HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ HÀNH CHÍNH QUỐC GIA TP.HCM
LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH CÔNG
ĐỀ TÀI:
Hoàn thiện quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
GVHD : PGS.TS.Ngô Hữu Thảo
HVTH : Hà Thị Xuyên
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BHG
CNHHĐH
CNLĐ
CNXH
CSVN
GHPG
HĐND
HTCT
MTTQ
QLNN
TCN
UBĐK
UBND
UBTV
UBTVQH
XHCN
Ban Hành giáo
Công nghiệp hoá Hiện đại hoá
Công nhân lao động
Chủ nghĩa xã hội
Cộng sản Việt Nam
Giáo hội Phật giáo
Hội đồng nhân dân
Hệ thống Chính trị
Mặt trận Tổ quốc
Quản lý nhà nước
Trước Công nguyên
Uỷ ban Đoàn kết
Uỷ ban nhân dân
Uỷ ban Thường vụ
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1
Trang
1
6
NHẬN THỨC CHUNG VỀ TÔN GIÁO, QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI TÔN GIÁO VÀ TÌNH HÌNH TÔN GIÁO
Ở TỈNH BẮC NINH
1.1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ TÔN GIÁO VÀ QLNN ĐỐI VỚI TÔN
6
GIÁO
1.1.1 Nhận thức chung về tôn giáo
1.1.2 Quản lý nhà nước đối với tôn giáo
1.2
TÌNH HÌNH TÔN GIÁO Ở BẮC NINH
1.2.1 Một số đặc điểm của tỉnh Bắc Ninh liên quan đến tôn giáo
1.2.2 Tình hình tôn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
Chương 2
6
11
19
19
21
29
CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TÔN GIÁO
Ở BẮC NINH VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
2.1
SỰ CHỈ ĐẠO CỦA TỈNH UỶ, UBND TỈNH VÀ TỔ CHỨC BỘ MÁY
29
LÀM CÔNG TÁC QLNN VỀ TÔN GIÁO Ở BẮC NINH
2.1.1 Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Bắc Ninh chỉ đạo công tác Tôn giáo
2.1.2 Tổ chức bộ máy làm công tác QLNN về tôn giáo ở Bắc Ninh
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
2.2
29
33
35
TÔN GIÁO Ở BẮC NINH
2.2.1 Quản lý về hoạt động xây dựng, trùng tu, sửa chữa cơ sở thờ tự
2.2.2 Quản lý đối với việc phong chức, phong phẩm và hoạt động
thuyên chuyển của các chức sắc
Quản lý việc đào tạo, bồi dưỡng chức sắc
Công tác quản lý đối với các hoạt động từ thiện, nhân đạo
Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
Quản lý hoạt động truyền đạo trái pháp luật
Quản lý các hoạt động khác
Công tác phối hợp
2.2.3
2.2.4
2.2.5
2.2.6
2.2.7
2.2.8
MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO CÔNG TÁC QLNN ĐỐI VỚI TÔN
2.3
GIÁO Ở BẮC NINH
2.3.1 Vấn đề đặt ra từ phương diện khách thể quản lý
2.3.2 Vấn đề đặt ra từ phương diện chủ thể quản lý
35
37
38
39
41
42
43
43
47
47
50
Chương 3
53
DỰ BÁO TÌNH HÌNH, GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ
NHẰM NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QLNN
3.1
ĐỐI VỚI TÔN GIÁO Ở BẮC NINH
DỰ BÁO TÌNH HÌNH TÔN GIÁO VÀ YÊU CẦU ĐỐI VỚI CÔNG
TÁC QLNN VỀ TÔN GIÁO Ở BẮC NINH THỜI GIAN TỚI
3.1.1 Dự báo tình hình các tôn giáo ở Bắc Ninh
3.1.2 Một số yêu cầu từ xu hướng tôn giáo ở Bắc Ninh đối với
53
53
55
QLNN về tôn giáo ở Bắc Ninh
3.2
GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
57
QLNN VỀ TÔN GIÁO Ở BẮC NINH
3.2.1 Tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách
57
nhiệm của HTCT về công tác tôn giáo và QLNN đối với tôn
giáo
3.2.2 Công tác quản lý nhà nước cần tăng cương, tập trung hơn nữa
58
tới các hoạt động có tính trọng điểm, phức tạp của tôn giáo trên
địa bàn
3.2.3 Công tác QLNN cần quan tâm hơn đến công tác vận động quần
61
chúng, tín đồ, chức sắc các tôn giáo và xây dựng lực lượng
chính trị ở cơ sở
3.2.4 Tăng cường công tác tổ chức cán bộ, công chức làm công tác
65
QLNN về tôn giáo
3.2.5 Xây dựng và hoàn thiện phương pháp công tác tôn giáo và
68
QLNN về tôn giáo
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.3
3.3.1 Đối với Trung ương
3.3.2 Đối với tỉnh Bắc Ninh
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
69
69
71
74
75
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Tôn giáo không chỉ là một hình thái ý thức xã hội mà còn là một thực thể xã
hội, ra đời và phát triển từ cả ngàn năm nay. Từ khi ra đời, tôn giáo đã trải qua
những thăng trầm và không ngừng biến đổi theo sự biến đổi của tồn tại xã hội,
nhưng chung nhất, nó luôn là một nhu cầu tinh thần của đa số nhân loại. Trong quá
trình tồn tại và phát triển, tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội và đến tập quán của nhiều quốc gia, của các tộc người trong một
quốc gia, theo cả các chiều: tích cực và tiêu cực. Những năm gần đây, tôn giáo trên
thế giới không chỉ phục hồi và phát triển, đáp ứng nhu cầu tâm linh của con người,
mà còn làm nảy sinh không ít cuộc xung đột giữa các dân tộc trong một quốc gia,
hay giữa các quốc gia với nhau.
