Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu biến đổi sử dụng đất phục vụ phát triển sinh kế bền vững khu vực xã Tản Lĩnh, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.6 MB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­

Nguyễn Hoàng Hoa

NGHIÊN CỨU BIẾN ĐỔI SỬ DỤNG ĐẤT PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN 
SINH KẾ BỀN VỮNG KHU VỰC XàTẢN LĨNH, HUYỆN BA VÌ, 
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Hà Nội – Năm 2012

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­

Nguyễn Hoàng Hoa

NGHIÊN CỨU BIẾN ĐỔI SỬ DỤNG ĐẤT PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN 
SINH KẾ BỀN VỮNG KHU VỰC XàTẢN LĨNH, HUYỆN BA VÌ, 
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Sử dụng và Bảo vệ Tài nguyên Môi trường
Mã số: 60 85 15

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC



                                                          NG ƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA 
HỌC: 
                                                          PGS. TS. PH ẠM VĂN CỰ

2


Hà Nội – Năm 2012
LỜI CẢM ƠN!
Trong quá trình học tập tại khoa Địa lý ­ trường Đại học Khoa học Tự 
nhiên  –  Đại học   Quốc  gia  Hà  Nội  và  và  nghiên cứu tại Trung tâm Quốc  tế 
Nghiên cứu Biến đổi Toàn cầu (ICARGC) – Đại học Quốc gia Hà Nội trong dự 
án DANIDA. Ngoài sự cố gắng của bản thân, em đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt  
tình, chu đáo của các thầy, các cô, các cán bộ trong khoa, cũng như từ các cán bộ, 
nhân viên trong Trung tâm.
Em xin chân thành cảm  ơn các thầy, các cô, đặc biệt em xin gửi lời cảm  
ơn sâu sắc tới thầy giáo PGS.TS. Phạm Văn Cự đã tận tình hướng dẫn em trong 
suốt thời gian học tập, cũng như thời gian làm luận văn. Em cũng xin gửi lời cảm  
ơn tới các cán bộ trong Trung tâm ICARGC, tới dự án DANIDA đã cung cấp, hỗ 
trợ dữ liệu và tạo điều kiện thuận lợi để em hoàn thành tốt luận văn của mình. 
Cuối cùng em rất mong tiếp tục nhận được những nhận xét, góp ý của các 
thầy, các cô để luận văn được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Học viên thực hiện
Nguyễn Hoàng Hoa

3



4


Mục lục

5


Danh mục các hình vẽ, đồ thị
Hình 1.1. Khung sinh kế bền vững
Hình 2.1. Bản đồ hành chính xã Tản Lĩnh
Hình 2.2. Bản đồ hiện trạng sử dụng đất xã Tản Lĩnh năm 1993
Hình 2.3. Bản đồ hiện trạng sử dụng đất xã Tản Lĩnh năm 2005
Hình 2.4. Bản đồ hiện trạng sử dụng đất xã Tản Lĩnh năm 2010
Hình 2.5. Bản đồ biến động sử dụng đất xã Tản Lĩnh giai đoạn 1993 – 2005
Hình 2.6. Bản đồ biến động sử dụng đất xã Tản Lĩnh giai đoạn 2005 ­ 2010
Hình 3.1. Biểu đồ thống kê số hộ tham gia các loại hình sinh kế năm 2005 và 

19
28
38
39
40
45
46
52

2011 theo tỷ lệ %
Hình 3.2. Biểu đồ thống kê số hộ có nguồn thu nhập từ các loại hình sinh kế  53
năm 2005 và 2011 theo tỷ lệ %

Hình 3.3. Đồ thị Scree plot
58
Hình 3.4.   Đồ   thị  giá   trị   các   biến trong  ma   trận thành  phần  sau  khi quay   60
Varimax
Hình 3.5. Đồ thị biểu diễn sự phân bố các giá trị nhân tố
62
Hình 3.6. Bản đồ giá trị nhân tố của thành phần chính “Sinh kế nông nghiệp   6
mới”
4
Hình 3.7. Bản đồ giá trị nhân tố của thành phần chính “Sinh kế nông nghiệp  65
truyền thống”

Danh mục các bảng biểu
Bảng 2.1.Cơ cấu kinh tế các ngành của xã Tản Lĩnh
Bảng 2.2. Bảng mô tả dữ liệu ảnh Landsat
Bảng 2.3. Diện tích và cơ cấu các loại đất  xã Tản Lĩnh năm 1993
Bảng 2.4. Diện tích và cơ cấu các loại đất  xã Tản Lĩnh năm 2005
Bảng 2.5. Diện tích và cơ cấu các loại đất  xã Tản Lĩnh năm 2010
Bảng 2.6. Bảng biến động diện tích các loại hình sử dụng đất 1993­2010
Bảng 3.1. Bảng mô tả định tính các biến

6

34
36
37
37
41
43
54



Bảng 3.2. Bảng mô tả định lượng các biến
Bảng 3.3. Ma trận tương quan giữa các biến
Bảng 3.4. Kết quả kiểm tra KMO và Bartlett
Bảng 3.5. Tính cộng đồng (Communalities) của các biến
Bảng 3.6. Giải thích phương sai tổng thể (Total Variance Explained)
Bảng 3.7. Ma trận thành phần
Bảng 3.8. Bảng kết quả giá trị nhân tố của từng trường hợp trong PCA

Danh mục các ký hiệu và chữ viết tắt
PCA Principal Component Analysis – Phân tích trục thành phần chính
GIS
Geographic Information System – Hệ thông tin địa lý
KMO  Thống kê Kaiser­Meyer­Olkin

7

55
56
56
57
58
59
63


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ xưa tới nay, cuộc sống con người luôn gắn liền với đất đai. Việc khai 

thác sử dụng đất đai không chỉ  đem lại nơi ở, thức ăn cho con người mà còn rất  
nhiều nguồn lợi quý giá khác. Tuy nhiên, một thực tế có thể dễ dàng nhận thấy 
là diện tích đất đai có thể sử dụng thường không đổi, thậm chí có xu hướng suy  
giảm, trong khi đó, dân số  lại không ngừng tăng lên, hay nói cách khác là càng 
ngày càng thiếu đất đai để phục vụ cho những nhu cầu thiết yếu của con người.  
Thực tế này bắt buộc con người phải tìm ra những chính sách, biện pháp thay đổi 
sinh kế sao cho vừa duy trì và nâng cao cuộc sống, đồng thời vừa đảm bảo được  
nguồn tài nguyên đất đai.

