ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
Hồ Thị Oanh
NGHIÊN CỨU CHẾ TẠO VÀ TÍNH CHẤT VẬT LIỆU
CAO SU NANOCOMPOZIT TRÊN CƠ SỞ
BLEND CỦA CAO SU THIÊN NHIÊN VỚI
CAO SU NITRIL BUTADIEN VÀ MỘT SỐ
PHỤ GIA NANO
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC
Luận văn được hoàn thành tại:
Phòng Công nghệ Vật liệu và Môi trường – Viện Hóa học – Viện
Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đỗ Quang Kháng – Viện
Hóa học – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
Người phản biện khoa học:
Phản biện 1: PGS.TS. Bạch Trọng Phúc – Đại học Bách
khoa Hà Nội.
Phản biện 2: PGS.TS. Phạm Ngọc Lân – Khoa Hóa học –
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia
Hà Nội.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Khoa học và công nghệ nano là một lĩnh vực đang nổi lên trong
việc nghiên cứu và phát triển vật liệu mới. Vật liệu cao su
nanocompozit kết hợp được cả ưu điểm của vật liệu vô cơ (như
tính chất cứng, bền nhiệt,…) và ưu điểm của polyme hữu cơ (như
tính linh động, mềm dẻo, là chất điện môi và khả năng dễ gia
công…). Đặc tính riêng biệt của vật liệu cao su nanocompozit đó là
kích thước nhỏ của chất độn dẫn tới sự gia tăng mạnh mẽ diện
tích bề mặt chung so với các compozit truyền thống , đồng thời cải
thiện tính chất cơ lý của vật liệu.
Cao su thiên nhiên (CSTN) có tính chất cơ học tốt nhưng khả
năng bền dầu kém. Trong khi đó, cao su nitril butadien (NBR) được
biết đến với đặc tính vượt trội là khả năng bền dầu mỡ rất tốt. Do
vậy, vật liệu cao su blend CSTN/NBR vừa có tính chất cơ học tốt
của CSTN vừa có khả năng bền dầu mỡ của cao su NBR. Để tăng
khả năng ứng dụng cho vật liệu cao su blend, các vật liệu này
thường được gia cường bằng một số chất độn gia cường như than
đen, silica, clay,... Các chất độn nano, có thể cải thiện đáng kể tính
chất các sản phẩm cao su. Từ những cơ sở trên, chúng tôi chọn đề
tài: “Nghiên cứu chế tạo và tính chất vật liệu cao su nano
compozit trên cơ sở blend của cao su thiên nhiên với cao su nitril
butadien và một số phụ gia nano” làm chủ đề cho luận văn thạc
sĩ của mình.
2. Mục tiêu và nội dung nghiên cứu của luận án
Mục tiêu nghiên cứu
Đưa ra được điều kiện thích hợp để chế tạo vật liệu cao su
nano compozit trên cơ sở blend của cao su thiên nhiên với cao su
nitril butadien gia cường bằng nanosilica, ống nano carbon.
Nội dung nghiên cứu
Chế tạo và nghiên cứu tính chất vật liệu cao su nanocompozit
trên cơ sở blend của CSTN/NBR và nanosilica.
Chế tạo và nghiên cứu tính chất vật liệu cao su nanocompozit
trên cơ sở blend của CSTN/NBR và ống nano carbon.
3. Bố cục của luận án
Luận án dày 75 trang với 6 bảng và 31 hình. Kết cấu của luận
án: Lời mở đầu (2 trang), Chương 1 Tổng quan (24 trang), Chương 2
Vật liệu và phương pháp nghiên cứu (5 trang), Chương 3 Kết quả
nghiên cứu và thảo luận (23 trang), Kết luận (2 trang), Phần Danh
mục các công trình khoa học đã được công bố liên quan đến luận án
(1 trang), Tài liệu tham khảo (6 trang).