Ở Việt Nam cũng vậy, là một quốc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn
giáo đang có xu hướng phát triển mạnh, đến nay năm 2011, Nhà nước ta đã công
nhận tư cách pháp nhân cho 13 tôn giáo, với 33 tổ chức Giáo hội. Trong đó, các tôn
giáo bản địa (nội sinh) và các tôn giáo được du nhập từ nước ngoài vào (ngoại
sinh) đều được tạo điều kiện bình đẳng hoạt động theo pháp luật. Tình hình đó
như là sự phản ánh về quá trình đất nước đổi mới, Việt Nam đã có sự phát triển
khá mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đời sống vật chất cũng
như tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, vì thế tôn giáo càng được khẳng
định rõ hơn, là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân.
Nhưng, bên cạnh những sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội lành mạnh,
tuân thủ pháp luật, thì vẫn còn có hiện t ượng một số người lợi dụng tín ngưỡng,
tôn giáo để hành nghề mê tín dị đoan, mê hoặc nhân dân, cao hơn, phá hoại khối
đại đoàn kết toàn dân tộc... Trước tình hình đó, công tác quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo càng cần phải được tăng cường, không chỉ trên bình diện vĩ mô
mà còn ở các khu vực, các địa phương trong cả nước.
2
Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là một nhiệm vụ quan trọng và
có ý nghĩa quyết định sự thành bại của công tác tôn giáo trong tình hình mới. Các
Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng về công tác tôn giáo đều nhấn mạnh đến vai trò của
công tác này và việc: “Tăng cường quản lý nhà nước về tôn giáo” là một trong
những giải pháp chủ yếu của công tác tôn giáo hiện nay.
Bắc Ninh là một tỉnh thuộc miền Bắc nước ta, là cửa ngõ phía Bắc của Thủ
đô Hà Nội. Tỉnh Bắc Ninh mặc dù có diện tích không lớn, nhưng dân số lại đông
và có vị trí địa lý chính trị quan trọng, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của đồng
bằng Châu thổ Sông Hồng, có nguồn nhân lực dồi dào và là tỉnh vốn có truyền
thống ngàn năm văn hiến và cách mạng.
Số lượng và quy mô tôn giáo ở Bắc Ninh cũng không lớn, song lại là vị trí
“địa tôn giáo” rất quan trọng. Đó là, về đạo Công giáo, Bắc Ninh có Toà Giám
mục, là trung tâm, đầu não của Giáo phận Bắc Ninh, gồm 12 tỉnh khác nhau. Còn
Phật giáo, Bắc Ninh từng có trung tâm Luy Lâu mà gần hai nghìn năm trước đã
được xem là một trung tâm Phật giáo lớn, bằng hoặc hơn cả trung tâm Phật giáo
Lạc Dương và Bành Thành của Trung Quốc, còn đến nay, tên chùa Dâu, Keo, Phật
Tích vẫn nức tiếng toàn cõi Việt Nam. Hiện nay bên cạnh 2 tôn giáo chính là Phật
giáo và Công giáo, trên địa bàn Bắc Ninh đã xuất hiện cả đạo Tin Lành, một tôn
giáo được xem là tôn giáo của thời CNH, HĐH.
Trong những năm qua tình hình tôn giáo, tín ngưỡng trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh ổn định, sinh hoạt tôn giáo và đời sống tín ngưỡng, tôn giáo diễn ra bình
thường đúng với chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Đại bộ
phận chức sắc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo trong tỉnh an tâm, phấn khởi, tin
tưởng vào sự nghiệp đổi mới của Đảng, về những thành tựu phát triển kinh tế xã
hội của đất nước; tích cực tham gia phát triển kinh tế xã hội, các hoạt động từ
thiện, nhân đạo, xây dựng gia đình văn hoá ở khu dân “sống tốt đời, đẹp đạo”, tích
cực thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Tuy nhiên, tình
hình tôn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh cũng nổi lên một số vấn đề có tính phức
3
tạp. Đó là, hoạt động mê tín, dị đoan diễn ra khá phổ biến; một số cơ sở thờ tự
của tôn giáo chưa tuân thủ các quy định của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, Luật
Di sản và của các quy định của tỉnh. Khi xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự, tổ chức
tôn giáo vẫn thiếu hồ sơ xin phép; triển khai khi chưa được sự đồng ý của các cơ
quan có thẩm quyền. Tình hình khiếu kiện đòi lại đất đai, cơ sở cũ của giáo hội
còn tiềm ẩn dấu hiệu phức tạp; hoạt động truyền đạo Tin lành trái phép và các
đạo lạ trên địa bàn tỉnh vẫn xảy ra.
