghiệp lữ hành đối với vấn đề di sản văn
hóa
1.1. Khái niệm phát triển du lịch bền vững
Du lịch bền vững là vấn đề được các nhà nghiên cứu về du lịch quan tâm với  

một số quan niệm khác nhau. 
Tác giả  Phạm Trung Lương (2014) tiếp cận du lịch bền vững từ ba góc độ: 
kinh tế, văn hóa, và môi trường. Về  kinh tế, du lịch bền vững là phải tạo ra thu  
nhập cho cộng đồng hướng đến nâng cao mức sống của cộng đồng địa phương  
nơi diễn ra du lịch. Về văn hóa là phải bảo tồn và tôn tạo các giá trị văn hóa, đảm 
bảo sự toàn vẹn của các giá trị này trong hoạt động du lịch. Về môi trường, du lịch  
bền vững phải gắn với bảo vệ môi trường trong hoạt động du lịch. 

2 Theo Báo cáo của Trung tâm Bảo tồn và phát huy giá trị di tích Thành phố Hồ Chí Minh, 2017.

2


Theo đó, phát triển du lịch bền vững là một hoạt động khai thác một cách có quản lí  
các giá trị tự nhiên và nhân văn nhằm thỏa mãn nhu cầu đa dạng của khách du lịch, có quan  
tâm đến lợi ích kinh tế dài hạn trong khi vẫn đảm bảo sự đóng góp cho bảo tồn và tôn tạo  
các nguồn tài nguyên, duy trì được sự  toàn vẹn văn hóa để  phát triển hoạt động du lịch  
trong tương lai; cho công tác bảo vệ môi trường và góp phần nâng cao mức sống của cộng  
đồng địa phương3.

Tương tự như vậy, Tổ chức Du lịch thế giới quan niệm:
Du lịch bền vững là việc phát triển các hoạt động du lịch nhằm đáp ứng các nhu cầu  
hiện tại của khách du lịch và người dân bản địa trong khi vẫn quan tâm đến việc bảo tồn  
và tôn tạo các nguồn tài nguyên cho việc phát triển hoạt động du lịch trong tương lai. Du  
lịch bền vững sẽ có kế hoạch quản lý các nguồn tài nguyên nhằm thỏa mãn các nhu cầu về 
kinh tế, xã hội, thẩm mỹ của con người trong khi đó vẫn duy trì được sự  toàn vẹn về  văn 
hóa, đa dạng sinh học, sự phát triển của các hệ  sinh thái và các hệ  thống hỗ  trợ  cho cuộc  
sống của con người4.

Cùng cách tiếp cận này, Edgell (2006, tr.15)  đưa ra khái niệm cụ  thể  hơn. 

Theo ông, phát triển du lịch bền vững là phải thân thiện với môi trường kể cả môi  
trường tự  nhiên và môi trường nhân tạo; không được  ảnh hưởng đến các giá trị 
văn hóa, ngôn ngữ, phong tục, tập quán và thậm chí là bối cảnh sống của con  
người; là phải bảo vệ  văn hóa, lịch sử, di sản và nghệ  thuật của cộng đồng địa 
phương. 
Từ  ba quan niệm trên về  phát triển du lịch bền vững có thể  thấy sự  tương  
đồng trong ba quan niệm đó. Đó là đều đề  cập đến 02 trụ cột quan trọng của du  
lịch bền vững là môi trường và văn hóa. Điểm khác biệt duy nhất trong hai khái  
niệm của Edgell và của Phạm Trung Lương là không đề  cập đến khái niệm kinh 
tế trong du lịch bền vững của mình.
Tóm lại, qua phân tích hai khái niệm về  du lịch bền vững  ở trên, tác giả  sử 
dụng khái niệm du lịch bền vững của Tổ chức Du lịch thế giới trong bài viết này. 