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1. Giới thiệu về vật liệu polyme nanocompozit và cao su
nanocompozit
Vật liệu polyme nanocompozit kết hợp được cả ưu điểm của vật
liệu vô cơ (như tính chất cứng, bền nhiệt,…) và ưu điểm của
polyme hữu cơ (như tính linh động, mềm dẻo, là chất điện môi và
khả năng dễ gia công…). Hơn nữa chúng cũng có những tính chất
đặc biệt của chất độn nano điều này dẫn tới sự cải thiện tính chất
cơ lý của vật liệu. Một đặc tính riêng biệt của vật liệu polyme
nanocompozit đó là kích thước nhỏ của chất độn dẫn tới sự gia
tăng mạnh mẽ diện tích bề mặt chung so với các compozit truyền
thống.
1.2. Các phụ gia nano
1.2.1. Ống nano carbon
CNT có đường kính càng nhỏ thì khả năng hoạt động hóa học
càng mạnh. Song do ảnh hưởng của hiệu ứng kích thước và
hiệu ứng bề mặt của vật liệu nano nên CNT rất dễ bị kết tụ.
Phương pháp biến tính bề mặt CNT: Về mặt lý thuyết để
biến tính vật liệu, chúng ta có thể dùng các phương pháp cơ,
lý, hóa tác động lên bề mặt của vật liệu. Nhưng chủ yếu là tập
trung vào việc xử lý hóa học bề mặt của vật liệu CNT để gắn
các nhóm chức lên bề mặt của CNT. Việc xử lý hóa học có thể
hiểu đơn giản là dùng các tác nhân hóa học tác dụng lên các
nguyên tử carbon trên thành ống.
1.2.2. Nanosilica
Chất độn gia cường có hiệu quả do kích thước nhỏ, dễ phân tán
vào vật liệu. Nanosilica có tác dụng làm tăng khả năng tương hợp
giữa CSTN và NBR.
Tính ưa nước của nhóm silanol trên bề mặt silica là nhược điểm
làm hạn chế khả năng ứng dụng của silica, do đó cần biến tính
silica.
1.3. Cao su thiên nhiên và cao su nitril butadien
1.3.1. Cao su thiên nhiên (CSTN)
Có độ đàn hồi tuyệt vời, tính chất cơ học tốt và dễ gia công, kháng
lạnh tốt.
1.3.2. Cao su nitril butadien (NBR)
Khả năng chịu môi trường dầu mỡ, dung môi hữu cơ.
Ứng dụng màng bơm cao su nitrile kháng dầu , lớp lót trong
các đường ống, bọc trục, đế giày và các lớp lót thiết bị.
CHƯƠNG 2. THỰC NGHIỆM
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Cao su thiên nhiên (CSTN) loại SVR3L (Công ty cao su
Đồng Nai).
Cao su nitril butadien (NBR) Kosyl – KNB35L (Hàn Quốc).
Ống nano carbon (CNT) của hãng Nanocyl S.A. (Bỉ).
Nanosilica Reolosil (Akpa, Thổ Nhĩ Kỳ).
Tác nhân ghép nối silan Si69 là bis(3trietoxysilyl propyl)
tetrasulphit (TESPT) và hỗn hợp dung môi toluen và
isooctan (50:50) (Trung Quốc).
Các chất phụ gia gồm: Lưu huỳnh, oxit kẽm, axit stearic,
xúc tiến DM, xúc tiến CZ, phòng lão D.
Hóa chất khác như CHCl3, NaOH, AlCl3, THF, axeton đều
là các hóa chất thông dụng của Trung Quốc, bột PVCS
của Việt Nam.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Biến tính phụ gia nano
2.2.1.1. Phối trộn nanosilica với Si69
Cân nanosilica (7% so với cao su) và Si69 (lượng Si69 thay đổi
từ 015% so với nanosilica), hỗn hợp này được nghiền trộn đều
trong cối sứ..