Công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo ở tỉnh Bắc Ninh những
năm qua đã có nhiều tiến bộ, đạt được một số kết quả nhất định. Nhưng bên cạnh
đó, công tác này cũng còn một số hạn chế, như: Một bộ phận cán bộ đảng viên
nhận thức về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với tôn giáo còn hời
hợt; sự phối hợp giữa các cấp, các ngành còn thiếu tập trung và đồng bộ; việc giải
quyết các vấn đề liên quan đến tôn giáo còn kéo dài, gây tâm trạng phản cảm cho
quần chúng tín đồ, chức sắc tôn giáo. Việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước
đối với tôn giáo của chính quyền nhiều lúc, nhiều nơi còn cứng nhắc.
Từ thực tế tình hình trên, tôi chọn để tài: “Hoàn thiện quản lý nhà nước đối
với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh hiện nay”, để làm luận văn thạc
sỹ quản lý hành chính công.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tôn giáo trong thời gian
qua đã có nhiều công trình nghiên cứu. Đó là: “ Quản lý nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo trong điều kiện xây dựng nhà nước dân chủ, pháp quyền Việt Nam
hiện nay” của PGS.TS Nguyễn Hữu Khiển; " Một số vấn đề cấp bách trong quản
lý tôn giáo ở một số tỉnh phía Bắc" của GS.TS Đỗ Quang Hưng; “MácAngghen về
tôn giáo” của PGS. Nguyễn Đức Sự chủ biên); “Một số vấn đề lý luận và thực
trạng tôn giáo Việt Nam” của GS. Đặng Nghiêm Vạn; Mối quan hệ giữa chính trị
và tôn giáo trong thời kỳ mở rộng giao lưu quốc tế và phát triển kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, PGS, TS Ngô Hữu Thảo,
4
chủ nhiệm (1998); Cuốn sách “Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam lý luận
và thực tiễn" của GS.TS Đỗ Quang Hưng; “Một số tôn giáo ở Việt Nam hiện nay”
của TS. Nguyễn Thanh Xuân; “Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam” của TS.Nguyễn
Đức Lữ; Đề tài cấp Bộ “55 năm đường lối chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà
nước Việt Nam (19452000)” của Ban Tôn giáo Chính phủ; Đề tài cấp Bộ “Công
tác an ninh trong quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Việt Nam” của
Bộ Công an...
Những công trình trên đề cập đến nhiều khía cạnh, cả lý luận và thực tiễn
của vấn đề quản lý tôn giáo, song cụ thể ở địa bàn Bắc Ninh thì chưa có.
Ở tỉnh Bắc Ninh, vì nhiều lý do khác nhau nên hiện nay vấn đề nâng cao
hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo hãy còn rất ít đề
tài đi sâu nghiên cứu, nếu có thì thời điểm nghiên cứu đã khá lâu, trước khi có Pháp
lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, như luận văn cao cấp lý luận chính trị của Nguyễn
Quang Khải, năm 2004. Vì vậy, hướng đề tài mà tôi lựa chọn hy vọng sẽ làm sáng
tỏ hơn về vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh hiện nay.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục tiêu nghiên cứu:
Luận văn từ việc khái quát những nhận thức chung về tôn giáo, về quản lý
nhà nước đối với tôn giáo và phân tích thực trạng công tác quản lý nhà nước đối
với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong thời gian qua, đề xuất một
số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:
Làm rõ một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với tôn giáo.
Đánh giá được thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo ở Bắc Ninh trong thời gian qua.
5
Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước về tôn giáo ở Bắc Ninh trong tình hình mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo ở tỉnh Bắc Ninh. Phạm vi nghiên cứu, về không gian, là địa bàn tỉnh Bắc
Ninh; về thời gian là từ khi có Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (năm 2004), đến nay.
5. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn:
Luận văn được triển khai dựa trên quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo và quản lý
nhà nước đối với hoạt động tôn giáo. Luận văn cũng xuất phát từ thực tiễn công
tác quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở tỉnh Bắc Ninh thời gian qua.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Triển khai luận văn này, tác giả sử dụng những nguyên tắc phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời sử
dụng các phương pháp của các khoa học cụ thể, như tổng hợp và phân tích, khái
quát hoá, thống kê, so sánh, lịch sử và lôgic, xã hội học, tôn giáo học.
6. Đóng góp mới của luận văn
6.1. Về mặt lý luận:
Bước đầu luận văn làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước
đối với tôn giáo; khái quát mang tính lý luận từ thực tiễn công tác quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo ở Bắc Ninh.
