Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Luận văn Thạc sỹ: Hoàn thiện quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (968.76 KB, 92 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ ­ HÀNH CHÍNH QUỐC GIA TP.HCM

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH CÔNG
ĐỀ TÀI:
Hoàn thiện quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa 
bàn tỉnh Bắc Ninh hiện nay.

GVHD : PGS.TS.Ngô Hữu Thảo
HVTH : Hà Thị Xuyên


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BHG
CNH­HĐH
CNLĐ
CNXH
CSVN
GHPG
HĐND
HTCT
MTTQ
QLNN
TCN
UBĐK
UBND
UBTV
UBTVQH
XHCN

Ban Hành giáo


Công nghiệp hoá ­ Hiện đại hoá
Công nhân lao động
Chủ nghĩa xã hội
Cộng sản Việt Nam
Giáo hội Phật giáo 
Hội đồng nhân dân
Hệ thống Chính trị
Mặt trận Tổ quốc 
Quản lý nhà nước
Trước Công nguyên
Uỷ ban Đoàn kết
Uỷ ban nhân dân
Uỷ ban Thường vụ
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
Chương 1

Trang
1
6

NHẬN THỨC CHUNG VỀ TÔN GIÁO, QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC 
ĐỐI VỚI TÔN GIÁO VÀ TÌNH HÌNH TÔN GIÁO
 Ở TỈNH BẮC NINH
1.1


NHẬN  THỨC   CHUNG  VỀ   TÔN   GIÁO  VÀ  QLNN   ĐỐI  VỚI  TÔN 

6

GIÁO

1.1.1 Nhận thức chung về tôn giáo
1.1.2 Quản lý nhà nước đối với tôn giáo
1.2

TÌNH HÌNH TÔN GIÁO Ở BẮC NINH

1.2.1 Một số đặc điểm của tỉnh Bắc Ninh liên quan đến tôn giáo
1.2.2 Tình hình tôn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
Chương 2

6
11
19
19
21
29

CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TÔN GIÁO 
Ở BẮC NINH VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

2.1

SỰ  CHỈ ĐẠO CỦA TỈNH UỶ, UBND TỈNH VÀ TỔ  CHỨC BỘ MÁY 


29

LÀM CÔNG TÁC QLNN VỀ TÔN GIÁO Ở BẮC NINH

2.1.1 Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Bắc Ninh chỉ đạo công tác Tôn giáo
2.1.2 Tổ chức bộ máy làm công tác QLNN về tôn giáo ở Bắc Ninh
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI 
2.2

29
33
35

TÔN GIÁO Ở BẮC NINH

2.2.1 Quản lý về hoạt động xây dựng, trùng tu, sửa chữa cơ sở thờ tự
2.2.2 Quản lý đối với việc phong chức, phong phẩm và hoạt động 
thuyên chuyển của các chức sắc
Quản lý việc đào tạo, bồi dưỡng chức sắc
Công tác quản lý đối với các hoạt động từ thiện, nhân đạo
Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
Quản lý hoạt động truyền đạo trái pháp luật
Quản lý các hoạt động khác
Công tác phối hợp

2.2.3
2.2.4
2.2.5
2.2.6

2.2.7
2.2.8
MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO CÔNG TÁC QLNN ĐỐI VỚI TÔN 
2.3
GIÁO Ở BẮC NINH

2.3.1 Vấn đề đặt ra từ phương diện khách thể quản lý
2.3.2 Vấn đề đặt ra từ phương diện chủ thể quản lý

35
37
38
39
41
42
43
43
47
47
50


Chương 3

53

DỰ BÁO TÌNH HÌNH, GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ 
NHẰM NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QLNN 

3.1


ĐỐI VỚI TÔN GIÁO Ở BẮC NINH

DỰ  BÁO TÌNH HÌNH TÔN GIÁO VÀ YÊU CẦU ĐỐI VỚI CÔNG 
TÁC QLNN VỀ TÔN GIÁO Ở BẮC NINH THỜI GIAN TỚI

3.1.1 Dự báo tình hình các tôn giáo ở Bắc Ninh
3.1.2 Một   số   yêu   cầu  từ   xu   hướng   tôn  giáo   ở   Bắc   Ninh  đối  với  

53
53
55

QLNN về tôn giáo ở Bắc Ninh
3.2

GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ CÔNG TÁC 

57

QLNN VỀ TÔN GIÁO Ở BẮC NINH 

3.2.1 Tập  trung  nâng cao  nhận thức,   thống  nhất quan  điểm, trách 

57

nhiệm của HTCT về  công tác tôn giáo và QLNN đối với tôn 
giáo
3.2.2 Công tác quản lý nhà nước cần tăng cương, tập trung hơn nữa  


58

tới các hoạt động có tính trọng điểm, phức tạp của tôn giáo trên 
địa bàn
3.2.3 Công tác QLNN cần quan tâm hơn đến công tác vận động quần 

61

chúng, tín đồ, chức  sắc các tôn giáo và xây dựng lực lượng  
chính trị ở cơ sở
3.2.4 Tăng cường công tác tổ  chức cán bộ, công chức làm công tác 

65

QLNN về tôn giáo
3.2.5 Xây   dựng   và   hoàn   thiện   phương   pháp   công   tác   tôn   giáo   và 

68

QLNN về tôn giáo
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.3
3.3.1 Đối với Trung ương
3.3.2 Đối với tỉnh Bắc Ninh
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

69
69
71

74
75


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Tôn giáo không chỉ là một hình thái ý thức xã hội mà còn là một thực thể xã  
hội, ra đời và phát triển từ  cả  ngàn năm nay.  Từ  khi ra đời, tôn giáo đã trải qua 
những thăng trầm và không ngừng biến đổi theo sự  biến đổi của tồn tại xã hội, 
nhưng chung nhất, nó luôn là một nhu cầu tinh thần của đa số nhân loại. Trong quá 
trình tồn tại và phát triển, tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời 
sống xã hội và đến tập quán của nhiều quốc gia, của các tộc người trong một  
quốc gia, theo cả các chiều: tích cực và tiêu cực. Những năm gần đây, tôn giáo trên  
thế giới không chỉ phục hồi và phát triển, đáp ứng nhu cầu tâm linh của con người, 
mà còn làm nảy sinh không ít cuộc xung đột giữa các dân tộc trong một quốc gia,  
hay giữa các quốc gia với nhau. 
Ở  Việt Nam cũng vậy, là một quốc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn 
giáo đang có xu hướng phát triển mạnh, đến nay ­ năm 2011, Nhà nước ta đã công 
nhận tư cách pháp nhân cho 13 tôn giáo, với 33 tổ chức Giáo hội. Trong đó, các tôn  
giáo bản địa (nội sinh) và các tôn giáo được du nhập từ  nước ngoài vào (ngoại 
sinh) đều được tạo điều kiện bình đẳng hoạt động theo pháp luật. Tình hình đó  
như  là sự  phản ánh về  quá trình đất nước đổi mới, Việt Nam đã có sự  phát triển 
khá mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đời sống vật chất cũng 
như tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, vì thế tôn giáo càng được khẳng 
định rõ hơn, là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. 
Nhưng, bên cạnh những sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo, lễ  hội lành mạnh, 
tuân thủ pháp luật, thì vẫn còn có hiện t ượng một số người lợi dụng tín ngưỡng, 
tôn giáo để  hành nghề  mê tín dị  đoan, mê hoặc nhân dân, cao hơn, phá hoại khối 

đại đoàn kết toàn dân tộc... Trước tình hình đó, công tác quản lý nhà nước đối với 
hoạt động tôn giáo càng cần phải được tăng cường, không chỉ trên bình diện vĩ mô  
mà còn ở các khu vực, các địa phương trong cả nước.