2.2.1.2. Biến tính CNT bằng polyvinylchloride (PVC)
Cân 0,2g CNT và 0,5g PVC cho vào bình cầu 3 cổ có sẵn 30ml
CHCl3 khan, bình cầu được nối với một ống đựng CaCl2 khan và
một ống dẫn khí khác được nhúng trong dung dịch NaOH 10% để
loại bỏ HCl sinh ra trong quá trình phản ứng. Thêm từ từ 0,5g AlCl3
trong thời gian 1giờ, đồng thời khuấy trộn trong môi trường nitơ ở
60oC trong 30 giờ tiếp theo. Sau khi làm nguội đến nhiệt độ phòng
hỗn hợp sản phẩm CNTPVC được khuấy rung siêu âm trong dung
môi tetrahydrofuran (THF) 10 phút, lọc và rửa nhiều lần bằng axeton
và ete dầu hỏa, sấy ở 60oC trong 10 giờ.
2.2.2. Chế tạo mẫu cao su nanocompozit
Trên cơ sở đơn phối trộn từ cao su blend CSTN/NBR có tỷ lệ
là 80/20 với các phụ gia cố định, ảnh hưởng của hàm lượng phụ gia
nano tới tính chất của vật liệu đã được khảo sát. Thành phần cơ bản
của các mẫu được trình bày trong bảng sau:
Bảng 2.1: Thành phần cơ bản của mẫu vật liệu cao su
nanocompozit
Hàm lượng
Thành phần
Pklphần khối lượng
CSTN
80
NBR
20
Kẽm oxit
4,5
Phòng lão D
0,6
Axit stearic
1,0
Xúc tiến D
0,2
Xúc tiến DM
0,4
Lưu huỳnh
2,0
Nanosilica (hoặc CNT)
Thay đổi
2.3. Phương pháp xác định một số tính chất cơ học của vật
liệu
a. Tính chất cơ học: Độ bền kéo đứt và độ dãn dài khi đứt theo tiêu
chuẩn TCVN 4509 : 2006. Độ cứng được xác định theo tiêu chuẩn
TCVN 15951:2007. Độ mài mòn của được xác định bằng phương
pháp AKRON, theo tiêu chuẩn TCVN 159487.
b. Xác định khả năng lưu hóa của vật liệu: Quá trình lưu hóa của
vật liệu được khảo sát theo tính chất lưu biến trên thiết bị đo lưu
biến của hãng EKTRON.
c. Phương pháp xác định cấu trúc hình thái của vật liệu: bằng
phương pháp hiển vi điện tử quét (SEM) thực hiện trên thiết bị
JSM6490 (JEOLNhật Bản).
d. Đánh giá khả năng bền nhiệt của vật liệu: Khả năng bền nhiệt
của các mẫu vật liệu cao su và cao su blend được đánh giá bằng
phương pháp nhiệt trọng lượng (TGA) được thực hiện trên thiết bị
Labsys TG của hãng Setaram (Pháp).
e. Đanh gia đô bên môi tr
́
́ ̣ ̀
ương:
̀ Thông qua hệ số già hóa và khả
năng bền dầu mỡ của vật liệu.
Chương 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Nghiên cứu chế tạo và tính chất vật liệu cao su
nanocompozit trên cơ sở blend của CSTN/NBR và
nanosilica
3.1.1. Ảnh hưởng của hàm lượng nanosilica tới tính chất cơ
học của vật liệu
Kết quả khảo sát ảnh hưởng của hàm lượng nanosilica tới
tính chất cơ học của vật liệu được mô tả trong các hình dưới đây.
Hình 3.1: Ảnh hưởng của hàm lượng nanosilica tới độ bền kéo
đứt và độ dãn dài khi đứt của vật liệu
1
Hình 3.2: Ảnh hưởng của hàm lượng nanosilica tới độ cứng và
độ dãn dư của vật liệu
Hình 3.3: Ảnh hưởng của hàm lượng nanosilica tới độ mài
mòn của vật liệu
Nhận thấy rằng, khi hàm lượng nanosilica tăng lên, độ bền kéo
đứt, độ dãn dài khi đứt và độ bền mài mòn của vật liệu tăng lên khi
hàm lượng nanosilica tăng tới 7%. Sau đó, nếu hàm lượng
nanosilica tiếp tục tăng, độ bền kéo đứt, độ dãn dài khi đứt của vật
liệu và độ bền mài mòn của vật liệu lại có xu hướng giảm xuống.