6.2. Về mặt thực tiễn:
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo để xây đựng chủ
trương, biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
ở Bắc Ninh và các tỉnh vùng đồng bằng miền Bắc có tình hình tôn giáo tương tự
với Bắc Ninh.
6
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy và học tập tại
trường Chính trị tỉnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết.
7
Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ TÔN GIÁO, QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
TÔN GIÁO VÀ TÌNH HÌNH TÔN GIÁO Ở TỈNH BẮC NINH
1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ TÔN GIÁO VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TÔN
GIÁO
1.1.1. Nhận thức chung về tôn giáo
Tôn giáo, theo tiếng Latinh (Religare) có nghĩa là sự nối liền với cái tột cùng,
như sự gắn bó với Chúa, với Thượng đế; hoặc được hiểu là sự phản ánh mối
quan hệ giữa con người với thần thánh; giữa thế giới vô hình với thế giới hữu
hình; giữa cái thiêng liêng với cái trần tục.
Theo quan điểm mácxít, tôn giáo không chỉ là một hình thái ý thức xã hội mà
còn là một thực thể xã hội. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, tôn giáo
phản ánh hư ảo tồn tại xã hội, có kết cấu gồm: Tâm lý, tình cảm, niềm tin và hệ
tư tưởng tôn giáo. Còn với tính cách là một thực thể, hay một hiện tượng xã hội,
tôn giáo thuộc thượng tầng kiến trúc xã hội, được quy định bởi hạ tầng cơ sở xã
hội. Cụ thể hơn, tôn giáo ra đời từ 3 nguồn gốc: Kinh tế xã hội, nhận thức và
tâm lý. Là một hiện tượng xã hội, kết cấu của tôn giáo bao gồm cả yếu tố vật
chất và tinh thần, mà thông thường là các yếu tố: ý thức (giáo lý), nghi lễ, luật lệ
và tổ chức.
Cũng cần phân biệt tôn giáo với tín ngưỡng và mê tín dị đoan. Tôn giáo và
tín ngưỡng có sự khác nhau, song có quan hệ chặt chẽ, mà ranh giới để phân biệt
chỉ là rất tương đối. Tín ngưỡng có các nghĩa rộng, hẹp khác nhau, nghĩa rộng, đó
là niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào một hiện tượng, một lực lượng,
một điều gì đó, thông thường để chỉ một niềm tin tôn giáo; nghĩa hẹp là các hình
thức khác với tôn giáo, như người Việt Nam thường gọi “tín ngưỡng dân gian”.
Còn mê tín dị đoan, đó là tình trạng người ta quá tin vào cái siêu nhiên, đến mất lý
8
trí, mê muội, tốn tiền của và huỷ hoại sức khoẻ, thậm chí cả sinh mạng, vậy nên
“Hoạt động mê tín phải bị phê phán và loại bỏ”. [13]
Quan điểm mác xít về tôn giáo không dừng lại ở vấn đề bản chất, nguồn
gốc, chức năng và tính chất của nó, mà còn rất quan tâm đến việc chỉ ra thái độ,
nguyên tắc của người cộng sản khi tiếp cận, giải quyết những vấn đề tôn giáo.
Về thái độ của người cộng sản đối với tôn giáo, mặc dù cho rằng, thế giới
thống nhất ở tính vật chất, ngoài ra không có thế giới nào khác ngoài vật chất đang
tồn tại và đương nhiên không có thần thánh, ma quỷ nào tồn tại ngoài những đam
mê và dục vọng của chính con người, thế nhưng Chủ nghĩa Mác Lênin không bao
giờ chủ trương tuyên chiến với tôn giáo, mà ngược lại luôn tôn trọng niềm tin tôn
giáo của nhân dân. C.Mác từng nói, kẻ nghịch đạo không phải là kẻ phỉ báng thần
thánh của quần chúng mà chỉ là người đồng tình với quan điểm quần chúng, người
sáng tạo ra thần thánh.
Có một số người cho rằng, chủ nghĩa Mác Lênin mâu thuẫn tuyệt đối với
đức tin tôn giáo, do đó không có thể dung hợp giữa chủ nghĩa xã hội và tôn giáo và
lập luận này là không đúng, vì đã chủ quan đẩy mâu thuẫn, từ mâu thuẫn ở
phương diện nhận thức không đối kháng, trở thành mâu thuẫn đối kháng.
Lý tưởng của những người cộng sản là xây dựng “Thiên đường” nơi trần
thế bằng bàn tay và khối óc của chính con người. Tuy vậy, người cộng sản không
hề có chủ trương phủ nhận tôn giáo mà thừa nhận nó như một nhu cầu tất yếu
của một bộ phận nhân dân trong tiến trình phát triển của lịch sử. Hơn nữa, tôn giáo
và chủ nghĩa xã hội có điểm tương đồng là đều mong muốn có một xã hội hạnh
phúc, công bằng, bác ái, lấy điều thiện thắng điều ác.