3 Phạm Trung Lương, Phát triển bền vững từ góc độ môi trường, tài liệu Nhân học du lịch, 2014.
4 Nguyễn Đình Hoè và Vũ Văn Hiến, Du lịch bền vững, Nxb Đại học Quốc, 2001.

3


1.2. Vấn đề bảo vệ di sản văn hóa trong phát triển du lịch bền vững
nhìn từ mối quan hệ của doanh nghiệp lữ hành
Một trong ba chân của phát triển du lịch bền vững là những giá trị về văn hóa  
và xã hội (Hai chân còn lại là vấn đề  môi trường và kinh tế  trong phát triển du  
lịch). Điều kiện về văn hóa và xã hội được hiểu là những giá trị văn hóa và xã hội 
được tích tụ  và  chắc lọc  trong quá trình phát triển của cộng đồng địa phương.  
Hoạt động du lịch không được “gây hại đến các cấu trúc xã hội hoặc văn hóa của  
cộng đồng nơi diễn ra hoạt động du lịch” (Nguyễn Mạnh Cường, 2017, tr.27). Du  
lịch không những góp phần giới thiệu giá trị  văn hóa và xã hội đến du khách mà 
còn phải tôn trọng văn hóa và truyền thống địa phương. Nội dung về  văn hóa xã 
hội trong phát triển du lịch bền vững được thể hiện ở Bảng sau: 

Bảng 1. Chỉ  số đánh giá yếu tố  văn hóa xã hội trong phát triển du lịch 
bền vững
STT
1

Chỉ số Doxsey

Tiêu chí

2

Sự xuất hiện các bệnh/dịch bệnh liên quan đến du lịch 

3

Tệ nạn xã hội liên quan đến du lịch 

4

Hiện trạng các di tích lịch sử, văn hóa của địa phương 

5

Số người ăn xin/tổng số dân cư của địa phương 

6

Tỷ lệ % mất giá đồng tiền vào mùa cao điểm du lịch 

7


Độ  thương mại hóa của các sinh hoạt văn hóa truyền thống (lễ  hội, ma  
(Nguồn:
Nguyễn
Mạnh Cường,
tr. 27)
chay, cưới hỏi, phong t
ục, t
ập quán,....) đ
ượ2015,
c xác đ
ịnh theo phương pháp 
Để đảm bảo được những nội dung về văn hóa xã hội trong Bảng 1 nói

trên, không thể không quan tâm đến vai trò của doanh nghiệp du lịch lữ
hành. Bởi lẽ đây là những chủ thể trực tiếp nhất tác động đến các giá trị văn
hóa xã hội trong quá trình khai thác các sản phẩm du lịch. Theo đó, vai trò
của doanh nghiệp kinh doanh du lịch lữ hành thể hiện ở 04 khía cạnh. Khía
cạnh thứ nhất là sự tuân thủ các hướng dẫn và quy định liên quan đến văn
hóa xã hội tại điểm đến du lịch. Khía cạnh thứ hai là vấn đề kinh doanh các
sản phầm đồ cổ và đồ giả cổ. Khía cạnh thứ ba là vấn đề đóng góp cho công
tác bảo tồn các giá trị di tích, lịch sử. Khía cạnh thứ tư là việc sử dụng các

4


yếu tố văn hóa xã hội trong quảng bá các sản phẩm du lịch của công ty. Bốn
khía cạnh này được xác định dựa trên bộ tiêu chí phát triển du lịch bền vững
toàn cầu phiên bản 2.0 của Hội đồng Tiêu chí phát triển Du lịch bền vững
toàn cầu. Có thể trình bày 04 khía cạnh vừa nêu ở Bảng 2 dưới đây.