Riêng độ cứng của vật liệu tăng lên liên tục nhưng với tốc độ
chậm. Điều này có thể giải thích do nanosilica là một loại gia
cường cho vật liệu polyme nói chung và cao su nói riêng. Khi có
mặt của vật liệu này, chúng phân tán đều trong vật liệu, tạo thành
màng lưới riêng, đan xen màng lưới polyme đã làm tăng tính chất
cơ học của vật liệu. Riêng độ cứng của vật liệu tăng không nhiều
vì nanosilica là chất độn “mềm” nên không làm tăng nhiều độ cứng
của vật liệu [8]. Căn cứ những kết quả thu được, chúng tôi chọn
hàm lượng nanosilica biến tính blend CSTN/NBR là 7% để tiến
hành các khảo sát tiếp theo.
3.1.2. Ảnh hưởng của hàm lượng Si69 tới tính chất cơ học của vật
liệu
Để nâng cao khả năng tương hợp giữa nanosilica với chất nền
cao su và cũng làm tăng mức độ phân tán cho chất độn, nanosilica
2
được biến tính với tác nhân ghép nối silan Si69. Các hình dưới đây
trình bày sự ảnh hưởng của hàm lượng tác nhân Si69 (so với
nanosilica) tới tính cơ học của vật liệu blend CSTN/NBR.
Hình 3.4: Ảnh hưởng của hàm lượng Si69 tới độ bền kéo đứt
và độ dãn dài khi đứt của vật liệu
3
Hình 3.5: Ảnh hưởng của hàm lượng Si69 tới độ cứng và độ
dãn dư của vật liệu
4
Hình 3.6: Ảnh hưởng của hàm lượng Si69 tới độ mài
mòn của vật liệu
Kết quả trên cho thấy, độ bền kéo đứt và độ cứng của blend
tăng khi hàm lượng Si69 tăng và đạt giá trị cực đại ở hàm lượng
5% Si69 (so với nanosilica hay 0,6% so với cao su). Điều này có thể
giải thích, Si69 có thể kết hợp với bề mặt chất gia cường
nanosilica, mặt khác, các nhóm chức hữu cơ của Si69 phản ứng với
các liên kết đôi của mạch cao su, dẫn đến hình thành cầu nối giữa
phân tử chất gia cường với phân tử cao su, do đó nâng cao khả
năng gia cường cho chất gia cường.
3.1.3. Cấu trúc hình thái của vật liệu
Cấu trúc hình thái của vật liệu được nghiên cứu bằng kính
hiển vi điện tử quét trường phát xạ (FESEM). Các hình dưới đây là
ảnh chụp FESEM bề mặt cắt của một số mẫu vật liệu cao su
compozit trên cơ sở blend CSTN/NBR với 3% nanosilica, 7%
nanosilica, 10% nanosilica và 7% nanosilica biến tính 5% Si69.