“Đối với chúng ta, sự thống nhất của cuộc đấu tranh thật sự cách mạng đó
của giai cấp bị áp bức để sáng tạo nên một cảnh cực lạc trên trái đất, là quan trọng
hơn sự thống nhất ý kiến của những người vô sản về cảnh cực lạc trên thiên
đường” [80, tr.174 ]. Rồi nữa, “Trong cương lĩnh của chúng ta, chúng ta không
tuyên bố và chúng ta không nên tuyên bố chủ nghĩa vô thần của chúng ta... Khắp
9
nơi bọn tư sản phản động đã chú trọng... khêu lên những sự thù hằn tôn giáo, để
làm cho quần chúng chú ý về phía đó, khiến họ không để ý đến những vấn đề
chính trị và kinh tế thật sự quan trọng và chủ yếu, những vấn đề mà giai cấp vô
sản toàn nước Nga, thực tế đoàn kết lại với nhau trong cuộc đấu tranh cách mạng
của mình, hiện đang giải quyết” [80, tr.174175 ].
C.Mác và Ph.Ăng ghen từng căn dặn người cộng sản: “Không thể đả kích
tôn giáo dưới hình thức thù địch cũng như dưới hình thức khinh bạc, chung cũng
như riêng. Nghĩa là, nói chung không được đả kích vào nó”. [20, tr. 23]
Sau này, Lênin cũng viết: “Còn như tuyên chiến với tôn giáo, coi đó là nhiệm
vụ chính trị của đảng công nhân, thì đó chỉ là một luận điệu vô chính phủ chủ
nghĩa”. [81, tr.511.]
Vậy, theo chỉ dẫn của các nhà kinh điển mác xít, Nhà nước của giai cấp vô
sản nên xem tôn giáo là việc tư nhân, nghĩa là không nên phê phán những vấn đề
thuộc thế giới bên kia. Chuyện có thiên đường địa ngục, thần này thánh khác là
vấn đề của thần học, của tôn giáo. Nhưng với tư cách là chủ thể quản lý xã hội,
trong đó có tôn giáo, thì Nhà nước có trách nhiệm và quyền hạn trên 2 vấn đề liên
quan đến tôn giáo, đó là Pháp luật và chính trị.
Theo chỉ dẫn đó, trong tiến trình cách mạng Việt Nam, nhà nước ta chưa bao
giờ có chủ trương tiêu diệt tôn giáo, phủ nhận thượng đế của người có đạo, mà
luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, nghiêm cấm phân biệt sự đối xử vì lý do
tín ngưỡng, tôn giáo.
Vậy khi giải quyết vấn đề tôn giáo, chúng ta cần phải đứng vững trên
những nguyên tắc nào? Về điều này, theo quan điểm mác xít, được khái quát trên
4 nguyên tắc sau:
Một: Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền
với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Nguyên tắc này xuất phát từ quan điểm duy vật lịch sử khi nhận thức và tác
động vào tôn giáo. Theo đó, trước hết phải “Xoá bỏ tình trạng nô lệ về mặt kinh
10
tế, nguồn gốc thật sự của sự mê hoặc nhân loại bằng tôn giáo” [80, tr. 175]. Hay
nói cách khác, muốn thay đổi ý thức xã hội, trước hết cần phải thay đổi bản thân
tồn tại xã hội; muốn xoá bỏ ảo tưởng nảy sinh trong tư tưởng con người, phải xoá
bỏ nguồn gốc sinh ra ảo tưởng ấy; phải xác lập được một xã hội hiện thực không
có áp bức, bất công, nghèo đói và thất học... cùng các tệ nạn nảy sinh trong nó. Tất
nhiên việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới là một quá trình lâu dài, đòi hỏi
phải khai thác và phát huy tiềm năng của mọi cộng đồng xã hội, trong đó có đồng
bào các tôn giáo.
Hai: Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng
của nhân dân.
Các nhà kinh điển Mác xít quan tâm không chỉ tôn trọng quyền tự do tín
ngưỡng, mà còn cả quyền tự do không tín ngưỡng. Tôn trọng quyền tự do tín
ngưỡng và không tín ngưỡng sẽ bảo đảm quan hệ tốt đẹp giữa những người vô
thần và hữu thần, giữa những người có tín ngưỡng tôn giáo khác nhau. Nội dung
căn bản của quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng là:
Mọi công dân có quyền theo đạo, truyền đạo hoặc bỏ đạo; được hoàn toàn
tự do theo tôn giáo mình thích hoặc không theo một tôn giáo nào.
Tất cả mọi công dân có tín ngưỡng và không tín ngưỡng đều bình đẳng về
nghĩa vụ và quyền lợi.
Tất cả mọi tôn giáo được công nhận tư cách pháp nhân đều bình đẳng như
nhau. Nhà nước không coi tôn giáo nào là quốc đạo.
Tuy nhiên cần chú ý rằng: Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng đồng thời phải
chống lại những kẻ lợi dụng tôn giáo vì mục đích phi tôn giáo, mặt khác, không
dung túng cho những kẻ hành nghề mê tín dị đoan.
Ba: Có quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo.