2
Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là một nhiệm vụ quan trọng và 
có ý nghĩa quyết định sự  thành bại của công tác tôn giáo trong tình hình mới. Các  
Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng về công tác tôn giáo đều nhấn mạnh đến vai trò của  
công tác này và việc: “Tăng cường quản lý nhà nước về  tôn giáo” là một trong  
những giải pháp chủ yếu của công tác tôn giáo hiện nay. 
Bắc Ninh là một tỉnh thuộc miền Bắc nước ta, là cửa ngõ phía Bắc của Thủ 
đô Hà Nội. Tỉnh Bắc Ninh mặc dù có diện tích không lớn, nhưng dân số  lại đông 
và có vị trí địa lý chính trị quan trọng, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của đồng 
bằng Châu thổ  Sông Hồng, có nguồn nhân lực dồi dào và là tỉnh vốn có truyền  
thống ngàn năm văn hiến và cách mạng.
Số  lượng và quy mô tôn giáo  ở  Bắc Ninh cũng không lớn, song lại là vị  trí  
“địa tôn giáo” rất quan trọng. Đó là, về  đạo Công giáo, Bắc Ninh có Toà Giám  
mục, là trung tâm, đầu não của Giáo phận Bắc Ninh, gồm 12 tỉnh khác nhau. Còn 
Phật giáo, Bắc Ninh từng có trung tâm Luy Lâu mà gần hai nghìn năm trước đã 
được xem là một trung tâm Phật giáo lớn, bằng hoặc hơn cả trung tâm Phật giáo  
Lạc Dương và Bành Thành của Trung Quốc, còn đến nay, tên chùa Dâu, Keo, Phật 
Tích vẫn nức tiếng toàn cõi Việt Nam. Hiện nay bên cạnh 2 tôn giáo chính là Phật 
giáo và Công giáo, trên địa bàn Bắc Ninh đã xuất hiện cả  đạo Tin Lành, một tôn  
giáo được xem là tôn giáo của thời CNH, HĐH.
 Trong những năm qua tình hình tôn giáo, tín ngưỡng trên địa bàn tỉnh Bắc  
Ninh  ổn định, sinh hoạt tôn giáo và đời sống tín ngưỡng, tôn giáo diễn ra bình  
thường đúng với chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Đại bộ 
phận chức sắc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo trong tỉnh an tâm, phấn khởi, tin  
tưởng vào sự nghiệp đổi mới của Đảng, về những thành tựu phát triển kinh tế ­ xã 

hội của đất nước; tích cực tham gia phát triển kinh tế  ­ xã hội, các hoạt động từ 
thiện, nhân đạo, xây dựng gia đình văn hoá ở khu dân “sống tốt đời, đẹp đạo”, tích 
cực thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ  chính trị  của địa phương. Tuy nhiên, tình 
hình tôn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh cũng nổi lên một số  vấn đề  có tính phức 


3
tạp. Đó là, hoạt động mê tín, dị  đoan diễn ra khá phổ  biến; một số  cơ  sở  thờ  tự 
của tôn giáo chưa tuân thủ  các quy định của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, Luật 
Di sản và của các quy định của tỉnh. Khi xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự, tổ chức  
tôn giáo vẫn thiếu hồ sơ xin phép; triển khai khi chưa được sự đồng ý của các cơ 
quan có thẩm quyền. Tình hình khiếu kiện đòi lại đất đai, cơ  sở  cũ của giáo hội 
còn tiềm  ẩn dấu hiệu phức tạp; hoạt động truyền đạo Tin lành trái phép và các  
đạo lạ trên địa bàn tỉnh vẫn xảy ra.
Công tác quản lý nhà nước về  hoạt động tôn giáo  ở  tỉnh Bắc Ninh những  
năm qua đã có nhiều tiến bộ, đạt được một số kết quả nhất định. Nhưng bên cạnh  
đó, công tác này cũng còn một số  hạn chế, như: Một bộ  phận cán bộ  đảng viên  
nhận thức về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với tôn giáo còn hời 
hợt; sự phối hợp giữa các cấp, các ngành còn thiếu tập trung và đồng bộ; việc giải 
quyết các vấn đề  liên quan đến tôn giáo còn kéo dài, gây tâm trạng phản cảm cho 
quần chúng tín đồ, chức sắc tôn giáo. Việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước  
đối với tôn giáo của chính quyền nhiều lúc, nhiều nơi còn cứng nhắc.
Từ thực tế tình hình trên, tôi chọn để tài: “Hoàn thiện quản lý nhà nước đối  
với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh hiện nay”,  để làm luận văn thạc 
sỹ quản lý hành chính công.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tôn giáo trong thời gian 
qua đã có nhiều công trình nghiên cứu. Đó là:   “ Quản lý nhà nước đối với hoạt  
động tôn giáo trong điều kiện xây dựng nhà nước dân chủ, pháp quyền Việt Nam  
hiện nay” của PGS.TS Nguyễn Hữu Khiển; " Một số vấn đề cấp bách trong quản  

lý tôn giáo ở một số tỉnh phía Bắc" của GS.TS Đỗ Quang Hưng; “Mác­Angghen về 
tôn giáo” của PGS. Nguyễn Đức Sự  chủ  biên); “Một số  vấn đề  lý luận và thực  
trạng tôn giáo Việt Nam” của GS. Đặng Nghiêm Vạn; Mối quan hệ giữa chính trị  
và tôn giáo trong thời kỳ mở rộng giao lưu quốc tế và phát triển kinh tế thị trường  
theo định hướng xã hội chủ  nghĩa  ở  nước ta hiện nay,  PGS, TS Ngô Hữu Thảo, 