8


Tại Việt Nam, một nước có nền sản xuất nông nghiệp chiếm ưu thế, câu 
nói “Tấc đất, tấc vàng” vốn không còn xa lạ  với mỗi người dân. Đất đai cũng  
chính là yếu tố khởi đầu trong trong sản xuất nông nghiệp nói riêng và công cuộc  
Đổi mới nói chung – một cuộc cải cách kinh tế xã hội có ý nghĩa quan trọng nhất 
đối với Việt Nam từ  lúc thành lập tới nay. Với những chính sách cải cách do 
chính phủ đề ra qua từng thời kỳ, quá trình sử dụng đất đai của người dân cũng  
dần dần thay đổi cùng với sự  biến đổi về  sinh kế. Cũng nằm trong xu hướng  
phát triển đó, xã Tản Lĩnh, huyện Ba Vì, thành phố  Hà Nội, đã và đang diễn ra  
những sự  thay đổi trong sử  dụng đất và sinh kế  của người dân, đặc biệt từ  sau 
khi Luật đất đai 1993 và Luật đất đai mới năm 2003 ra đời. Cụ  thể, khác với  
trước đây, bên cạnh loại hình sử dụng đất chủ yếu là trồng lúa, hoa màu; nơi đây  
đã xuất hiện thêm loại hình mới là trồng cỏ  (phục vụ  nuôi bò sữa), và sinh kế 
của người dân cũng phát triển thêm rất nhiều phương thức mới như nuôi bò sữa  
hay thu mua sản phẩm sữa.
Tuy nhiên, những nghiên cứu về những sự thay đổi nói trên tại Việt Nam  
nói chung và xã Tản Lĩnh nói riêng chỉ  diễn ra tách biệt trong từng vấn đề  sử 
dụng đất hoặc sinh kế  mà ít có sự  quan tâm tới mối quan hệ  giữa chúng. Điều  
này dẫn đến những kết quả đánh giá thiếu chính xác, ảnh hưởng tới việc đưa ra 

những chiến lược sinh kế phù hợp, bền vững cả về lợi ích kinh tế xã hội và tài  
nguyên thiên nhiên.
Nhằm góp phần giải quyết vấn đề này, trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ,  
học viên đã lựa chọn đề  tài: “Nghiên cứu biến đổi sử  dụng đất phục vụ  phát  
triển sinh kế bền vững khu vực xã Tản Lĩnh, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội”.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
­ Mục tiêu: Đánh giá mối quan hệ giữa biến đổi sử dụng đất nông nghiệp  
và sinh kế của người dân tại xã Tản Lĩnh, huyện Ba Vì, Hà Nội, nhằm góp phần 
phục vụ phát triển sinh kế bền vững tại đây.
­ Nhiệm vụ nghiên cứu:

9


o Phân tích  sự  biến động sử  dụng đất tại khu vực nghiên cứu giai  
đoạn 1993 ­ 2010 tại xã Tản Lĩnh, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.
o Xác định mối quan hệ  giữa biến đổi sử  dụng đất nông nghiệp và 
sinh kế của người dân tại xã Tản Lĩnh.
o Đánh giá về  các loại hình sinh kế  liên quan tới sử  dụng đất nông 
nghiệp tại xã Tản Lĩnh
3. Phạm vi nghiên cứu
­ Phạm vi không gian:
Đề  tài nghiên cứu được thực hiện tại xã Tản Lĩnh, huyện Ba Vì,   thành 
phố Hà Nội.
­ Phạm vi khoa học:
+ Đánh giá biến động sử dụng đất tại xã Tản Lĩnh, huyện Ba Vì, Hà Nội  
giai đoạn từ 1993 đến 2010.
+ Phân tích mối quan hệ  giữa sử  dụng đất nông nghiệp và sinh kế  của  
người dân xã Tản Lĩnh nhằm đưa ra đánh giá về hướng phát triển sinh kế.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

­ Ý nghĩa khoa học: Xác định mối quan hệ giữa biến đổi sử dụng đất nông  
nghiệp và sinh kế để từ đó đưa ra những đánh giá phù hợp về phát triển sinh kế 
của người dân.
­ Ý nghĩa thực tiễn: Sử dụng phương pháp phân tích thành phần chính kết  
hợp với không gian hóa dữ  liệu điều tra nông hộ để thể hiện mối quan hệ giữa  
sử  dụng đất nông nghiệp và sinh kế, nhằm phục vụ đánh giá phương thức sinh  
kế gắn với hoạt động nông nghiệp của người dân tại xã Tản Lĩnh, huyện Ba Vì,  
Hà Nội.
5. Cơ sở dữ liệu và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở dữ liệu
­ Kết quả điều tra 198 hộ  gia đình trên toàn bộ  13 thôn của xã Tản Lĩnh, 
huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội thuộc dự án “Tác động của biến đổi khí hậu đến  

10


biến đổi sử  dụng đất và thay đổi sinh kế  cộng đồng  ở  đồng bằng sông Hồng”  
(DANIDA) của Trung tâm quốc tế nghiên cứu biến đổi toàn cầu, Đại học Quốc 
gia Hà Nội.
­ Số liệu thống kê kinh tế xã hội xã Tản Lĩnh năm 2008 và 2009.
­ Ảnh vệ tinh Landsat các năm 1993, 2005, và 2010 tại khu vực nghiên cứu.
­ Bản đồ nền xã Tản Lĩnh năm 2005
Phương pháp nghiên cứu
­  Phương pháp 1: Phương pháp điều tra nhanh nông thôn có sự  tham  
gia của người dân
Phương  pháp  điều  tra   nhanh  nông  thôn  có   sự   tham  gia   của   người   dân 
(Participatory Rural appraisal – PRA), sau đây sẽ gọi tắt là phương pháp PRA, là 
một phương pháp hệ thống bán chính quy được tiến hành ở một địa điểm cụ thể 
bởi một nhóm liên ngành và được thiết kế để thu thập được những thông tin cần 
thiết và những giả thuyết cho sự phát triển nông thôn. Mục tiêu của phương pháp  