Nguyên tắc này có một ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Nó đòi hỏi chủ thể lãnh
đạo, quản lý xã hội khi giải quyết vấn đề tôn giáo phải phù hợp với không gian,
11
thời gian cụ thể, như Lênin đã nhắc nhở: “Người mác xít phải biết chú ý đến
toàn bộ tình hình cụ thể” [81, tr. 518]
Bốn: Cần phân biệt hai mặt: nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo và việc chính trị
lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo.
Việc phân biệt vấn đề chính trị và tư tưởng trong các hoạt động tôn giáo
trên thực tế là vấn đề không đơn giản, nhưng lại đòi hỏi phải phân biệt rõ, từ đó
mới có giải pháp chính xác. Trong đó, mặt nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo phải được
giải quyết bằng chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo; còn mặt chính trị lợi dụng
tín ngưỡng, tôn giáo phải được giải quyết bằng giải pháp chính trị. Việc áp dụng
lẫn lộn các loại giải pháp, cũng như tuyệt đối hoá một loại giải pháp nào đó đều
là tai hại cho cả tôn giáo và cho chính trị cầm quyền.
Kế thừa và vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lênin về tôn giáo,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những tư tưởng đặc sắc về vấn đề này.
Trước hết cần thấy, tư tưởng của Người về tín ngưỡng, tôn giáo là sự vận
dụng sáng tạo và phát triển Chủ nghĩa Mác Lênin vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể
của Việt Nam. Với Người, “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng
chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”
[46, tr.268]. Nhưng, xuất phát từ đặc điểm lịch sử, văn hoá của dân tộc Á Đông,
Hồ Chí Minh cho rằng: “C.Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý
nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó
chưa phải là toàn thể nhân loại... Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của
nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông. Đó chính là nhiệm vụ mà các Xô
viết đảm nhiệm (ban thuộc địa của chúng tôi vừa nhận được thư mời chúng tôi
tham gia công tác này)” [45, tr.465].
Cũng trên quan điểm duy vật về lịch sử của chủ nghĩa MácLênin, Hồ Chí
Minh luôn nhấn mạnh đến việc phải xây dựng một xã hội tiến bộ thì mới có thể
giải quyết được vấn đề tôn giáo một cách tốt đẹp. Từ chỗ nhấn mạnh: Tôn giáo
12
không hề đối lập với CNXH, Người đã chăm lo chu đáo đến đồng bào có tôn giáo
theo tinh thần “phần xác no ấm, phần hồn thong dong”.
Trong ứng xử với tín đồ, chức sắc tôn giáo, Người thể hiện nổi bật tư
tưởng hoà hợp, khoan dung, đó là sự cảm thông, chấp nhận và tôn trọng cái dị biệt,
miễn là không trái với lợi ích chung của dân tộc, từ đó mà đạt được mục tiêu
tương đồng. Chính vì thế, đồng bào Phật tử thấy Hồ Chí Minh như "Hiện thân"
của vị “Bồ tát Quán Thế Âm” vì "nhân duyên" dân tộc Việt Nam đau thương
"trầm luân" trong nỗi nhục mất nước ở cõi "Sha bà" mà xuống cứu khổ cứu nạn.
Ngày nay, trong Phật giáo và trong xã hội Việt Nam, tên Hồ Chí Minh được gán
với quả vị Phật giáo, là Bồ tát Hồ Chí Minh. Còn đồng bào đạo Công giáo và đạo
Tin lành luôn khâm phục và cảm động về việc, Người đã nguyện hy sinh cho Việt
Nam độc lập, cho thế giới hoà bình, nên thấy Người như bóng dáng của "Đức
Chúa KiTô” hy sinh thân mình để cứu chuộc nhân loại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo với tính cách là những quan điểm,
nguyên tắc, tác giả khái quát như sau:
Thứ nhất, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tôn giáo với dân tộc, tôn giáo
với cách mạng và tôn giáo với giai cấp, đó phải là nội dung cốt lõi trong chủ
trương, chính sách tôn giáo của cách mạng Việt Nam.
Thứ hai, luôn phải có tinh thần vận dụng, phát triển nguyên lý chủ nghĩa
Mác Lênin và tham khảo kinh nghiệm của các nước khác về vấn đề tôn giáo,
xem đó là cơ sở quyết định cho việc xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách
tôn giáo phù hợp với từng giai đoạn cách mạng Việt Nam.
Thứ ba, tôn trọng tự do tín ngưỡng phải đi đôi với đấu tranh chống mọi âm
mưu lợi dụng tôn giáo; phải khắc phục những mặc cảm tôn giáo, những hành vi
làm tổn thương đến tình cảm quần chúng tín đồ.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo đã bổ sung cho Chủ nghĩa Mác Lênin
và nó có sức sống từ thực tiễn của đất nước, dân tộc ta, để người cộng sản Việt
Nam có thái độ mềm mại hơn, khách quan hơn đối với tôn giáo.