4
chủ nhiệm (1998); Cuốn sách “Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam lý luận  
và thực tiễn" của GS.TS Đỗ Quang Hưng; “Một số tôn giáo ở Việt Nam hiện nay”  
của TS. Nguyễn Thanh Xuân; “Đặc điểm tôn giáo  ở  Việt Nam”  của TS.Nguyễn 
Đức Lữ; Đề tài cấp Bộ “55 năm đường lối chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà  
nước Việt Nam (1945­2000)” của Ban Tôn giáo Chính phủ; Đề  tài cấp Bộ “Công 
tác an ninh trong quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo  ở  Việt Nam” của 
Bộ Công an...
Những công trình trên đề  cập đến nhiều khía cạnh, cả  lý luận và thực tiễn  
của vấn đề quản lý tôn giáo, song cụ thể ở địa bàn Bắc Ninh thì chưa có.
Ở  tỉnh Bắc Ninh, vì nhiều lý do khác nhau nên hiện nay vấn đề  nâng cao 
hiệu quả  công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo hãy còn rất ít đề 
tài đi sâu nghiên cứu, nếu có thì thời điểm nghiên cứu đã khá lâu, trước khi có Pháp  
lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, như  luận văn cao cấp lý luận chính trị  của Nguyễn 
Quang Khải, năm 2004. Vì vậy, hướng đề tài mà tôi lựa chọn hy vọng sẽ làm sáng 
tỏ  hơn về  vấn đề  quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh 
Bắc Ninh hiện nay.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục tiêu nghiên cứu:
Luận văn từ việc khái quát những nhận thức chung về tôn giáo, về  quản lý 
nhà nước đối với tôn giáo và phân tích thực trạng công tác quản lý nhà nước đối  
với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong thời gian qua, đề xuất một  
số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà  

nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:
­ Làm rõ một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với tôn giáo.
­ Đánh giá được thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn  
giáo ở Bắc Ninh trong thời gian qua.


5
­ Đề  xuất một số  giải pháp, kiến nghị  nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả 
quản lý nhà nước về tôn giáo ở Bắc Ninh trong tình hình mới. 
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn 
giáo  ở  tỉnh Bắc Ninh. Phạm vi nghiên cứu,  về  không gian, là địa bàn tỉnh Bắc 
Ninh; về thời gian là từ khi có Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (năm 2004), đến nay.
5. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn:
Luận văn được triển khai dựa trên quan điểm của chủ  nghĩa Mác­Lênin, tư 
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về  tôn giáo và quản lý  
nhà nước đối với hoạt động tôn giáo. Luận văn cũng xuất phát từ  thực tiễn công 
tác quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở tỉnh Bắc Ninh thời gian qua. 
5.2. Phương pháp nghiên cứu: 
 

Triển khai luận văn này, tác giả  sử  dụng những nguyên tắc phương pháp 

luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời sử 
dụng các phương pháp của các khoa học cụ  thể, như tổng hợp và phân tích, khái  
quát hoá, thống kê, so sánh, lịch sử và lôgic, xã hội học, tôn giáo học. 
6. Đóng góp mới của luận văn
6.1. Về mặt lý luận:

Bước đầu luận văn làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước 
đối với tôn giáo; khái quát mang tính lý luận từ  thực tiễn công tác quản lý nhà 
nước đối với hoạt động tôn giáo ở Bắc Ninh.
6.2. Về mặt thực tiễn:
­ Luận văn có thể  được sử  dụng làm tài liệu tham khảo để  xây đựng chủ 
trương, biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo  
ở  Bắc Ninh và các tỉnh vùng đồng bằng miền Bắc có tình hình tôn giáo tương tự 
với Bắc Ninh.


6
­ Luận văn có thể  làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy và học tập tại  
trường Chính trị tỉnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở  đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn  
gồm 3 chương, 7 tiết.


7
Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ TÔN GIÁO, QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI 
TÔN GIÁO VÀ TÌNH HÌNH TÔN GIÁO Ở TỈNH BẮC NINH
1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ TÔN GIÁO VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TÔN 
GIÁO 

1.1.1. Nhận thức chung về tôn giáo
Tôn giáo, theo tiếng Latinh (Religare) có nghĩa là sự nối liền với cái tột cùng,  
như  sự  gắn bó với Chúa, với Thượng đế; hoặc được hiểu là sự  phản ánh mối  
quan hệ  giữa con người với thần thánh; giữa thế  giới vô hình với thế  giới hữu  
hình; giữa cái thiêng liêng với cái trần tục. 

Theo quan điểm mác­xít, tôn giáo không chỉ là một hình thái ý thức xã hội mà 
còn là một thực thể  xã hội. Với tư  cách là một hình thái ý thức xã hội, tôn giáo 
phản ánh hư ảo tồn tại xã hội, có kết cấu gồm: Tâm lý, tình cảm, niềm tin và hệ 
tư  tưởng tôn giáo. Còn với tính cách là một thực thể, hay một hiện tượng xã hội, 
tôn giáo thuộc thượng tầng kiến trúc xã hội, được quy định bởi hạ  tầng cơ  sở  xã  
hội. Cụ  thể  hơn, tôn giáo ra đời từ  3 nguồn gốc: Kinh tế  ­ xã hội, nhận thức và 
tâm lý. Là một hiện tượng xã hội, kết cấu của tôn giáo bao gồm cả  yếu tố  vật  
chất và tinh thần, mà thông thường là các yếu tố: ý thức (giáo lý), nghi lễ, luật lệ 
và tổ chức.
Cũng cần phân biệt tôn giáo với tín ngưỡng và mê tín dị  đoan. Tôn giáo và 
tín ngưỡng có sự khác nhau, song có quan hệ chặt chẽ, mà ranh giới để  phân biệt  
chỉ là rất tương đối. Tín ngưỡng có các nghĩa rộng, hẹp khác nhau, nghĩa rộng, đó 
là niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào một hiện tượng, một lực lượng, 
một điều gì đó, thông thường để  chỉ  một niềm tin tôn giáo; nghĩa hẹp là các hình 
thức khác với tôn giáo, như  người Việt Nam thường gọi “tín ngưỡng dân gian”. 
Còn mê tín dị đoan, đó là tình trạng người ta quá tin vào cái siêu nhiên, đến mất lý 


8
trí, mê muội, tốn tiền của và huỷ hoại sức khoẻ, thậm chí cả  sinh mạng, vậy nên 
“Hoạt động mê tín phải bị phê phán và loại bỏ”. [13]
Quan điểm mác ­ xít về tôn giáo không dừng lại ở vấn đề  bản chất, nguồn  
gốc, chức năng và tính chất của nó, mà còn rất quan tâm đến việc chỉ  ra thái độ,  
nguyên tắc của người cộng sản khi tiếp cận, giải quyết những vấn đề tôn giáo.
Về thái độ của người cộng sản đối với tôn giáo, mặc dù cho rằng, thế giới  
thống nhất ở tính vật chất, ngoài ra không có thế giới nào khác ngoài vật chất đang 
tồn tại và đương nhiên không có thần thánh, ma quỷ nào tồn tại ngoài những đam 
mê và dục vọng của chính con người, thế nhưng Chủ nghĩa Mác ­ Lênin không bao  
giờ chủ trương tuyên chiến với tôn giáo, mà ngược lại luôn tôn trọng niềm tin tôn 
giáo của nhân dân. C.Mác từng nói, kẻ nghịch đạo không phải là kẻ phỉ báng thần  