Bảng 2. Các khía cạnh thể hiện vai trò của doanh nghiệp đối với vấn
đề văn hóa xã hội trong phát triển du lịch bền vững
STT
Nội dung
1 Doanh nghiệp tuân thủ các hươn
́ g dẫn hoặc quy định về hành vi
2

ứ
ngtạo
xử tác
khi khảo
tham cổ
quan
văn hóa
hayphép
lịch sử
nhạ
y cả
m,
Đồ
haycác
lịchđiể
sửm không
được
mua
bán
hay

3


trưng bày,
trừpkhi
luật
cho góp
phép.
Doanh
nghiệ
có được
trách pháp
nhiệm
đóng
cho công tác bảo tồn di

4

tích, tàinghiệ
sản quan
trị tố
lịcvề
h sử
, vănthuậ
hóa,
khảnotrúc
cổ, hoặ
và có
ý
Doanh
p sử trọ
dụng có

cácgiá
yếu
nghệ
t, kiế
c di
phát triển
lịch
vững
toàn cầu,
2015)
sản vă(Nguồn:
n hóaHội
địađồng
phưTiêu
ơngchítrong
hoạDu
t độ
ngbền
kinh
doanh,
thiế
t kế, trang
Bốn khía cạnh này đều nhấn mạnh đến những vấn đề quan trọng của

bảo tồn di sản văn hóa mà doanh nghiệp phải tuân theo. Phản ánh tương đối
đầy đủ từ ứng xử với các di sản văn hóa, mua bán và sử dụng các sản phẩm
mô phỏng và các yếu tố về nghệ thuật, kiến trúc thuộc về giá trị di tích văn
hóa đến việc đóng góp vào việc bảo tồn các giá trị di tích văn hóa này.

2. Khảo sát vai trò của doanh nghiệp du lịch trong bảo vệ di

sản văn hóa để phát triển du lịch bền vững của Thành phố Hồ Chí
Minh
Trong hoạt động du lịch, các di sản văn hóa thường là những điểm nhấn
của các tour du lịch. Việc khai thác những di sản văn hóa này cần phải làm
tăng lợi ích đối với chúng cũng như giảm thiểu những tác động tiêu cực để
bảo tồn các di sản này. Tình hình gia tăng lợi ích đối với các di sản văn hóa
và giảm thiểu những tác động tiêu cực đối với chúng thể hiện ở Bảng 3 như
sau:
Bảng 3. Kết quả khảo sát vai trò của doanh nghiệp du lịch lữ hành
trong bảo vệ di sản văn hóa
STT

5

Nội dung

Kết quả khảo sát (%)


Rất
tốt
1

Doanh nghiệp tuân thủ các

Tốt

Không
tốt


Rất
không

65.8

34.2

0

tốt
0

100

0

0

0

25.5

19.7

30.8

26

10


12

50

28

hướng dẫn hoặc quy định về
hành vi ứng xử khi tham quan
các điểm văn hóa hay lịch sử
nhạy cảm, nhằm giảm nhẹ các
tác động từ du khách và tăng sự
2

ưa thích của du khách.
Đồ tạo tác khảo cổ hay lịch sử
không được phép mua bán hay
trưng bày, trừ khi được luật
pháp quốc gia hoặc quốc tế cho

3

phép.
Doanh nghiệp có trách nhiệm
đóng góp cho công tác bảo tồn
di tích, tài sản quan trọng có giá
trị lịch sử, văn hóa, khảo cổ, và
có ý nghĩa về tinh thần, tuyệt đối
không cản trở việc đi lại của cư

4


dân địa phương.
Doanh nghiệp sử dụng các yếu
tố về nghệ thuật, kiến trúc hoặc
di sản văn hóa địa phương trong
hoạt động kinh doanh, thiết kế,
trang trí, ẩm thực, các quầy
hàng, đồng thời tôn trọng quyền
sở hữu trí tuệ của các cộng
đồng địa phương

(Nguồn: Khảo sát nhanh của tác giả)

Trong 4 tiêu chí trên, tiêu chí 1, 2 và 4 được doanh nghiệp được khảo
sát trả lời là thực hiện rất tốt. Tất cả các tiêu chí đều đạt 100% tốt và rất tốt.