5
Hình 3.7: Ảnh FESEM bề mặt cắt của các mẫu blend
CSTN/NBR với hàm lượng 3% nanosilica
Hình 3.8: Ảnh FESEM bề mặt cắt của các mẫu blend
CSTN/NBR với hàm lượng 7% nanosilica
6
Hình 3.9: Ảnh FESEM bề mặt cắt của các mẫu blend
CSTN/NBR với hàm lượng 10% nanosilica
Hình 3.10: Ảnh FESEM bề mặt cắt của các mẫu blend
CSTN/NBR với hàm lượng 7% nanosilica biến tính 5% Si69
Từ những hình trên cho thấy, khi hàm lượng nanosilica thấp (từ
3% đến 7%) các hạt nanosilica phân tán trong nền cao su khá đồng
đều, kích cỡ hạt khá nhỏ chỉ dưới 100 nm (hình 3.7 và 3.8). Chính
vì lý do này mà tính năng cơ học của vật liệu tăng lên. Khi hàm
lượng nanosilica tăng lên tới 10% thì trên bề mặt cắt của vật liệu
xuất hiện các tập hợp hạt cỡ gần 1 m và sự phân bố nanosilica
trong nền cao su cũng không đồng đều (hình 3.9), làm giảm tính
chất cơ học vật liệu. Ảnh FESEM mẫu vật liệu CSTN/NBR/7%
nanosilica nanocompozit có thêm 5% tác nhân ghép nối silan Si69
(so với nanosilica) cho thấy, các hạt nanosilica phân tán trong nền
cao su đồng đều hơn, kích thước hạt nhỏ hơn (cỡ 60 nm) và tương
tác giữa chất độn và nền cao su tốt hơn (hình 3.10).
7
3.1.4. Nghiên cứu khả năng bền nhiệt của vật liệu
Kết quả nghiên cứu được trình bày trong các hình và bảng dưới
đây.
Hình 3.11: Giản đồ TGA mẫu vật liệu cao su blend CSTN/NBR
8
Hình 3.12: Giản đồ TGA mẫu vật liệu cao su CSTN/NBR/7%
nanosilica
Hình 3.13: Giản đồ TGA mẫu vật liệu cao su CSTN/NBR/7%
nanosilica bt 5% Si69
Nhận thấy rằng, nhiệt độ bắt đầu phân hủy và nhiệt độ phân
hủy mạnh đầu tiên (tương ứng với quá trình phân hủy của CSTN)
của vật liệu đều tăng khi có 7% nanosilica và nhất là mẫu có thêm
tác nhân ghép nối silan Si69. Nhiệt độ bắt đầu phân hủy của vật
liệu tăng mạnh từ 281,5 C lên 298,3 C và nhiệt độ phân hủy mạnh
đầu tiên tăng từ 372,2 C lên 375,3 C. Đối với mẫu vật liệu blend
CSTN/NBR không gia cường, xuất hiện pic nhiệt độ phân hủy
mạnh thứ 2 ở 434 C (ứng với nhiệt độ phân hủy mạnh nhất của
NBR). Trong khi đó ở các mẫu blend gia cường 7% nanosilica, pic
này xuất hiện không rõ. Bên cạnh đó, tổn hao khối lượng đến
600 C của vật liệu cũng giảm từ 92,62 xuống còn 85,38%. Điều
này có thể giải thích, một mặt do nanosilica là chất độn vô cơ, có
khả năng bền nhiệt cao. Khi đưa vào phân tán đều trong nền cao su
có tác dụng che chắn tác động của nhiệt và cản trở quá trình phân
hủy nhiệt của cao su. Mặt khác, cũng giống như nanoclay,
nanosilica (chưa và đã biến tính) còn có tác dụng làm tăng khả năng
9
tương hợp giữa CSTN và NBR, do vậy nhiệt độ phân hủy mạnh
nhất của hai cấu tử đã tiến lại gần nhau và gần như hòa vào nhau.
Chính vì vậy, với hàm lượng nanosilica và tác nhân ghép nối silan
Si69 thích hợp đã làm tăng khả năng bền nhiệt và tương hợp cho
vật liệu.
3.1.5. Nghiên cứu khả năng bền dầu mỡ của vật liệu
Để đánh giá đầy đủ hiệu quả gia cường của nanosilica, chúng
tôi tiếp tục nghiên cứu khả năng bền dầu mỡ thông qua đánh giá độ
trương của vật liệu trong hỗn hợp dung môi toluen và isooctan
(50:50). Hình 3.14 là kết quả đo độ trương trong dung môi của vật
liệu theo TCVN 2752:2008.