thánh của quần chúng mà chỉ là người đồng tình với quan điểm quần chúng, người 
sáng tạo ra thần thánh.
Có một số người cho rằng, chủ nghĩa Mác ­ Lênin mâu thuẫn tuyệt đối với  
đức tin tôn giáo, do đó không có thể dung hợp giữa chủ nghĩa xã hội và tôn giáo và  
lập  luận  này  là  không   đúng,  vì   đã  chủ  quan   đẩy  mâu  thuẫn,  từ   mâu  thuẫn   ở 
phương diện nhận thức ­ không đối kháng, trở thành mâu thuẫn đối kháng.
Lý tưởng của những người cộng sản là xây dựng “Thiên đường” nơi trần 
thế bằng bàn tay và khối óc của chính con người. Tuy vậy, người cộng sản không  
hề  có chủ  trương phủ  nhận tôn giáo mà thừa nhận nó như  một nhu cầu tất yếu 
của một bộ phận nhân dân trong tiến trình phát triển của lịch sử. Hơn nữa, tôn giáo 
và chủ  nghĩa xã hội có điểm tương đồng là đều mong muốn có một xã hội hạnh 
phúc, công bằng, bác ái, lấy điều thiện thắng điều ác.
“Đối với chúng ta, sự  thống nhất của cuộc đấu tranh thật sự  cách mạng đó 
của giai cấp bị áp bức để sáng tạo nên một cảnh cực lạc trên trái đất, là quan trọng 
hơn sự  thống nhất ý kiến của những người vô sản về  cảnh cực lạc trên thiên 
đường” [80, tr.174  ]. Rồi nữa, “Trong cương lĩnh của chúng ta, chúng ta không 
tuyên bố  và chúng ta không nên tuyên bố  chủ  nghĩa vô thần của chúng ta... Khắp 


9
nơi bọn tư sản phản động đã chú trọng...  khêu lên những sự  thù hằn tôn giáo, để 
làm cho quần chúng chú ý về  phía đó, khiến họ  không để  ý đến những vấn đề 
chính trị  và kinh tế  thật sự  quan trọng và chủ  yếu, những vấn đề  mà giai cấp vô  
sản toàn nước Nga, thực tế đoàn kết lại với nhau trong cuộc đấu tranh cách mạng 
của mình, hiện đang giải quyết” [80, tr.174­175 ]. 
C.Mác và Ph.Ăng ghen từng căn dặn người cộng sản: “Không thể  đả  kích 
tôn giáo dưới hình thức thù địch cũng như  dưới hình thức khinh bạc, chung cũng 
như riêng. Nghĩa là, nói chung không được đả kích vào nó”. [20, tr. 23]
Sau này, Lênin cũng viết: “Còn như tuyên chiến với tôn giáo, coi đó là nhiệm 
vụ  chính trị  của đảng công nhân, thì đó chỉ  là một luận điệu vô chính phủ  chủ 

nghĩa”. [81, tr.511.]
Vậy, theo chỉ dẫn của các nhà kinh điển mác ­ xít, Nhà nước của giai cấp vô 
sản nên xem tôn giáo là việc tư nhân, nghĩa là không nên phê phán những vấn đề 
thuộc thế  giới bên kia. Chuyện có thiên đường địa ngục, thần này thánh khác là 
vấn đề của thần học, của tôn giáo. Nhưng với tư  cách là chủ  thể  quản lý xã hội, 
trong đó có tôn giáo, thì Nhà nước có trách nhiệm và quyền hạn trên 2 vấn đề liên  
quan đến tôn giáo, đó là Pháp luật và chính trị. 
Theo chỉ dẫn đó, trong tiến trình cách mạng Việt Nam, nhà nước ta chưa bao  
giờ  có chủ  trương tiêu diệt tôn giáo, phủ  nhận thượng đế  của người có đạo, mà 
luôn tôn trọng quyền tự  do tín ngưỡng, nghiêm cấm phân biệt sự  đối xử  vì lý do  
tín ngưỡng, tôn giáo.
Vậy khi   giải  quyết   vấn  đề   tôn giáo,  chúng ta  cần phải  đứng  vững trên  
những nguyên tắc nào? Về điều này, theo quan điểm mác ­ xít, được khái quát trên 
4 nguyên tắc sau:
Một: Khắc phục dần những  ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền  
với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Nguyên tắc này xuất phát từ quan điểm duy vật lịch sử khi nhận thức và tác  
động vào tôn giáo. Theo đó, trước hết phải “Xoá bỏ  tình trạng nô lệ  về  mặt kinh  


10
tế, nguồn gốc thật sự của sự mê hoặc nhân loại bằng tôn giáo” [80, tr. 175]. Hay 
nói cách khác, muốn thay đổi ý thức xã hội, trước hết cần phải thay đổi bản thân  
tồn tại xã hội; muốn xoá bỏ ảo tưởng nảy sinh trong tư tưởng con người, phải xoá  
bỏ nguồn gốc sinh ra ảo tưởng ấy; phải xác lập được một xã hội hiện thực không 
có áp bức, bất công, nghèo đói và thất học... cùng các tệ nạn nảy sinh trong nó. Tất  
nhiên việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới là một quá trình lâu dài, đòi hỏi 
phải khai thác và phát huy tiềm năng của mọi cộng đồng xã hội, trong đó có đồng  
bào các tôn giáo. 
Hai: Tôn trọng và bảo đảm quyền tự  do tín ngưỡng và không tín ngưỡng  

của nhân dân. 
Các nhà kinh điển Mác ­ xít quan tâm không chỉ  tôn trọng quyền tự  do tín  
ngưỡng, mà còn cả  quyền tự  do không tín ngưỡng.   Tôn trọng quyền tự  do tín 
ngưỡng và không tín ngưỡng sẽ  bảo đảm quan hệ  tốt đẹp giữa những người vô 
thần và hữu thần, giữa những người có tín ngưỡng tôn giáo khác nhau.  Nội dung 
căn bản của quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng là:
­ Mọi công dân có quyền theo đạo, truyền đạo hoặc bỏ đạo; được hoàn toàn  
tự do theo tôn giáo mình thích hoặc không theo một tôn giáo nào. 
­ Tất cả mọi công dân có tín ngưỡng và không tín ngưỡng đều bình đẳng về 
nghĩa vụ và quyền lợi.
­ Tất cả mọi tôn giáo được công nhận tư cách pháp nhân đều bình đẳng như 
nhau. Nhà nước không coi tôn giáo nào là quốc đạo.   
Tuy nhiên cần chú ý rằng: Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng đồng thời phải  
chống lại những kẻ  lợi dụng tôn giáo vì mục đích phi tôn giáo, mặt khác, không 
dung túng cho những kẻ hành nghề mê tín dị đoan.
Ba: Có quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo.           
Nguyên tắc này có một ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Nó đòi hỏi chủ  thể  lãnh  
đạo, quản lý xã hội khi giải quyết vấn đề  tôn giáo phải phù hợp với không gian,  