6


Ở tiêu chí 1 “Doanh nghiệp tuân thủ các hướng dẫn hoặc quy định về
hành vi ứng xử khi tham quan các điểm văn hóa hay lịch sử nhạy cảm, nhằm
giảm nhẹ các tác động từ du khách và tăng sự ưa thích của du khách”, được
doanh nghiệp du lịch lữ hành đánh giá rất tốt. Trong quá trình đưa du khách
đến các điểm văn hóa và lịch sử nhạy cảm, các doanh nghiệp du lịch lữ hành
đều lưu ý rất kỹ với du khách những điều nên làm và không nên làm. Bởi nếu
không làm như vậy, doanh nghiệp sẽ khó có thể làm ăn tiếp được.
Ở tiêu chí thứ 2, “Đồ tạo tác khảo cổ hay lịch sử không được phép mua
bán hay trưng bày, trừ khi được luật pháp quốc gia hoặc quốc tế cho phép”,
doanh nghiệp trả lời rằng họ thực hiện rất tốt vấn đề này. Riêng tiêu chí 2
được doanh nghiệp đánh giá tốt. Có thể lý giải điều này bởi tiêu chí này

không liên quan gì đến doanh nghiệp trong hoạt động khai thác các điểm du
lịch. Việc buôn bán các sản phẩm, hàng hóa do các đơn vị kinh doanh khác
ở điểm đến thực hiện chứ các doanh nghiệp lữ hành không có liên quan.
Cho nên việc tuân thủ các điều kiện về kinh doanh thì chắc chắn là đạt 100%
rất tốt.
Ở tiêu chí thứ 3, “Doanh nghiệp có trách nhiệm đóng góp cho công tác
bảo tồn di tích, tài sản quan trọng có giá trị lịch sử, văn hóa, khảo cổ, và có ý
nghĩa về tinh thần, tuyệt đối không cản trở việc đi lại của cư dân địa phương”,
doanh nghiệp tự đánh giá là chưa thể hiện tốt trách nhiệm của họ. Hơn 50%
số doanh nghiệp được hỏi trả lời rằng họ thực hiện chưa tốt và rất chưa tốt
việc đóng góp vào quá trình bảo tồn di sản văn hóa. Nguyên nhân chủ yếu là
do họ chưa thấy được một cơ chế rõ ràng để thể hiện trách nhiệm của họ.
Ở tiêu chí thứ tư, kết quả nghiên cứu còn cho thấy các doanh nghiệp ra
sức tận dụng và khai thác triệt để những yếu tố về nghệ thuật, kiến trúc hoặc
di sản văn hóa địa phương trong hoạt động kinh doanh, thiết kế, trang trí, ẩm
thực, các quầy hàng, đồng thời tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ của các cộng
đồng địa phương. Nó là cách để các doanh nghiệp thu hút khách du lịch tốt
nhất. Còn vấn đề bản quyền thì trên thực tế các doanh nghiệp chưa được ai
nhắc đến bao giờ. Chỉ có 22% cho rằng việc sử dụng các yếu tố về nghệ

7


thuật, kiến trúc hoặc di sản văn hóa của địa phương có tính đến vấn đề bản
quyền, tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ của cộng đồng.

3. Giải pháp liên quan đến phát huy vai trò của doanh nghiệp
du lịch trong bảo vệ di sản văn hóa để phát triển du lịch bền vững
ở Thành phố Hồ Chí Minh
Bảo vệ di sản văn hóa là một trong hai trụ cột quan trọng của phát triển