Hình 3.14: Độ trương của các mẫu vật liệu trên cơ sở
CSTN/NBR trong hỗn hợp dung môi toluen và isooctan
Kết quả trên cho thấy, độ trương của các mẫu vật liệu trên cơ
sở blend CSTN/NBR đều tăng mạnh sau 6 giờ ngâm trong hỗn hợp
dung môi, sau đó tăng chậm và đạt cân bằng sau 48 giờ. Khi có
thêm 7% nanosilica, độ trương của vật liệu giảm đáng kể, nhất là
khi có thêm 5% tác nhân ghép nối silan Si69. Điều đó minh chứng
tác nhân ghép nối silan Si69 đã tạo cầu nối giữa chất độn và cao
su, dẫn đến vật liệu có cấu trúc chặt chẽ đã cản trở sự xâm nhập
của dung môi (giảm độ trương) đồng nghĩa với việc làm tăng khả
năng bền dầu mỡ cho vật liệu.
10
3.2. Nghiên cứu chế tạo và tính chất vật liệu cao su
nanocompozit trên cơ sở blend của CSTN/NBR và ống nano
carbon
3.2.1. Biến tính CNT bằng polyvinylchloride
Cấu trúc của CNT gồm nhiều nguyên tử carbon (C) trong đó
mỗi nguyên tử Csp2 lại tham gia liên kết với 2 nguyên tử Csp3 gần
giống với vòng benzen. Dưới điều kiện thích hợp có mặt xúc tác
axit Lewis phản ứng thế Electrophin xảy ra dễ dàng. Vì vậy, việc
thực hiện phản ứng giữa polyvinylcloride với CNT có AlCl 3 khan
làm chất xúc tác có thể theo cơ chế như sau:
Hình 3.15: Sơ đồ phản ứng ghép PVC lên bề mặt CNT
Hàm lượng PVC ghép lên bề mặt CNT được xác định bằng
phương pháp phân tích nhiệt trọng lượng (TGA). Kết quả phân tích
TGA được trình bày trong các hình và bảng sau.
11
Hình 3.17: Giản đồ TGA của CNT
Hình 3.18: Giản đồ TGA của CNTPVC
Kết quả trên cho thấy, ở khoảng trên 500oC mẫu CNT mới
bắt đầu bị phân hủy và phân hủy mạnh nhất ở 577oC. Trong khi đó,
ở mẫu CNTgPVC nhiệt độ bắt đầu phân hủy ở khoảng 170 oC và
phân hủy mạnh nhất 1 ở khoảng 318 oC. Quá trình phân hủy, mất
khối lượng kéo dài đến khoảng 400oC thì dừng lại cho đến khoảng
450oC lại tiếp tục giảm khối lượng và tốc độ mất khối lượng
mạnh nhất ở 634oC. Bên cạnh đó, tổn hao khối lượng của mẫu
CNT đến 400oC là khoảng 1,21%, trong khi đó ở mẫu CNT ghép
12
PVC đã mất 24,28% khối lượng. Điều này có thể giải thích do
PVC bền nhiệt thấp (nếu không có chất ổn định, khoảng 150oC
PVC đã bị phân hủy và tới khoảng 380oC đã bị phân hủy hoàn toàn.
Từ những kết quả phân tích nhiệt trọng lượng giữa 2 mẫu CNT
(chưa biến tính và biến tính) đã xác định được hàm lượng PVC
ghép lên bề mặt CNT là khoảng 23% khối lượng.
Hình 3.19: Ảnh TEM của CNT
Hình 3.20: Ảnh TEM của CNTgPVC
Cấu trúc hình thái của CNTgPVC cũng được quan sát rõ ràng
qua hình ảnh hiển vi điện tử truyền qua (TEM). CNTgPVC có
đường kính cỡ 25nm, lớn hơn đường kính của CNT ban đầu (1015
13
nm), điều này càng minh chứng PVC đã được ghép lên bề mặt ống
CNT.
3.2.2. Ảnh hưởng của hàm lượng CNT biến tính và chưa biến
tính đến tính năng cơ học của vật liệu
Kết quả khảo sát thu được được trình bày trong các hình dưới đây.