11
thời gian cụ  thể, như  Lênin đã nhắc nhở: “Người mác ­ xít phải biết chú ý đến 
toàn bộ tình hình cụ thể” [81, tr. 518]   
Bốn: Cần phân biệt hai mặt: nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo và việc chính trị  
lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo.
Việc phân biệt vấn đề  chính trị  và tư  tưởng trong các hoạt động tôn giáo  
trên thực tế là vấn đề  không đơn giản, nhưng lại đòi hỏi phải phân biệt rõ, từ  đó  
mới có giải pháp chính xác. Trong đó, mặt nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo phải được  
giải quyết bằng chính sách tự  do tín ngưỡng, tôn giáo; còn mặt chính trị  lợi dụng 
tín ngưỡng, tôn giáo phải được giải quyết bằng giải pháp chính trị. Việc áp dụng 

lẫn lộn các loại giải pháp, cũng như  tuyệt đối hoá một loại giải pháp nào đó đều 
là tai hại cho cả tôn giáo và cho chính trị cầm quyền.
Kế  thừa và vận dụng quan điểm của Chủ  nghĩa Mác ­ Lênin về  tôn giáo, 
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những tư tưởng đặc sắc về vấn đề này. 
Trước hết cần thấy, tư tưởng của Người về tín ngưỡng, tôn giáo là sự vận 
dụng sáng tạo và phát triển Chủ  nghĩa Mác ­ Lênin vào hoàn cảnh lịch sử  cụ  thể 
của Việt Nam. Với Người, “Bây giờ  học thuyết nhiều, chủ  nghĩa nhiều, nhưng  
chủ  nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ  nghĩa Lênin” 
[46, tr.268]. Nhưng, xuất phát từ đặc điểm lịch sử, văn hoá của dân tộc Á ­ Đông, 
Hồ Chí Minh cho rằng: “C.Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý  
nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó  
chưa phải là toàn thể nhân loại... Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của  
nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông. Đó chính là nhiệm vụ mà các Xô 
viết đảm nhiệm (ban thuộc địa của chúng tôi vừa nhận được thư   mời chúng tôi 
tham gia công tác này)” [45, tr.465].
Cũng trên quan điểm duy vật về  lịch sử  của chủ nghĩa Mác­Lênin, Hồ  Chí  
Minh luôn nhấn mạnh đến việc phải xây dựng một xã hội tiến bộ thì mới có thể 
giải quyết được vấn đề  tôn giáo một cách tốt đẹp. Từ chỗ  nhấn mạnh: Tôn giáo 


12
không hề đối lập với CNXH, Người đã chăm lo chu đáo đến đồng bào có tôn giáo  
theo tinh thần “phần xác no ấm, phần hồn thong dong”. 
Trong  ứng xử  với tín đồ, chức sắc tôn giáo, Người thể  hiện nổi bật tư 
tưởng hoà hợp, khoan dung, đó là sự cảm thông, chấp nhận và tôn trọng cái dị biệt, 
miễn là không trái với lợi ích chung của dân tộc, từ  đó mà đạt được mục tiêu  
tương đồng. Chính vì thế, đồng bào Phật tử  thấy Hồ  Chí Minh như  "Hiện thân"  
của vị  “Bồ  tát Quán Thế  Âm”  vì   "nhân duyên" dân tộc Việt Nam đau thương  
"trầm luân" trong nỗi nhục mất nước  ở cõi "Sha­ bà" mà xuống cứu khổ cứu nạn.  
Ngày nay, trong Phật giáo và trong xã hội Việt Nam, tên Hồ  Chí Minh được gán 

với quả vị Phật giáo, là Bồ tát Hồ Chí Minh. Còn đồng bào đạo Công giáo và đạo  
Tin lành luôn khâm phục và cảm động về việc, Người đã nguyện hy sinh cho Việt  
Nam độc lập, cho thế  giới hoà bình, nên thấy Người như  bóng dáng của  "Đức  
Chúa Ki­Tô” hy sinh thân mình để cứu chuộc nhân loại. 
Tư   tưởng   Hồ   Chí   Minh   về   tôn   giáo   với   tính   cách   là   những   quan   điểm, 
nguyên tắc, tác giả khái quát như sau: 
Thứ  nhất, xử  lý đúng đắn mối quan hệ  giữa tôn giáo với dân tộc, tôn giáo 
với cách mạng và tôn giáo với giai cấp, đó phải là nội dung cốt lõi trong chủ 
trương, chính sách tôn giáo của cách mạng Việt Nam. 
Thứ  hai, luôn phải có tinh thần vận dụng, phát triển nguyên lý chủ  nghĩa 
Mác ­ Lênin và tham khảo kinh nghiệm của các nước khác về  vấn đề  tôn giáo, 
xem đó là cơ  sở  quyết định cho việc xây dựng đường lối, chủ  trương, chính sách 
tôn giáo phù hợp với từng giai đoạn cách mạng Việt Nam.
Thứ ba, tôn trọng tự do tín ngưỡng phải đi đôi với đấu tranh chống mọi âm 
mưu lợi dụng tôn giáo; phải khắc phục những mặc cảm tôn giáo, những hành vi 
làm tổn thương đến tình cảm quần chúng tín đồ.
Tư  tưởng Hồ  Chí Minh về  tôn giáo đã bổ  sung cho Chủ  nghĩa Mác ­ Lênin 
và nó có sức sống từ thực tiễn của đất nước, dân tộc ta, để  người cộng sản Việt  
Nam có thái độ mềm mại hơn, khách quan hơn đối với tôn giáo. 


13
1.1.2. Quản lý nhà nước đối với tôn giáo
1.1.2.1. Khái niệm "Quản lý nhà nước" và “Quản lý nhà nước đối với  
tôn giáo”
Khái niệm “quản lý nhà nước” được hiểu ở cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước là dạng quản lý xã hội của Nhà nước, sử 
dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi hoạt động  
của con người do tất cả  các cơ  quan Nhà nước (Lập pháp, Hành pháp, Tư  pháp) 
tiến hành để thực hiện các chức năng của Nhà nước đối với xã hội.