này là xã hội có thể  chấp nhận, có hiệu quả  kinh tế, và hệ  sinh thái phát triển  
bền   vững.   PRA   giả   định   rằng   sự   tham   gia   tích   cực   của   các   cộng   đồng   địa 
phương vào suốt các tiến trình của các chương trình/ đề  án phát triển nông thôn  
là yếu tố quyết định sự thành công. Các đặc điểm của PRA bao gồm: sự bỏ qua  
tối  ưu (tránh những chi tiết và độ  chính xác không cần thiết cũng như  việc thu 
thập quá nhiều số liệu không thật sự cần cho mục đích của PRA), tính đa dạng  
của phân tích hay tam giác (tam giác được xây dựng trong mối liên hệ với cơ cấu  
nhóm công tác, các nguồn thông tin về con người, địa điểm… và phối hợp các kỹ 
thuật), nhóm liên ngành, tính phối hợp các kỹ  thuật, tính linh hoạt và không bắt  
buộc, sự tham gia của cộng đồng, và cân bằng định kiến [23].
Các kỹ thuật đánh giá nhanh nông thôn với sự tham gia của người dân có 
thể  được lựa chọn và áp dụng để  phù hợp với các giai đoạn khác nhau hoặc là  
của khuyến nông, nghiên cứu hay các chương trình phát triển chung, từ giai đoạn  
đánh giá những nhu cầu ban đầu, đến theo dõi đánh giá và cuối cùng là giai đoạn 

11


áp dụng thực hiện của bất kỳ một đề án nào. Cụ thể, trong đề tài này, PRA được  
sử dụng trong giai đoạn đầu của dự án “Tác động của biến đổi khí hậu đến biến  
đổi   sử   dụng   đất   và   thay   đổi   sinh   kế   cộng   đồng   ở   đồng   bằng   sông   Hồng” 
(DANIDA) của Trung tâm quốc tế nghiên cứu biến đổi toàn cầu, Đại học Quốc 
gia Hà Nội. Trong đó, trình tự tiến hành theo các bước chính: 
­

Chọn   điểm   và   thông   qua   các   thủ   tục,   cho   phép   của   chính   quyền   địa  
phương

­


Tiền trạm điểm để khảo sát

­

Điều tra chọn mẫu để thu thập thông tin: không gian, thời gian (giai đoạn 
2005 – 2011), đặc điểm kinh tế ­ xã hội.

­

Tổng hợp số  liệu và phân tích các vấn đề  phục vụ  cho mục tiêu nghiên 
cứu.
Trong đó, trong giai đoạn điều tra chọn mẫu, riêng tại xã Tản Lĩnh, số hộ 

mẫu được lựa chọn tại 13 thôn trung bình là 15 hộ/thôn với tổng số  là 198 hộ,  
dựa trên danh sách cử  tri bầu cử  hội đồng nhân dân cấp xã năm 2011 và theo  
phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên.
­ Phương pháp 2: Phương pháp khảo sát thực địa
Việc khảo sát thực địa được thực hiện vào tháng 4/2011 và tháng 9/2012 
nhằm mục đích kiểm chứng các mẫu giải đoán, kiểm tra độ  chính xác của các  
yếu tố  địa lý của khu vực, độ  chính xác của các ranh giới sử dụng đất, bổ  sung 
các yếu tố địa vật đặc trưng hay các yếu tố kinh tế ­ văn hóa ­ xã hội mà không  
thể đoán nhận được ở trong phòng. Tuyến thực địa được thực hiện dọc theo trục  
đường giao thông chính xuyên qua xã Tản Lĩnh. Việc cập nhật hiện trạng và 
biến động sử dụng đất năm 1993, 2005 và 2010 được kết hợp giữa khảo sát thực  
địa, đo GPS xác định điểm và ranh giới khu vực và lấy thông tin từ cán bộ, người  
dân địa phương. Dựa vào kết quả  đo vẽ  ngoài thực địa và bản đồ  nền xã Tản 
Lĩnh

 


năm

 

2005,

 

12

bản

 

đồ

 

hiện


trạng sử dụng đất các năm 1993, 2005 và 2010 được đối chiếu, kiểm tra độ chính  
xác và hiệu chỉnh thành bản đồ hoàn chỉnh.
­ Phương pháp 3: Phương pháp viễn thám và GIS
Với dữ liệu là ảnh vệ tinh độ phân giải trung bình Landsat, quá trình phân 
loại  ảnh dựa theo phương pháp phân loại có giám sát (supervised classification)  
với thuật toán phân loại hợp lý tối đa (Maximum Likelihood) sử dụng phần mềm 
Envi 4.7. Phân loại theo phương pháp này coi số liệu thống kê của mỗi lớp trong  
mỗi kênh ảnh được phân tán một cách thông thường và phương pháp này có tính 
đến khả  năng một pixel thuộc một lớp nhất  định. Nếu như  không chọn một  

ngưỡng xác suất thì sẽ  phải phân loại tất cả  các pixel. Mỗi pixel được gán cho  
một lớp có độ  xác suất cao nhất (maximum likelihood). Phương pháp này cho 
rằng các band phổ  có sự  phân bố  chuẩn và các pixel sẽ  được phân loại vào lớp  
mà nó có xác suất cao nhất. Việc tính toán không chỉ dựa vào giá trị khoảng cách 
mà còn dựa vào cả xu thế biến thiên độ  xám trong mỗi lớp. Đây là một phương  
pháp phân loại khá chính xác nhưng đòi hỏi nhiều thời gian tính toán và phụ 
thuộc vào sự phân bố chuẩn của dữ liệu.
Việc giải đoán ảnh dựa trên hai nhóm chính là các yếu tố ảnh và các yếu 
tố địa kỹ thuật:
­   Các   yếu   tố   ảnh   (photo   elements):   gồm   t ôn   ảnh (tone),   hoa   văn 
ảnh( texture), kiểu mẫu ( Pattern), hình dạng (Shape); kích thước (Size); bóng 
râm( Shadow); vị trí (Site); màu (Colour). 
Trong đó, tôn ảnh là dấu hiệu quan trọng để xác định đối tượng. Sự khác 
biệt của tôn ảnh phụ thuộc vào nhiều tính chất khác nhau của đối tượng. Những  
khu vực ngập nước như hồ, biển, sông phản xạ ánh sáng rất yếu, nên sẽ có màu  
đen trên  ảnh. Những nơi canh tác nông nghiệp như  ruộng lúa nước có màu xám 
trên ảnh. Tôn ảnh chỉ thị đặc điểm về thành phần vật chất và độ ẩm của đất đá. 
Cách phân loại tôn  ảnh mang tính chất tương đối, nên chỉ  có thể  so sánh đối 
chiếu tôn  ảnh của một loạt  ảnh chụp trong cùng một điều kiện. Nói chung tôn 