du lịch bền vững. Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch cần phải thể
hiện vai trò của họ đối với vấn đề này, thế nhưng, trên thực tế vai trò của
doanh nghiệp chưa được thể hiện một cách rõ nét. Doanh nghiệp du lịch lữ
hành còn nặng về “quan hệ mua - bán” trong việc khai thác các giá trị di sản
văn hóa trong các tour du lịch. Họ trả tiền khi dẫn du khách đến tham quan là
những gì mà họ làm. Cho nên, cần phải có những biện pháp, cách thức phù
hợp để các doanh nghiệp thể hiện tốt hơn nữa vai trò của mình đối với việc
bảo tồn di sản văn hóa và môi trường trong hoạt động của họ. Theo đó, trong
thời gian tới, nhà nước cần tập trung vào ba giải pháp quan trọng dưới đây:
Trước hết, cần nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp du lịch lữ
hành về vai trò và giá trị của di sản văn hóa trong du lịch. Đây là một bước
rất quan trọng làm nền tảng phát huy hiệu quả của các giải pháp tiếp theo.
Một khi nhận thức của các doanh nghiệp được tăng lên, tốt hơn, định hướng
khai thác các sản phẩm này trong hoạt động du lịch của họ cũng phù hợp
hơn với định hướng bảo vệ, khai thác và tôn tạo di sản văn hóa xã hội của
điểm đến du lịch. Không những vậy, khi nhận thức tốt, các doanh nghiệp sẽ
tham gia tích cực, năng động và hiệu quả hơn trong công tác bảo tồn và phát
huy các di sản văn hóa xã hội. Để làm được điều này, nhà nước nên thường
xuyên tổ chức các chương trình hội thảo về di sản văn hóa xã hội trong du
lịch với sự tham gia của đông đảo doanh nghiệp lữ hành để họ hiểu hơn về
vấn đề này. Nhà nước còn có thể tổ chức ký kết các thỏa ước với lãnh đạo
các doanh nghiệp về khai thác, bảo tồn và phát triển di sản văn hóa. Với sự
xuất hiện của các thỏa ước này, các doanh nghiệp du lịch lữ hành sẽ nhìn
nhận lại mối quan hệ của họ, cũng như nâng cao nhận thức của họ hơn
trong khai thác các giá trị di sản văn hóa. Các thỏa ước này cần được phổ

8


biến rộng rãi tới các nhân viên đang làm việc để họ hiểu rõ hơn về nhiệm vụ

của họ cũng như về những quy định về di sản văn hóa được ghi nhận trong
thỏa ước.
Thứ hai, là xây dựng quỹ bảo vệ di sản văn hóa ở những nơi có du lịch.
Các doanh nghiệp có nhiệm vụ đóng góp quỹ này khi họ đến khai thác các
điểm đến. Quỹ này được dùng vào mục đích trùng tu, tôn tạo các di tích. Liên
quan đến vấn đề Quỹ, nhà nước, mà cụ thể là TP.HCM cần ban hành những
quy định liên quan đến quản lý và sử dụng quỹ một cách công khai, minh
bạch và đặc thù. Theo đó, trước hết, TP.HCM cần làm việc với các doanh
nghiệp du lịch lữ hành để thảo luận về mức độ đóng góp quỹ này từ phía nhà
nước và từ phía các doanh nghiệp. Sau khi đã thống nhất mức đóng góp.
Lãnh đạo Thành phố chủ trì thành lập quỹ với quy chế hoạt động rõ ràng, cụ
thể và đúng quy định của pháp luật về quản lý quỹ. Hàng năm, nhà nước cần
công khai minh bạch tới các doanh nghiệp du lịch lữ hành về quỹ. Công khai
minh bạch quỹ là cách thức để đảm bảo rằng quỹ sử dụng phù hợp, đúng
mục đích và hiệu quả. Không những vậy, cần khẳng định quyền kiểm soát
quỹ của doanh nghiệp du lịch lữ hành để họ có thể tham gia và thực hiện
quyền kiểm soát quỹ của họ. Quy định này còn giúp cho doanh nghiệp tin
tưởng hơn vào quá trình quản lý quỹ của nhà nước, từ đó thực hiện trách
nhiệm đóng góp tích cực và hiệu quả hơn.
Thứ ba, xây dựng và ban hành hàng loạt bộ tiêu chí du lịch bền vững
cho nhà hàng, khách sạn, các công ty du lịch, lữ hành, v.v. Bộ tiêu chí du lịch
bền vững có vai trò và ý nghĩa quan trọng đối với phát triển du lịch bền vững.
Nó đóng vai trò như một tiêu chuẩn để đánh giá và cả vai trò định hướng và
dẫn dắt phát triển du lịch bền vững. Bộ tiêu chí du lịch bền vững cần bao
gồm những tiêu chí mà doanh nghiệp du lịch lữ hành phải hướng tới và tuân
theo. Trong những tiêu chí du lịch bền vững này cần đưa ra một cách chi tiết
những quy chuẩn về bảo vệ và tôn trọng di sản văn hóa. Những tiêu chuẩn
này là căn cứ để xếp hạng và cũng là căn cứ để kiểm tra hoạt động của các
doanh nghiệp có liên quan đến hoạt động kinh doanh và khai thác du lịch.