Theo nghĩa hẹp, quản lý Nhà nước là dạng quản lý xã hội mang quyền lực  
Nhà nước với chức năng chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật của  
các cơ quan trong hệ thống hành pháp (Chính phủ, UBND các cấp).
Giáo trình Quản lý hành chính nhà nước của Học viện Hành chính quốc gia  
đã nêu: QLNN là hoạt động của Nhà nước trên lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư 
pháp nhằm thực hiện chức năng đối nội, đối ngoại của Nhà nước; là dạng quản lý 
xã hội mang tính quyền lực nhà nước, được sử dụng quyền lực Nhà nước để điều  
chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của con người [38].
Vậy, chủ  thể  QLNN là các cá nhân hay tổ  chức mang quyền lực Nhà nước 
tác động tới đối tượng quản lý. Còn đối tượng QLNN là toàn bộ  công dân Việt 
Nam và những người không phải là công dân Việt Nam đang sống, làm việc trên 
lãnh thổ Việt Nam cùng toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Từ  các khái niệm quản lý nhà nước như  trên, khái niệm quản lý nhà nước  
đối với tôn giáo cũng được hiểu theo hai nghĩa, rộng và hẹp.
Nghĩa rộng: Đó là quá trình dùng quyền lực nhà nước (quyền lập pháp, hành 
pháp, tư pháp) của các cơ quan Nhà nước theo qui định của pháp luật để tác động,  
điều chỉnh, hướng các quá trình tôn giáo và hành vi hoạt động tôn giáo của tổ chức,  
cá nhân tôn giáo diễn ra phù hợp với pháp luật, đạt được mục tiêu cụ thể quản lý.
Nghĩa hẹp: Đó là quá trình chấp hành pháp luật và tổ  chức thực hiện pháp  
luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp (Chính phủ  và UBND các cấp) để 


14
điều chỉnh các quá trình tôn giáo và mọi hành vi hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá  
nhân tôn giáo diễn ra theo đúng qui định của pháp luật.
Theo đó, QLNN đối với tôn giáo  ở  cả  2 nghĩa rộng, hẹp, đều tập trung, 
trước hết và chủ  yếu là quản lý các “hoạt động tôn giáo”. Cụ  thể  hơn, đó là các 
hoạt động tôn giáo liên quan,  ảnh hưởng trực tiếp đến các lĩnh vực của đời sống  
xã   hội.   Hoạt   động   đó   là   gì?   Về   việc   này,   tại   khoản   5,   điều   3   Pháp   lệnh   tín 
ngưỡng, tôn giáo đã nêu: “Hoạt động tôn giáo là việc truyền bá, thực hành giáo lý,  

giáo luật, lễ nghi, quản lý tổ chức của tôn giáo”[77, tr.2].
Truyền bá giáo lý, giáo luật  (còn gọi là truyền đạo) là việc tuyên truyền 
những lý lẽ  về  sự  ra đời, về  luật lệ  tôn giáo. Thông qua hoạt động truyền đạo,  
niềm tin tôn giáo của tín đồ  được củng cố, luật lệ  của tôn giáo được các tín đồ 
thực hiện. Còn người chưa phải là tín đồ, hoạt động truyền đạo giúp họ  hiểu, tin 
và theo tôn giáo. Vậy, hoạt động truyền đạo chính là để củng cố  và phát triển tín  
đồ. Tất nhiên, việc truyền đạo phải tuân thủ  các quy định của pháp luật và nội  
dung, phương pháp truyền đạo phải đúng với giáo lý của tôn giáo đó.
Thực hành giáo luật, lễ nghi (còn gọi là hành đạo) là hoạt động của tín đồ, 
chức sắc, nhà tu hành tôn giáo thể  hiện sự  tuân thủ  nghiêm ngặt những quy định, 
phép tắc, thoả mãn đức tin tôn giáo của cá nhân hay cộng đồng tín đồ.
Hoạt động quản lý tôn giáo là các tổ  chức, giáo hội tôn giáo thực hiện các 
quy định của giáo luật, thực hiện hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo, đảm 
bảo duy trì trật tự, hoạt động trong tổ chức tôn giáo.
Trong các hoạt động đó, việc phân định ranh giới giữa hoạt động truyền đạo 
với hoạt động hành đạo cũng chỉ  là tương đối, có không ít trường hợp trong hoạt  
động hành đạo có hoạt động truyền đạo.
Từ  đó chúng ta thấy, chủ  thể  QLNN về  tôn giáo  nếu theo nghĩa rộng của 
khái niệm, thì đó là các cơ  quan nhà nước thuộc hệ thống lập pháp, hành pháp và  
tư  pháp; còn theo  nghĩa hẹp, nó chỉ  gồm các cơ  quan nhà nước thuộc hệ  thống 
hành pháp các cấp.


15
Còn khách thể  QLNN đối với tôn giáo, đó là hoạt động tôn giáo của các tổ 
chức tôn giáo, của tín đồ, chức sắc, nhà tu hành.  Là công dân Việt Nam, tín đồ, 
chức sắc tôn giáo, nhà tu hành vừa mang những đặc điểm chung của người Việt 
Nam, nhưng đồng thời cũng có những nét đặc trưng riêng của người có đạo. 
Chúng tôi, trong luận văn này thường dùng khái niệm “QLNN đối với tôn 
giáo”, hoặc “QLNN về  tôn giáo”, khi đó được hiểu là “QLNN đối với các hoạt  

động tôn giáo”.
Theo Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, tín đồ, đó là những người tin theo một  
tôn giáo và được tổ chức tôn giáo thừa nhận. Chức sắc tôn giáo là tín đồ  có chức 
vụ, phẩm sắc trong tôn giáo. Còn nhà tu hành, đó là tín đồ  tự  nguyện thực hiện 
thường xuyên nếp sống riêng theo giáo lý, giáo luật của tôn giáo mà mình tin theo. 
[77, tr.2]. Người làm công tác QLNN đối với tôn giáo, với họ,  có một đòi hỏi bắt  
buộc là phải nắm vững về đặc điểm của tín đồ, chức sắc các tôn giáo, với tư cách 
là khách thể QLNN.
Ở nước ta, tín đồ tôn giáo có đặc điểm là: Đa số họ là nông dân, vốn có bản 
chất cần cù lao động, có lòng yêu nước nồng nàn, căm thù kẻ  xâm lược và tầng  
lớp bóc lột. Song bên cạnh đó, do cả  vô thức và ý thức, một số  tín đồ  hoạt động 
tôn giáo chưa tuân thủ pháp luật, tai hại hơn, bị các thế lực thù địch lợi dụng, nghe  
theo kẻ xấu tham gia vào các vụ việc phức tạp, điểm nóng tôn giáo. Một đặc điểm  
khác là, trong mỗi tín đồ đều có sự thống nhất (nhưng không đồng nhất) giữa mặt  
công dân và mặt tín đồ. Là công dân, họ  có mọi quyền và nghĩa vụ  đối với nhà 
nước như  mọi công dân khác. Là người có tín ngưỡng tôn giáo, họ  có niềm tin  ở 
Chúa, Phật..., có quyền lợi và trách nhiệm đối với giáo hội. Đây chính là đặc điểm 
quan trọng cần phải nắm vững.
Còn chức sắc, nhà tu hành tôn giáo cũng có những đặc điểm chung của một  
tín đồ, song họ còn có các đặc điểm riêng. Đó là: Họ là những người được tổ chức 
tôn giáo lựa chọn, đào tạo cơ bản, nên có năng lực quản đạo và trình độ thần học  
cao; được tổ  chức tôn giáo phong chức, phong phẩm. Họ  đại diện  ở  những mức  


16
độ  khác nhau cho các tổ  chức tôn giáo. Họ  vừa chăn dắt tín đồ, vừa quản lý nền  
hành chính đạo theo thẩm quyền. Trong quan hệ với tín đồ, họ là những người rất 
gần gũi, nắm bắt kịp thời tâm tự, nguyện vọng của tín đồ. Như  thế, họ  có vị  trí, 
vai trò và  ảnh hưởng rất lớn, rất sâu sắc trong tín đồ, được tín đồ  yêu quí, trân 
trọng và bảo vệ.