Hình 3.21: Ảnh hưởng của hàm lượng chất gia cường tới độ
bền kéo đứt của vật liệu
14
Hình 3.22: Ảnh hưởng của hàm lượng chất gia cường
tới độ dãn dài khi đứt của vật liệu
Hình 3.23: Ảnh hưởng của hàm lượng chất gia cường tới độ
cứng của vật liệu
15
Hình 3.24: Ảnh hưởng của hàm lượng chất gia cường tới độ
mài mòn của vật liệu
Nhận thấy rằng, chỉ cần một lượng nhỏ CNT (chưa biến tính
và biến tính) đã làm tăng đáng kể tính chất cơ học của blend
CSTN/NBR. Khi hàm lượng CNT và CNTgPVC tăng lên, các tính
chất cơ học (độ bền kéo đứt, độ dãn dài khi đứt) của vật liệu tăng
lên và đạt giá trị lớn nhất với hàm lượng CNT là 4% hoặc CNTg
PVC là 3%. Điều này có thể giải thích do tại hàm lượng này, số
lượng các phần tử CNT hoặc CNTgPVC đạt mức tối ưu để gia
cường cho vật liệu, chúng sắp xếp theo trật tự nhất định và các sợi
này tạo liên kết bề mặt tốt với phân tử cao su. Khi hàm lượng CNT
vượt quá 4% cũng như đối với CNTgPVC là 3% thì các ống
carbon nano được sắp xếp theo nhiều hướng khác nhau tạo thành
các ống dài dẫn đến sự móc nối giữa các ống càng làm cho sự phân
tán trở nên khó khăn dẫn đến sự kết tụ làm giảm tính chất cơ học
của vật liệu. Riêng độ cứng của vật liệu tăng dần với sự tăng của
hàm lượng CNT. Riêng đối với CNTgPVC đã cải thiện tính chất
cơ học của vật liệu rõ ràng hơn so với CNT không biến tính. Điều
này có thể giải thích do PVC tương hợp tốt với NBR [7] nên sự có
mặt của đoạn mạch PVC trên bề mặt giúp cho CNTgPVC tương
16
tác với nền cao su tốt hơn. Chính vì vậy, các tính chất cơ học của
vật liệu được cải thiện tốt hơn.
3.2.3. Cấu trúc hình thái của vật liệu
Cấu trúc hình thái của vật liệu được nghiên cứu bằng phương
pháp kính hiển vi điện tử quét trường phát xạ (FESEM). Các hình
dưới đây là ảnh FESEM bề mặt cắt của các mẫu vật liệu
CSTN/NBR/CNT và CSTN/NBR/CNTgPVC.
Từ các ảnh FESEM cho thấy, đối với mẫu CSTN/NBR/CNT
(hình 3.25, hình 3.26, hình 3.27) thì ống nano carbon phân tán chưa
thật đồng đều trong nền cao su và khả năng tương tác của chúng
với nền cao su chưa thật tốt. Trong khi đó mẫu CSTN/NBR/CNT
gPVC (hình 3.28), ống carbon nano biến tính phân tán đồng đều
hơn và chúng tương tác, bám dính tốt với nền cao su. Chính vì vậy,
tính chất cơ học cũng như khả năng bền nhiệt của mẫu
CSTN/NBR chứa CNTgPVC cao hơn so với mẫu chứa CNT. Mặt
khác trên ảnh FESEM còn cho thấy, đường kính ống CNT biến tính
PVC lớn hơn CNT không biến tính. Điều này càng khẳng định,
PVC đã được ghép lên bề mặt của ống nano carbon.
Hình 3.25: Ảnh FESEM của mẫu CSTN/NBR/3%CNT
17
Hình 3.26: Ảnh FESEM của mẫu CSTN/NBR/4%CNT
Hình 3.27: Ảnh FESEM của mẫu CSTN/NBR/6%CNT
18