9


Sau khi bộ  tiêu chí du lịch bền vững được ban hành, nhà nước cần tổ  chức  
phổ  biến các bộ  tiêu chí này đến các đơn vị  có liên quan trong đó có các doanh  
nghiệp du lịch lữ hành để họ nắm rõ và thực hiện. Quan trọng hơn, nhà nước cần 
làm sao cho các bộ  tiêu chí về  du lịch bền vững này trở  thành “tài liệu gối đầu  
giường” của các doanh nghiệp du lịch lữ hành. Tài liệu này không những là căn cứ 
để kiểm tra doanh nghiệp mà còn là tài liệu để các doanh nghiệp tập huấn và xây  
dựng các chiến lược hành động phù hợp với phát triển du lịch bền vững.

Kết luận
Doanh nghiệp du lịch lữ hành là chủ thể quan trọng trong khai thác các điểm 
đến du lịch. Thế nhưng chính doanh nghiệp du lịch lữ hành lại là đối tượng chưa  
hiểu rõ, đầy đủ  và thể  hiện đúng mối quan hệ của họ đối với vấn đề  di sản văn  
hóa xã hội trong khai thác du lịch. Từ phía nhà nước, hoàn toàn chưa có những quy 
định bài bản và cụ thể, rõ ràng về mối quan hệ của doanh nghiệp du lịch lữ hành 
trong việc tôn tạo, trùng tu và bảo tồn các di sản văn hóa. Trong thời gian tới cần  
thực hiện nhiều biện pháp để  doanh nghiệp du lịch lữ hành thể hiện tốt hơn nữa  
vai trò của họ trong vấn đề khai thác, tôn tạo và bảo tồn các giá trị di tích lịch sử 
văn hóa. 
Tài liệu tham khảo
1. Minh Anh, Trăn trở quản lý, khai thác di sản văn hóa,
.

vn/tran-tro-quan-ly-khai-thac-di-san-van-hoa-

472478.html, 2017.
2. Nguyễn Mạnh Cường, Vai trò của chính quyền địa phương cấp tỉnh
trong phát triển du lịch bền vững tỉnh Ninh Bình, Luận án tiến sĩ kinh tế,

Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân, 2015.
3. Nguyễn Thị Hậu, Bản sắc văn hóa của đô thị Sài Gòn – TP. Hồ Chí
Minh, 2015.
4. Edgell, David L, Managing Sustainable Tourism: A Legacy for the
Future, New York: Haworth Press, 2006.
5. GSCT Council (Hội đồng Tiêu chuẩn du lịch bền vững toàn cầu), Đề

10


xuất phiên bản 2.0 về Tiêu chuẩn du lịch bền vững toàn cầu,
council. org/wp.../Vietnamese-GSTC-H-TOv2.pdf, 2015.
6. Nguyễn Đình Hoè và Vũ Văn Hiến, Du lịch bền vững, Nxb Đại học
Quốc, 2001.
7. Phạm Trung Lương, Phát triển bền vững từ góc độ môi trường, tài liệu
Nhân học du lịch, 2014.

11



×