Tiếp nữa, người làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo cũng phải nắm 
vững đặc điểm của tổ chức tôn giáo. Đó là: Tổ chức tôn giáo điều hành các hoạt 
động tôn giáo; đại diện cho tín đồ trong quan hệ với Nhà nước và với các tổ chức  
khác có liên quan. Mỗi tôn giáo có bộ  máy tổ  chức riêng, hoạt động theo hiến  
chương, điều lệ của mình. Các tôn giáo có tư cách pháp nhân đều thể hiện đường 
hướng hành đạo gắn bó, đồng hành cùng dân tộc. Đa số  các tổ  chức tôn giáo có  
liên hệ đồng đạo với tổ chức tôn giáo nước ngoài. 
Ngoài ra, khách thể QLNN về tôn giáo còn có cả cơ sở vật chất phục vụ các 
sinh hoạt tôn giáo. Trong đó, cơ sở thờ tự không đơn giản chỉ là một thực thể vật  
chất, mà còn bao hàm ý nghĩa thiêng liêng, hội họp, văn hóa... Còn đồ  dùng việc  
đạo như kinh sách, tượng thờ, tranh ảnh, hoành phi, câu đối, lư hương, chuông mõ,  
nhạc cụ,…mỗi thứ có chức năng, công dụng riêng trong sinh hoạt tôn giáo, nhưng 
đều có đặc điểm là có giá trị  vật chất và có ý nghĩa biểu đạt. Ngoài ra, phục vụ 
cho sinh hoạt tôn giáo cộng đồng còn có vườn hoa, trường học, nhà dòng, cơ sở từ 
thiện, nhà trẻ, bệnh xá,… Nó là tài sản của giáo hội và là nơi diễn ra các hoạt  
động tôn giáo, được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giao cho 
tổ chức tôn giáo quản lý.
Như vậy, việc nắm chắc những đặc điểm của khách thể quản lý là một yêu  
cầu tiên quyết đối với chủ  thể  quản lý, giúp cho công tác QLNN về  tôn giáo có 
hiệu lực mạnh và hiệu quả cao.
Một vấn đề khác cũng cần nhận thức rõ, đó là vấn đề pháp nhân và thể nhân 
tôn giáo.  Pháp nhân tôn giáo,  đó  là bộ  máy tổ  chức tôn giáo đã được Nhà nước  


17
công nhận. Còn thể nhân tôn giáo, đó là cá nhân tôn giáo (tín đồ) được tổ chức tôn giáo 
công nhận.
1.1.2.2. Tính tất yếu tăng cường QLNN đối với tôn giáo 
Vì sao phải tăng cường công tác QLNN đối với tôn giáo, việc này được xuất 
phát từ các lý do khách quan và cơ bản.

Thứ  nhất, hoạt động tôn giáo có liên quan đến tất cả  các lĩnh vực của đời  
sống xã hội, do đó, với chức năng quản lý xã hội của mình, để đảm bảo cho xã hội  
ổn định, phát triển bình thường, tất yếu Nhà nước phải tăng cường quản lý các  
hoạt động tôn giáo.
Thứ hai, sự nghiệp đổi mới do Đảng ta lãnh đạo diễn ra trên tất cả các lĩnh 
vực của đời sống xã hội, trong đó có đời sống tôn giáo, vậy để  đường lối, chính 
sách, pháp luật được hiện thực hoá, để đồng bào có và không có tôn giáo đoàn kết 
trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo động lực cho sự  thành công của công  
cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nhà nước phải tăng cường quản lý các hoạt  
động tôn giáo.
Thứ  ba, các thế  lực thù địch luôn tìm mọi cách lợi dụng tôn giáo hống phá  
cách mạng, vậy để đập tan âm mưu đó và để đồng bào lương ­ giáo tích cực tham 
gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tất yếu Nhà nước phải tăng cường quản lý các  
hoạt động tôn giáo.
Thứ tư, Việt Nam mở cửa, hội nhập để phát triển, theo đó, các thế lực thù địch 
cũng thông qua con đường hợp tác, liên doanh, du lịch... thâm nhập vào những vùng 
nhạy cảm về tôn giáo, mua chuộc một số chức sắc, tín đồ tôn giáo, vậy để hội nhập 
quốc tế  có nhiều thành công, Nhà nước phải tăng cường quản lý các hoạt động 
tôn giáo.
1.1.2.3. Mục tiêu, nguyên tắc và nội dung của QLNN về tôn giáo
Nội dung cơ  bản của QLNN về  tôn giáo được ghi nhận tại Pháp lệnh tín  
ngưỡng, tôn giáo và được cụ  thể  hoá tại Nghị  định số  22 của Chính phủ, hướng  


18
dẫn thực hiện Pháp lệnh trên. Còn trước Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, Nhà nước  
ta mới chỉ có Nghị định số 69 (năm 1991), Quy định về các hoạt động tôn giáo, và 
Nghị  định số  26 (năm 1999), Về  các hoạt động tôn giáo. Như  vậy, cho đến thời 
điểm này, công cụ trực tiếp cho QLNN về tôn giáo chính là Pháp lệnh tín ngưỡng,  
tôn giáo, còn luật thì chưa có.

Vì thế vừa qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, ở  nội 
dung tôn giáo, Báo cáo chính trị đã nêu: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật  
về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng. Phát huy những giá trị 
văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; động viên các tổ  chức tôn giáo, chức  
sắc, tín đồ  sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây  
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quan tâm và tạo mọi điều kiện cho các tổ chức tôn giáo  
sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ  của các tổ  chức tôn giáo đã được nhà nước 
công nhận, đúng quy định của pháp luật. Đồng thời chủ  động phòng ngừa, kiên 
quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia  
rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc” [33, tr.245].
Còn trong Cương lĩnh xây dựng đất nước ­ bổ  sung, phát triển, năm 2011, 
khẳng định: “Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín  
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và xử  lý 
nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín 
ngưỡng tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân” [33, tr.81].
Theo đó, quan điểm về vấn đề tôn giáo tại đây có những điểm mới là  “Tiếp 
tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về  tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan  
điểm của Đảng”; “quan tâm và tạo mọi điều kiện cho các tổ  chức tôn giáo sinh  
hoạt theo hiến chương, điều lệ  của các tổ  chức tôn giáo đã được nhà nước công 
nhận, đúng quy định của pháp luật”. 
Từ đó, công tác QLNN về tôn giáo, từ mục tiêu, nguyên tắc và nội dung cho 
đến phương pháp, cần phải được xác định rõ và bổ  sung cho phù hợp với quan 
điểm của Đảng. Về mục tiêu, theo chúng tôi, đó là:


19
Thứ  nhất, QLNN đối với tôn giáo trước hết phải bảo đảm được quyền tự 
do tín ngưỡng, tôn giáo và tự  do không tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, để  các 
hoạt động tôn giáo được diễn ra bình thường, theo hướng tuân thủ  pháp luật.  
Rằng: “Người có tín ngưỡng, tín đồ được tự do bày tỏ đức tin, thực hành các nghi  

thức thờ cúng, cầu nguyện và tham gia các hình thức sinh hoạt, phục vụ lễ hội, lễ 
nghi tôn giáo và học tập giáo lý tôn giáo mà mình tin theo" [77, tr3].
Thứ hai, QLNN đối với hoạt động tôn giáo phải phát huy được những gia trị 
văn hoá và mặt tích cực, khắc phục những hạn chế, tiêu cực của tôn giáo trong sự 
phát triển của đất nước theo định hướng XHCN.
Thứ ba, QLNN đối với tôn giáo phải góp phần củng cố, phát triển đồng bào 
có và không có tín ngưỡng, tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cùng 
chung sức, chung lòng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ tư, QLNN về tôn giáo phải đảm bảo tăng cường được vai trò lãnh đạo  
của Đảng, quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo.
Với mục tiêu đó, công tác QLNN đối với tôn giáo phải được dựa trên 3  
nguyên tắc sau:
Một, phải đứng vững trên đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà 
nước về tôn giáo.
Hai,  phải đảm bảo để  mọi tôn giáo hoạt động theo hướng tuân thủ  hiến 
pháp, pháp luật; để  những hoạt động tôn giáo ích nước, lợi dân, vì lợi ích chính 
đáng và hợp pháp của tín đồ được đảm bảo; hoạt động mê tín dị đoan phải bị phê  
phán và loại bỏ.
Ba, phải xử  lý nghiêm minh, đúng pháp luật mọi hành vi lợi dụng tôn giáo  
để chống phá chế độ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. 
Còn về nội dung QLNN đối với tôn giáo, xuất phát từ quan điểm của Đảng 
và theo quy định pháp lý, có thể khái quát như sau:
Trước hết, với tính cách là một quy trình của QLNN đối với tôn giáo thì bao  
gồm những nội dung:


20
­ Xây dựng chiến lược dài hạn, kế hoạch năm năm và hàng năm thuộc lĩnh  
vực tôn giáo;
­ Ban hành các văn bản qui phạm pháp luật đối với hoạt động tôn giáo;

­ Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật đối với hoạt động tôn giáo;
­ Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đối với hoạt động tôn giáo;
­ Qui định tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo;
­ Qui định về việc phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong công tác quản 
lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo;
­ Tổ  chức quản lý công tác nghiên cứu, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công 
chức làm công tác tôn giáo;
­ Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật  
về hoạt động tôn giáo.
Tất cả  những nội dung trên đều có ý nghĩa xác định cụ  thể, nhưng lại có 
mối quan hệ mật thiết với nhau, vì thế không thể xem nhẹ một nội dung nào. 
Tiếp theo, QLNN về tôn giáo với tính cách là giải quyết bằng quyền lực nhà  
nước các hoạt động tôn giáo ở  những lĩnh vực cụ  thể khác nhau, thì nó bao gồm  
các nội dung sau:
­ Quản lý nhà nước các hoạt động tín ngưỡng;
­ Quản lý việc đăng kí hoạt động của tổ chức tôn giáo và công nhận tổ chức 
tôn giáo; 
­ Quản lý việc chia tách, sáp nhập, hợp nhất các tổ chức tôn giáo trực thuộc;
­ Việc đăng kí người vào tu và hoạt động của dòng tu, tu viện, hội đoàn tôn  
giáo;
­ Quản lý việc phong chức, phong phẩm, bổ  nhiệm, bầu cử, suy cử; cách 
chức, bãi nhiệm, thuyên chuyển trong tôn giáo;
­ Quản lý về đại hội, hội nghị của tổ chức tôn giáo;
­ Về  việc đăng kí hoạt động tôn giáo (thường xuyên, đột xuất, ngoài cơ  sở 
tôn giáo);


21
­ Quản lý việc xây, sửa, cải tạo các công trình tôn giáo;
­ Về đất đai, tài sản tôn giáo;

­ Về hoạt động in ấn, xuất bản, phát hành các ấn phẩm tôn giáo;
­ Quản lý việc kinh doanh, xuất, nhập khẩu kinh sách tôn giáo và đồ  dùng 
việc đạo; 
­ Quản lý việc mở trường, lớp đào tạo, bồi dưỡng những người hoạt động 
tôn giáo chuyên nghiệp, giải thể trường đào tạo;
­ Quản lý việc quyên góp; hoạt động từ  thiện nhân đạo của các tôn giáo; 
­ Quản lý việc quan hệ quốc tế của các tổ chức và cá nhân tôn giáo; 
­ Quản lý về việc đình chỉ hoạt động tôn giáo.
Những nội dung quản lý như  trên được quy định tại Pháp lệnh tín ngưỡng,  
tôn giáo và trong Nghị  định số  22/2005/NĐ­CP. Tuy nhiên cho đến nay, nó đã và 
đang có nhu cầu phải bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Về vấn đề này, chúng tôi  
sẽ đề cập ở các chương sau.
QLNN đối với tôn giáo có một số phương pháp chủ yếu được áp dụng như:  
Phương pháp giáo dục, thuyết phục, phương pháp hành chính, phương pháp kinh 
tế, phương pháp cưỡng chế và phương pháp tổng hợp.
Như vậy, QLNN đối với tôn giáo là tất yếu, không chỉ ở nước ta mà còn đối 
với các nước khác. Tuy nhiên, về  mục đích, nội dung cụ  thể  của QLNN về  tôn 
giáo cũng khác nhau qua mỗi giai đoạn. Vậy, chủ thể quản lý cần nắm vững quan 
điểm lịch sử cụ thể để công tác này có hiệu quả, hiệu lực cao nhất.
1.2. TÌNH HÌNH TÔN GIÁO Ở BẮC NINH

1.2.1. Một số đặc điểm của tỉnh Bắc Ninh liên quan đến tôn giáo
Bắc Ninh là tỉnh thuộc vùng đồng bằng Bắc bộ, nằm gọn trong châu thổ 
sông Hồng, liền kề  với thủ  đô Hà Nội. Phía Bắc Bắc Ninh giáp tỉnh Bắc Giang,  
phía  Nam   giáp   tỉnh  Hưng  Yên  và   một  phần  Hà  Nội,  phía  Đông  giáp  tỉnh  Hải 
Dương và phía Tây giáp thủ đô Hà Nội. Bắc Ninh có nhiều thuận lợi cho sự  phát  
triển toàn diện trên các lĩnh vực xã hội và cũng là địa bàn mở rộng của Hà Nội qua 



×