13


ảnh

 

sáng

 




 

liên

 

quan

 

với

 

các

 

vùng

đất đá hạt thôi, thoát nước tốt. Tôn  ảnh sẫm liên quan tới các vùng đất đá hạt 
mịn, thoát nước kém. 
Ngoài ra, màu của đối tượng trên ảnh màu giả (FCC) cũng là yếu tố quan 
trọng, giúp cho người  giải đoán có thể  phân biệt nhiều đối tượng có đặc điểm  
tôn ảnh tương tự như nhau trên ảnh đen trắng. Tổ hợp màu giả thông dụng trong 
ảnh Landsat là xanh lơ  (blue), xanh lục (green) và đỏ  (red) thể  hiện các nhóm  
yếu tố  cơ  bản là: thực vật từ  màu hồng đến màu đỏ, nước xanh lơ  nhạt đến  

xanh lơ  xẫm; đất trống, đá lộ  có màu trắng. Ngoài ra, một số  đối tượng khác  
cũng có màu đặc biệt: đô thị màu xanh lơ, đất trồng màu có cây vụ đông các loại 
màu hồng đến màu vàng. Ngoài 3 tổ  hợp màu giả  đã nêu trên, rất nhiều tổ  hợp 
màu giả khác có thể tạo ra bằng phương pháp quang học ( dùng các tấm lọc màu) 
hoặc bằng kỹ thuật xử lý ảnh số để phục vụ cho giải đoán ảnh.
­   Các yếu tố  địa kỹ  thuật ( Geotechnical elements): gồm địa hình, thực  
vật, hiện trạng sử dụng đất, mạng lưới sông suối, hệ  thống các khe nứt lớn và  
các yếu tố dạng tuyến, và sự tổ hợp các yếu tố giải đoán. Trong đó, địa hình cho  
phép phân biệt sơ bộ các yếu tố trên ảnh, từ đó định hướng rất rõ trong phân tích. 
Sự  phân bố  của một kiểu thảm thực vật và đặc điểm của nó (mật độ  tán che,  
sinh khối ) là một dấu hiệu quan trọng để  phân biệt đối tượng. Hiện trạng sử 
dụng đất cung cấp những thông tin quan trọng để xác định các đối tượng (Ví dụ:  
lúa một vụ­ vùng bồi cao, lúa hai vụ ­ vùng thấp thường xuyên vừa đủ  nước­ đó 
là các đồng bằng phù sa). Mạng lưới sông suối có quan hệ rất mật thiết với dạng  
cấu hình, độ dốc, lớp vỏ  phong hóa, nền thạch học, đồng thời nó cũng cho biết 
đặc điểm cấu trúc địa chất của khu vực. Những thông số  của hệ  thống khe nứt  
cần được xem xét đến là hướng, mật độ, hình dạng, độ  lớn, giúp xác định và  
phân biệt rất nhiều đối tượng, đồng thời cũng là thông số để đánh giá đối tượng.  
Ngoài ra, trong quá trình giải đoán, bên cạnh việc phân tích các yếu tố  riêng lẻ 
còn xem xét đến sự tập hợp trong không gian của từng nhóm yếu tố. Sự tập hợp 

14


đó có thể tạo nên một dạng hay một kiểu địa hình, từ đó giúp người giải đoán có  
thể hiệu chỉnh, loại bỏ những sai sót và nâng cao  độ chính xác.
Trình tự phân loại ảnh gồm các bước sau:
Bước 1: Xác định số loại thông tin cần phân chia trong khu vực, các loại  
cần được định nghĩa rõ ràng về mặt chỉ tiêu, các chỉ tiêu này cần được lựa chọn  
có tính đến đặc thù của dữ  liệu  ảnh vệ  tinh ( thời gian thu nhận  ảnh, độ  phân  

giải không gian, phổ…)
Bước 2: Tuyển chọn các đặc trưng bao gồm các đặc trưng về phổ của đối 
tượng (ảnh đa phổ), biến động về thời gian (ảnh đa thời gian) hoặc cấu trúc cụ 
thể  của đối tượng nhằm thiết lập tiêu chuẩn cho phép phân biệt giữa các loại 
quan tâm (xử lý riêng rẽ hoặc phối hợp với nhau ).
Bước 3: Chọn vùng mẫu trên  ảnh bao gồm dữ  liệu tương  ứng với vùng 
mẫu được khảo sát thực địa hoặc từ những dữ liệu cần thiết được lựa chọn dựa 
trên bước 1 và bước 2. Các số  liệu được lấy trên cơ  sở  vùng mẫu có ý nghĩa  
quyết định trong việc thành lập các chỉ tiêu và luật quyết định trong phân loại, từ 
đó chọn thuật toán thích hợp là thuật toán hợp lý tối đa của phương pháp có giám 
định, còn gọi là phân loại giám sát.
Bước 4: Ước tính thống kê vùng mẫu nhằm xác định các giá trị tương ứng 
với loại phổ  trong không gian đặc trưng của đối tượng quan tâm, từ  đó áp dụng 
nhiều phương pháp phân loại khác nhau  ứng với vùng mẫu và so sánh kết quả 
đạt được nhằm tìm thuật toán tối ưu cho cho kết quả phân loại.
Bước 5: Thực hiện phân loại, các pixel sẽ được phân tuần tự vào các loại 
tương ứng đã xác định. 
Bước 6: Ảnh sau khi phân loại được làm trơn bởi các thuật toán lọc, đây là 
giai đoạn hậu xử lý sau khi phân loại.                                                        
Bước 7: Kiểm tra phân loại để  đánh giá độ  chính xác và mức độ  tin cậy  
của  ảnh sau khi phân loại. Kết quả  phân loại được kiểm tra bằng cách so sánh 