13
1.1.2. Quản lý nhà nước đối với tôn giáo
1.1.2.1. Khái niệm "Quản lý nhà nước" và “Quản lý nhà nước đối với
tôn giáo”
Khái niệm “quản lý nhà nước” được hiểu ở cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước là dạng quản lý xã hội của Nhà nước, sử
dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi hoạt động
của con người do tất cả các cơ quan Nhà nước (Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp)
tiến hành để thực hiện các chức năng của Nhà nước đối với xã hội.
Theo nghĩa hẹp, quản lý Nhà nước là dạng quản lý xã hội mang quyền lực
Nhà nước với chức năng chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật của
các cơ quan trong hệ thống hành pháp (Chính phủ, UBND các cấp).
Giáo trình Quản lý hành chính nhà nước của Học viện Hành chính quốc gia
đã nêu: QLNN là hoạt động của Nhà nước trên lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư
pháp nhằm thực hiện chức năng đối nội, đối ngoại của Nhà nước; là dạng quản lý
xã hội mang tính quyền lực nhà nước, được sử dụng quyền lực Nhà nước để điều
chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của con người [38].
Vậy, chủ thể QLNN là các cá nhân hay tổ chức mang quyền lực Nhà nước
tác động tới đối tượng quản lý. Còn đối tượng QLNN là toàn bộ công dân Việt
Nam và những người không phải là công dân Việt Nam đang sống, làm việc trên
lãnh thổ Việt Nam cùng toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Từ các khái niệm quản lý nhà nước như trên, khái niệm quản lý nhà nước
đối với tôn giáo cũng được hiểu theo hai nghĩa, rộng và hẹp.
Nghĩa rộng: Đó là quá trình dùng quyền lực nhà nước (quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp) của các cơ quan Nhà nước theo qui định của pháp luật để tác động,
điều chỉnh, hướng các quá trình tôn giáo và hành vi hoạt động tôn giáo của tổ chức,
cá nhân tôn giáo diễn ra phù hợp với pháp luật, đạt được mục tiêu cụ thể quản lý.
Nghĩa hẹp: Đó là quá trình chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp
luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp (Chính phủ và UBND các cấp) để
14
điều chỉnh các quá trình tôn giáo và mọi hành vi hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá
nhân tôn giáo diễn ra theo đúng qui định của pháp luật.
Theo đó, QLNN đối với tôn giáo ở cả 2 nghĩa rộng, hẹp, đều tập trung,
trước hết và chủ yếu là quản lý các “hoạt động tôn giáo”. Cụ thể hơn, đó là các
hoạt động tôn giáo liên quan, ảnh hưởng trực tiếp đến các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Hoạt động đó là gì? Về việc này, tại khoản 5, điều 3 Pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo đã nêu: “Hoạt động tôn giáo là việc truyền bá, thực hành giáo lý,
giáo luật, lễ nghi, quản lý tổ chức của tôn giáo”[77, tr.2].
Truyền bá giáo lý, giáo luật (còn gọi là truyền đạo) là việc tuyên truyền
những lý lẽ về sự ra đời, về luật lệ tôn giáo. Thông qua hoạt động truyền đạo,
niềm tin tôn giáo của tín đồ được củng cố, luật lệ của tôn giáo được các tín đồ
thực hiện. Còn người chưa phải là tín đồ, hoạt động truyền đạo giúp họ hiểu, tin
và theo tôn giáo. Vậy, hoạt động truyền đạo chính là để củng cố và phát triển tín
đồ. Tất nhiên, việc truyền đạo phải tuân thủ các quy định của pháp luật và nội
dung, phương pháp truyền đạo phải đúng với giáo lý của tôn giáo đó.
Thực hành giáo luật, lễ nghi (còn gọi là hành đạo) là hoạt động của tín đồ,
chức sắc, nhà tu hành tôn giáo thể hiện sự tuân thủ nghiêm ngặt những quy định,
phép tắc, thoả mãn đức tin tôn giáo của cá nhân hay cộng đồng tín đồ.
Hoạt động quản lý tôn giáo là các tổ chức, giáo hội tôn giáo thực hiện các
quy định của giáo luật, thực hiện hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo, đảm
bảo duy trì trật tự, hoạt động trong tổ chức tôn giáo.
Trong các hoạt động đó, việc phân định ranh giới giữa hoạt động truyền đạo
với hoạt động hành đạo cũng chỉ là tương đối, có không ít trường hợp trong hoạt
động hành đạo có hoạt động truyền đạo.
Từ đó chúng ta thấy, chủ thể QLNN về tôn giáo nếu theo nghĩa rộng của
khái niệm, thì đó là các cơ quan nhà nước thuộc hệ thống lập pháp, hành pháp và
tư pháp; còn theo nghĩa hẹp, nó chỉ gồm các cơ quan nhà nước thuộc hệ thống
hành pháp các cấp.
15
Còn khách thể QLNN đối với tôn giáo, đó là hoạt động tôn giáo của các tổ
chức tôn giáo, của tín đồ, chức sắc, nhà tu hành. Là công dân Việt Nam, tín đồ,
chức sắc tôn giáo, nhà tu hành vừa mang những đặc điểm chung của người Việt
Nam, nhưng đồng thời cũng có những nét đặc trưng riêng của người có đạo.