15


ảnh phân loại với dữ  liệu tham khảo đã có (bản đồ  nền xã Tản Lĩnh năm 2005  
và dữ liệu đo GPS ngoài thực địa).        
Bản đồ  hiện trạng sử  dụng đất xã Tản Lĩnh năm 1993, 2005 và 2010 sẽ 
được sử dụng làm đầu vào cho công đoạn thành lập bản đồ  biến động sử  dụng  
đất trong phần mềm Arcgis desktop 10.0. Để  tạo ra được bản đồ  biến động sử 

dụng đất thì đề  tài đã sử  dụng công cụ  Intersect (giao nhau giữa các đối tượng 
trên hai lớp khác nhau tạo thành nhiều đối tượng mới nhỏ  hơn có tất cả  các 
thuộc tính của 2 layer).
­ Phương pháp 4: Phương pháp phân tích nhân tố
Phân tích nhân tố  là mô hình toán học cho phép đưa số lượng lớn chỉ tiêu  
quan trắc về một số các nhân tố mà chỉ bị mất mát một phần những thông tin ban 
đầu. Các nhân tố là những tổ  hợp tuyến tính của các chỉ  tiêu quan trắc. Trên cơ 
sở các nhân tố  này, ta có thể  tính được các chỉ  số tổng hợp mang thông tin khái  
quát mới về chất [1]. 
Phân tích nhân tố được sử dụng trong các trường hợp sau:
­ Nhận diện các khía cạnh hay nhân tố  giải thích được các liên hệ  tương 
quan trong một tập hợp biến.
­ Nhận diện một tập hợp gồm 1 số lượng biến mới tương đối ít không có  
tương quan với nhau để thay thế tập hợp biến gốc có tương quan với nhau nhằm  
thực hiện phân tích đa biến tiếp theo.
­ Để chọn ra một tập hợp con gồm các biến nổi trội từ một tập hợp nhiều  
biến nhằm sử dụng trong các phân tích đa biến kế tiếp.
Trong đề tài này, phương pháp phân tích nhân tố được sử dụng là phân tích  
trục thành phần chính (Principal Component Analysis – PCA). PCA là công cụ 
phân tích nhân tố sử dụng với mục đích giảm dữ liệu. Thuật toán PCA tìm kiếm 
sự  kết hợp tuyến tính giữa các biến mà phương sai của chúng đạt cực đại. Sau 
đó, loại bỏ  phương sai này ra khỏi mô hình và cố  gắng tìm kiếm sự  kết hợp  
tuyến tính thứ hai để có thể giải thích tối đa phần còn lại của phương sai và quá 

16


trình tiếp tục được thực hiện tới khi tất cả  các phương sai được loại trừ  hết.  
Đây được gọi là phương pháp trục thành phần chính và kết quả  là các nhân tố 
trực giao (do vậy không có quan hệ).

Hiển thị  PCA được thực hiện với mục đích giảm số  lượng lớn các biến 
gốc sẵn có (lớn hơn 150 biến) xuống một số lượng ít hơn các nhân tố  cho mục  
đích mô hình và giải đoán. Do số lượng trường hợp trong cơ sở dữ liệu này nhỏ 
(N=13), nên chỉ  một số  biến giới hạn được sử  dụng trong phép PCA mang lại  
kết quả  có ý nghĩa. Nói cách khác, “chỉ cần tính cộng đồng (communalities) cao, 
số lượng các nhân tố dự kiến tương đối nhỏ, và mô hình lỗi thấp (một điều kiện 
thường đi với tính cộng đồng cao), các nhà nghiên cứu và đánh giá không nên quá 
quan tâm về kích thước mẫu nhỏ [25], hay “dữ liệu mạnh trong phân tích nhân tố 
có nghĩa là tính cộng đồng mang tính thống nhất cao, mà không có tải trọng chéo,  
cộng thêm một số tải trọng biến mạnh trên mỗi nhân tố [15]. Đề tài đã thực hiện  
qua nhiều lần thử  chứng tỏ  để  có một ma trận với tương quan không quá tồi, 
mỗi một lần phân tích không nhiều hơn 6 hoặc 7 biến. Có thể  nói là dị  thường 
trong ma trận tương quan nảy sinh khi hai hoặc nhiều biến trong mô hình được 
loại bỏ hoàn toàn.
Mức độ đầy đủ  của mẫu theo thống kê Kaiser­Meyer­Olkin (KMO) được  
sử  dụng trong việc chọn biến. KMO giúp việc đoán liệu dữ  liệu thể hiện có là 
nhân tố không, trên cơ sở các quan hệ và bán quan hệ. KMO có giá trị từ 0 đến 1. 
SPSS tính KMO tập hợp theo từng KMO cho mỗi biến thành phần trong PCA. 
Theo tác giả  Jullie Pallant [24], KMO tập hợp cần phải lớn hơn hoặc bằng 0.6  
mới nên đưa vào phân tích nhân tố, kể cả PCA. Mỗi KMO đơn lẻ được sử dụng 
để  xác định biến nào có thể  loại ra trong quá trình phân tích, những KMO nhỏ 
nhất được loại trước, sau đó chạy lại PCA đến khi KMO tập hợp đạt yêu cầu. 
Sau khi đã ép được theo yêu cầu và chấp nhận giải pháp cuối cùng, cần phải  
quyết định  những nhân tố nào nên được giữ lại trong phân tích. Ví dụ trong luật 
Kaiser, tiêu chí được sử dụng là các thành phần được giữ  lại cần phải có giá trị 

17


eigen lớn hơn 1. Điều quan trọng là khả  năng hiểu được của các nhân tố. Nói 

cách khác, các thành phần  được  giữ  lại cần phải có ý nghĩa thực tiễn trong  
nghiên cứu. Cuối cùng, các nhân tố  trong bảng được đưa ra Excel và lưu dưới  
dạng   DBF   (khuôn   dạng   của   dBASE   IV).   Dữ   liệu   kết   quả   được   nhập   vào  
ArcGIS. Việc kết hợp giữa các lớp thông tin địa lý và bảng số liệu giúp hiển thị 
lại kết quả của PCA theo không gian. Hiển thị này được trình bày trên nền mầu 
đồ  giải với màu lạnh khi nhân tố  nhỏ  hơn 0 và màu nóng khi giá trị  cao. Mỗi  
thành phần được thể hiện trên bản đồ bằng công cụ ArcGis.
6. Cấu trúc luận văn
Luận văn bao gồm 3 phần chính. Trong đó, chương đầu tiên tổng quan các 
vấn đề lý luận chung về biến đổi sử  dụng đất, sinh kế bền vững, mối quan hệ 
giữa biến đổi sử  dụng đất và sinh kế, đồng thời tổng quan lại các công trình  
nghiên cứu được thực hiện tại xã Tản Lĩnh, huyện Ba Vì, thành phố  Hà Nội. 
Chương tiếp theo nêu các đặc điểm tự  nhiên, kinh tế  xã hội tại khu vực nghiên 
cứu và phân tích biến động sử dụng đất giai đoạn 1993 – 2010 tại đây. Chương 
cuối phân tích mối quan hệ  giữa biến đổi sử  dụng đất nông nghiệp và sinh kế 
của người dân tại xã Tản Lĩnh, từ  đó nêu những đánh giá về  các loại hình sinh  
kế nông nghiệp liên quan.
Chương 1 – TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

1.1. Tổng quan về nghiên cứu biến đổi sử dụng đất
Thực tế, sử  dụng đất thường được hiểu đơn giản là các hoạt động làm 
thay đổi bề  mặt trái đất của con người. Trong khi đó, khái niệm của quá trình  
chuyển đổi sử dụng đất đề cập đến bất kỳ sự thay đổi trong hệ thống sử  dụng 
đất từ một trạng thái này sang một trạng thái khác [20]. Theo các tác giả Eric F.  
Lambin, Patrick Meyfroidt [20], sử dụng đất hiện nay diễn ra theo hai xu hướng:  
thứ  nhất là các quá trình thay đổi dần dần  ở  quy mô rộng lớn và thứ  hai là sự 
chuyển đổi đột ngột để ứng phó với các sự kiện quan trọng ở cấp cộng đồng địa 

18



phương hoặc cá nhân. Quá trình biến đổi sử dụng đất có liên quan tới sự thay đổi 
trong sự cung cấp hàng hóa và dịch vụ sinh thái mà xã hội con người phụ thuộc.  
Sự đa dạng lớn trong bối cảnh địa lý và lịch sử có liên quan tới biến đổi sử dụng 
đất và rất nhiều sự phức tạp trong cả hai hệ thống sinh thái và xã hội.
Theo các tác giả  Eric F. Lambin, Patrick Meyfroidt [20], hai động lực cơ 
bản ảnh hưởng tới quyết định sử dụng đất nói chung là: (i) động lực sinh thái –  
xã hội;  và (ii) các động lực kinh tế ­ xã hội. Trong đó, động lực sinh thái – xã hội  
là động lực nội sinh (gồm: sự phát triển có giới hạn của nguồn tài nguyên thiên 
nhiên và chu kỳ thích  ứng; sự  thiếu hụt đất đai và thâm canh nông nghiệp; điều 
chỉnh sử  dụng đất), mang tính địa phương, xuất hiện khi dòng hàng hóa và dịch  
vụ được cung cấp bởi các hệ sinh thái tự  nhiên bị suy giảm nghiêm trọng, khiến 
chúng buộc phải làm chậm hoặc thậm chí đảo ngược sự  biến đổi sử  dụng đất.  
Động lực kinh tế ­ xã hội là các động lực ngoại sinh (gồm: sự hiện đại hóa kinh  
tế, thuê đất và tiếp cận thị trường, chế độ sở hữu đất đai, thương mại toàn cầu,  
sự phổ biến của các ý tưởng bảo vệ môi trường toàn cầu), bắt nguồn từ cấp độ 
tổ chức cao hơn, từ khu vực lân cận, hoặc từ các cuộc cải cách địa phương, dẫn  
đến sự chuyển dịch từ mở rộng sử dụng đất sang phục hồi hệ sinh thái tự nhiên 
ở quy mô quốc gia.
Liên quan tới biến đổi sử  dụng đất, dựa trên 320 nguồn tài liệu từ  sách 
báo, tạp chí trong các lĩnh vực kỹ thuật, vật lý, khoa học xã hội, có những từ “sử 
dụng đất”, “biến đổi sử  dụng đất”, “biến đổi lớp phủ  và sử  dụng đất” hoặc  
“biến đổi lớp phủ  đất” trong tiêu đề  hoặc từ  khóa (có sự  giới hạn đối với một  
khái niệm rộng lớn hơn của các lĩnh vực có sự  tham gia của phương pháp tiếp  
cận quản lý nhân chủng học/môi trường kết hợp với các chủ  đề  như: cải cách 
đất đai, quyền sử dụng đất, quản lý đất đai và quyền sở hữu, tái định cư, và quan 
điểm cộng đồng về đất đai), các tác giả B. McCusker và E.R.Carr đã tổng kết lại  
4 xu hướng nghiên cứu chính [22]:

19



­ Nguyên nhân của sự  biến đổi sử  dụng đất thường được cho là do kết 
hợp lại các động lực được xác định một cách rộng rãi .
­Việc nghiên cứu về nguyên nhân của sự thay đổi hướng tới tiếp cận các 
động lực biến đổi mang tính toàn cầu hoặc khu vực. 
­ Biến đổi sử dụng đất thường được coi như  là kết quả  của các quá trình  
khác (chính trị, kinh tế, môi trường), đóng vai trò như  một điều kiện cho những 
quá trình  ở  quy mô địa phương và toàn cầu, thay vì là một quá trình được thành 
lập bởi mối quan hệ quyền lực địa phương, khu vực, và quốc gia.
­ Các tài liệu có xu hướng hướng tới nghiên cứu các hộ gia đình (sử  dụng 
phương pháp tiếp cận hệ  thống – gợi nhắc phương pháp tiếp cận văn hóa sinh  
thái tới tương tác con người ­ môi trường) và kết quả mô hình hóa. 
Trong đó, đáng lưu ý là các tác giả đã nhận thấy các vấn đề sau:
­ Xu hướng trong lý thuyết biến đổi sử  dụng đất chỉ  dừng lại ở  xác định  
động lực và mô hình hóa kết quả dựa trên những gì tìm được, mà ít khi đi sâu vào  
nguyên nhân tại sao lại là những động lực này làm biến đổi sử dụng đất và cách 
chúng xây dựng mang tính xã hội như thế nào. 
­ Tuy lý thuyết biến đổi sử  dụng đất theo hướng kết quả  mô hình hóa 
phần nào đáp  ứng nhu cầu thực tế cho việc ra chính sách với các kịch bản biến  
đổi nhưng vẫn có sự hạn chế bởi các mô hình này không thể  nắm bắt được sự 
phức tạp của các động lực dẫn đến những thay đổi về  đối tượng quan sát, và  
như  vậy, việc thực hiện những mô hình phức tạp nhất bị  giới hạn. Thậm chí, 
việc lập mô hình hóa dữ liệu ngay cả trong trường hợp chỉ có một động lực điều  
khiển quá trình biến đổi sử dụng đất cũng không hiệu quả khi có nhiều thay đổi 
được quan sát theo kinh nghiệm, vì chúng bắt đầu ở  quy mô sai của quá trình xã 
hội.

20



1.2. Tổng quan về nghiên cứu sinh kế bền vững
1.2.1. Khái niệm sinh kế và sinh kế bền vững
Liên quan tới lý thuyết về  biến đổi sử  dụng đất, sinh kế  thường được 
hiểu là “khả  năng, tài sản (sự  dự  trữ, nguồn tài nguyên, quyền đòi hỏi và tiếp 
cận) và các hoạt động cần thiết cho phương tiện sinh hoạt” [11, 12, 14, 18, 27].  
Theo Ellis [18] ghi chú, những định nghĩa sinh kế này đã chuyển từ thu nhập đơn 
thuần tới một xem xét toàn diện hơn về cách thức kiếm sống của con người.
Trên cơ sở đó, khái niệm sinh kế bền vững cũng được được hình thành (từ 
ý tưởng được đề xuất bởi Ủy ban Brundtland về Môi trường và Phát triển tới sự 
đề  cập cụ  thể  trong nội dung Agenda 21 tại Hội nghị  về  Môi trường và Phát 
triển của Liên hợp quốc 1992 hay định nghĩa tổng hợp của Robert Chambers và 
Gordon Conway trong bài “Sustainable Rural Livelihoods: Practical concepts for 
the 21st Century”)và hoàn thiện (với công trình nghiên cứu sinh kế bền vững của  
Viện Nghiên cứu Phát triển (Institute for Development Studies ­ IDS) tại Đại học 
Sussex, Brighton, UK, và kết quả  nghiên cứu về  áp dụng khái niệm và phương 
pháp tiếp cận sinh kế bền vững của Bộ Phát triển Quốc tế của Anh (the British  
Department for International Development ­ DFID) với hai đặc trưng cần thiết, 
cần được đảm bảo đồng thời:
­ Khả năng có thể đương đầu với và phục hồi sau những áp lực và cú sốc  
và duy trì hoặc cải thiện năng lực và tài sản hiện tại cũng như trong tương lai,
­ Không làm hủy hoại nguồn tài nguyên tự nhiên.
1.2.2. Đặc điểm phương pháp tiếp cận sinh kế bền vững của DFID
Khái   niệm   về   sinh   kế   và   sinh   kế   bền   vững   trên   đã   dẫn   đến   một   số 
phương pháp tiếp cận sinh kế  tập trung chặt chẽ vào truy cập các loại tài sản  
của người dân. Phụ  thuộc vào các tổ  chức sử  dụng, khái niệm này được dùng  
chủ yếu như khung (hoặc công cụ) phân tích trong lập kế hoạch chương trình và  
đánh giá hoặc như một chương trình. Tuy nhiên, giữa các phương pháp có 3 đặc  
trưng cơ bản chung: (i) trọng tâm là sinh kế của người nghèo; (ii) thay vì lấy đầu  


21


vào là một ngành cụ thể như nông nghiệp, nước hoặc y tế như các phương pháp  
thông thường, cách tiếp cận này bắt đầu với sự  phân tích các hệ  thống sinh kế 
hiện tại của người dân để xác định sự can thiệp thích hợp; (iii) phương pháp sinh 
kế  bền vững chú trọng tới người tham gia trong xác định và thực hiện các hoạt  
động phù hợp [21].
Trong các phương pháp tiếp cận sinh kế  bền vững, phương pháp được 
phát triển tại DFID từ  năm 1998 có trọng tâm là khung sinh kế  bền vững ­ một  
cấu trúc phân tích để tạo điều kiện cho một sự hiểu biết rộng lớn và mang tính 
hệ thống của các yếu tố khác nhau có tác dụng hạn chế hoặc tăng cường cơ hội  
sinh kế và để chỉ ra cách chúng liên quan với nhau [21]. 
Cũng theo Lasse Krantz [21], phương pháp của DFID giúp tăng cường hiệu 
quả của các cơ quan, tổ chức thực hiện trong giảm nghèo theo hai cách:
­ Bằng cách lồng ghép một loạt các nguyên tắc chính, trong đó xác định  
các hoạt động phát triển tập trung vào đói nghèo nên lấy trọng tâm là con người, 
có khả  năng đáp  ứng và sự  tham gia, đa cấp độ, thực hiện quan hệ đối tác, bền 
vững và linh động. 
­ Bằng cách áp dụng một quan điểm toàn diện trong chương trình các hoạt 
động hỗ  trợ  để  đảm bảo chúng tương  ứng với các vấn đề  hoặc lĩnh vực liên 
quan trực tiếp để cải thiện sinh kế người nghèo. 
Với khung sinh kế  bền vững, phương pháp này được DFID sử  dụng để 
nhận biết, thiết kế và đánh giá những sáng kiến mới (dự án hoặc chương trình),  
để  đánh giá lại các hoạt động đã có, nhằm thông báo ý kiến và thảo luận chiến 
lược, và dùng trong nghiên cứu. Phương pháp tiếp cận sinh kế  bền vững của 
DFID không phải là một khung chương trình với các bước khác nhau cần được  
thực hiện khi lập kế  hoạch cho những chương trình sinh kế  bền vững rời rạc,  
mà nó thể hiện cách suy nghĩ mới về đói nghèo, tập trung vào sinh kế của người  
nghèo để nhận biết các vấn đề hoặc khu vực cần được đề cập tới trong một tình 

huống cụ thể để giảm đói nghèo [21].

22


*  Khung sinh kế bền vững của DFID
Khung sinh kế  bền vững được DFID xây dựng với các nhân tố: khung  
hoàn cảnh dễ  bị  tổn thương, tài sản sinh kế, cấu trúc chuyển đổi và quá trình 
thực  hiện,  các  chiến lược sinh kế  và kết quả.Trong  đó,  bối cảnh dễ  bị  tổn  
thương là môi trường 

Hình 1.1. Khung sinh kế bền vững [17]
bên ngoài mà trong đó con người tồn tại. Sinh kế con người và các tài sản sẵn có 
của họ về cơ bản bị ảnh hưởng bởi những xu hướng, cú sốc hoặc tính mùa vụ ­  
những điều mà họ  hạn chế  được hoặc không thể  kiểm soát được. Trong bối 
cảnh này, cấu trúc chuyển đổi và quá trình thực hiện (bao gồm các cơ  quan, tổ 
chức, chính sách và pháp luật) có tác động quyết định tới cách tiếp cận (với các  
loại tài sản sinh kế, chiến lược sinh kế, tới các cơ  quan ra quyết định và các  
nguồn  ảnh hưởng), tới sự trao đổi giữa các loại vốn khác nhau, tới sự  hoàn trả 
(kinh tế và các hình thức khác) cho bất kỳ chiến lược sinh kế nào. Thông qua các  

23


hoạt động và chọn lựa, người dân sẽ  đạt được mục tiêu sinh kế  của họ  với 
những kết quả sinh kế tương ứng [17].
Nhân tố quan trọng, đóng vai trò trung tâm của khung sinh kế bền vững là 
tài sản sinh kế  với 5 loại vốn: con người (kỹ  năng, kiến thức, năng lực để  lao 
động, và sức khỏe tốt),  tự  nhiên  (nguồn tài nguyên thiên nhiên),  tài chính  (chủ 
yếu là tiền mặt và các khoản tài chính tương đương, mang tính sẵn có hoặc được 

cung cấp thường xuyên),  vật chất (cơ  sở  hạ  tầng cơ  bản và công cụ  sản xuất  
hàng hóa cần thiết để hỗ trợ sinh kế), xã hội (các mạng lưới và các mối liên kết 
với nhau, tính đoàn hội của các nhóm chính thức; và mối quan hệ dựa trên sự tin  
tưởng, sự  trao đổi và  ảnh hưởng lẫn nhau) [17]. Trong đó, đất đai được coi là 
vốn tự  nhiên, “các cơ  sở  tài nguyên thiên nhiên (đất, nước, cây xanh) mang lại 
sản phẩm được sử  dụng bởi loài người cho sự  sống còn của họ”, mặc dù một  
cánh đồng được cải thiện cũng có thể  hiểu dưới tiêu đề  của vốn vật chất, loại 
vốn thường bao gồm “các tài sản được đưa vào sự tồn tại bởi quá trình sản xuất  
kinh tế” [18]. Về mặt hình học, 5 loại tài sản này được mô tả như một hình ngũ  
giác để nhấn mạnh mối liên kết của chúng và thực tế  là sinh kế  phụ  thuộc vào 
sự  kết hợp của rất nhiều loại tài sản. Vì vậy, một phần quan trọng trong phân  
tích là tìm ra cách tiếp cận của người dân với các loại tài sản khác nhau và khả 
năng của họ để đưa các tài sản vào sử dụng hiệu quả. 
1.3. Tổng quan về mối quan hệ giữa biến đổi sử dụng đất và sinh kế
1.3.1. Trên thế giới
Mối quan hệ  giữa biến đổi sử  dụng đất và sinh kế  thường được nghiên  
cứu theo hướng một chiều, tức là nhân tố  này đóng vai trò tác động, gây ra sự 
thay đổi cho nhân tố  kia, mà ít có sự  quan tâm tới tác động ngược lại, thậm chí  
chúng còn được nghiên cứu riêng biệt, không có mối liên quan với nhau. Kết quả 
nghiên cứu của các tác giả  B. McCusker và E.R. Carr [22] là minh chứng rõ ràng 
và cụ thể cho điều này. Cụ thể, trong số 209 tài liệu tham khảo được xác định có 
liên quan tới sinh kế chỉ có 5% (12) giải quyết biến đổi sử  dụng đất (tập trung  

24


vào các quá trình của sự biến đổi, không phải khái niệm rộng rãi về đất như đầu  
vào của hệ  thống sinh kế) trong các bối cảnh sinh kế  và 11% (35) trong số  320 
nguồn tài liệu về biến đổi sử  dụng đất có tham chiếu cụ thể tới khái niệm sinh  
kế bất kỳ. Hệ quả của hướng nghiên cứu này được các tác giả  B. McCusker và 

E.R. Carr đưa ra:
­ Bằng cách coi thay đổi sử dụng đất như là kết quả của một vài động lực 
chính trị, kinh tế, môi trường, các tài liệu sử  dụng đất đã vô tình che khuất câu 
chuyện làm thế nào và tại sao con người tương tác với môi trường của họ  theo  
những cách nhất định và lý do tại sao kết quả  từ  cùng một hành động trong  
không gian hoặc quy mô có thể khác nhau nhiều như vậy. 
­ Lý thuyết sinh kế  xử  lý các mối liên kết giữa sinh kế, đặc biệt là đa 
dạng hóa, và sử dụng đất như là một trong những nguyên nhân và tác động. Cách 
xử lý này xuất hiện khi thay đổi trong sinh kế dẫn tới biến đổi trong sử dụng đất 
theo hai cách. Đầu tiên, lý thuyết sinh kế có xu hướng xử lý biến đổi sử dụng đất 
như một đầu vào đối với sinh kế của hộ gia đình hoặc là một kết quả của sự đa  
dạng hóa, trừ trường hợp các lực ngoại sinh như biến đổi khí hậu, thay đổi kinh 
tế hoặc can thiệp của chính sách chính phủ. Do đó, sinh kế thường được ưu tiên 
trong mối quan hệ sinh kế ­ sử dụng đất, với yếu tố phía sau (sử dụng đất) được  
coi như  một cơ  hội hoặc hạn chế yếu tố phía trước (sinh kế) thông qua những  
phản hồi. Thứ hai, các vấn đề của xã hội và quyền lực thường được đưa vào các  
cuộc thảo luận của mối quan hệ sử dụng đất và sinh kế trong điều kiện truy cập  
vào vốn vật chất và tự  nhiên thông qua các mạng lưới của vốn xã hội.  Ở  đây,  
vốn xã hội được coi như có một vai trò định hình trong sử dụng đất với ít sự xem  
xét hơn về các cách thức sử dụng đất có thể ảnh hưởng tới vốn xã hội, ngoại trừ 
trong điều kiện thiếu đất hoặc xung đột về việc tiếp cận với các nguồn lực. 
Trước thực tế nghiên cứu này, các tác giả đã đề xuất ý tưởng kết nối giữa 
sử  dụng đất và sinh kế theo hướng hợp tác sản xuất, tức là coi sử  dụng đất và 
sinh kế là những biểu hiện khác nhau của các quá trình xã hội mà theo đó các cá 

25


×