Chúng tôi, trong luận văn này thường dùng khái niệm “QLNN đối với tôn
giáo”, hoặc “QLNN về tôn giáo”, khi đó được hiểu là “QLNN đối với các hoạt
động tôn giáo”.
Theo Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, tín đồ, đó là những người tin theo một
tôn giáo và được tổ chức tôn giáo thừa nhận. Chức sắc tôn giáo là tín đồ có chức
vụ, phẩm sắc trong tôn giáo. Còn nhà tu hành, đó là tín đồ tự nguyện thực hiện
thường xuyên nếp sống riêng theo giáo lý, giáo luật của tôn giáo mà mình tin theo.
[77, tr.2]. Người làm công tác QLNN đối với tôn giáo, với họ, có một đòi hỏi bắt
buộc là phải nắm vững về đặc điểm của tín đồ, chức sắc các tôn giáo, với tư cách
là khách thể QLNN.
Ở nước ta, tín đồ tôn giáo có đặc điểm là: Đa số họ là nông dân, vốn có bản
chất cần cù lao động, có lòng yêu nước nồng nàn, căm thù kẻ xâm lược và tầng
lớp bóc lột. Song bên cạnh đó, do cả vô thức và ý thức, một số tín đồ hoạt động
tôn giáo chưa tuân thủ pháp luật, tai hại hơn, bị các thế lực thù địch lợi dụng, nghe
theo kẻ xấu tham gia vào các vụ việc phức tạp, điểm nóng tôn giáo. Một đặc điểm
khác là, trong mỗi tín đồ đều có sự thống nhất (nhưng không đồng nhất) giữa mặt
công dân và mặt tín đồ. Là công dân, họ có mọi quyền và nghĩa vụ đối với nhà
nước như mọi công dân khác. Là người có tín ngưỡng tôn giáo, họ có niềm tin ở
Chúa, Phật..., có quyền lợi và trách nhiệm đối với giáo hội. Đây chính là đặc điểm
quan trọng cần phải nắm vững.
Còn chức sắc, nhà tu hành tôn giáo cũng có những đặc điểm chung của một
tín đồ, song họ còn có các đặc điểm riêng. Đó là: Họ là những người được tổ chức
tôn giáo lựa chọn, đào tạo cơ bản, nên có năng lực quản đạo và trình độ thần học
cao; được tổ chức tôn giáo phong chức, phong phẩm. Họ đại diện ở những mức
16
độ khác nhau cho các tổ chức tôn giáo. Họ vừa chăn dắt tín đồ, vừa quản lý nền
hành chính đạo theo thẩm quyền. Trong quan hệ với tín đồ, họ là những người rất
gần gũi, nắm bắt kịp thời tâm tự, nguyện vọng của tín đồ. Như thế, họ có vị trí,
vai trò và ảnh hưởng rất lớn, rất sâu sắc trong tín đồ, được tín đồ yêu quí, trân
trọng và bảo vệ.
Tiếp nữa, người làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo cũng phải nắm
vững đặc điểm của tổ chức tôn giáo. Đó là: Tổ chức tôn giáo điều hành các hoạt
động tôn giáo; đại diện cho tín đồ trong quan hệ với Nhà nước và với các tổ chức
khác có liên quan. Mỗi tôn giáo có bộ máy tổ chức riêng, hoạt động theo hiến
chương, điều lệ của mình. Các tôn giáo có tư cách pháp nhân đều thể hiện đường
hướng hành đạo gắn bó, đồng hành cùng dân tộc. Đa số các tổ chức tôn giáo có
liên hệ đồng đạo với tổ chức tôn giáo nước ngoài.
Ngoài ra, khách thể QLNN về tôn giáo còn có cả cơ sở vật chất phục vụ các
sinh hoạt tôn giáo. Trong đó, cơ sở thờ tự không đơn giản chỉ là một thực thể vật
chất, mà còn bao hàm ý nghĩa thiêng liêng, hội họp, văn hóa... Còn đồ dùng việc
đạo như kinh sách, tượng thờ, tranh ảnh, hoành phi, câu đối, lư hương, chuông mõ,
nhạc cụ,…mỗi thứ có chức năng, công dụng riêng trong sinh hoạt tôn giáo, nhưng
đều có đặc điểm là có giá trị vật chất và có ý nghĩa biểu đạt. Ngoài ra, phục vụ
cho sinh hoạt tôn giáo cộng đồng còn có vườn hoa, trường học, nhà dòng, cơ sở từ
thiện, nhà trẻ, bệnh xá,… Nó là tài sản của giáo hội và là nơi diễn ra các hoạt
động tôn giáo, được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giao cho
tổ chức tôn giáo quản lý.
Như vậy, việc nắm chắc những đặc điểm của khách thể quản lý là một yêu
cầu tiên quyết đối với chủ thể quản lý, giúp cho công tác QLNN về tôn giáo có
hiệu lực mạnh và hiệu quả cao.
Một vấn đề khác cũng cần nhận thức rõ, đó là vấn đề pháp nhân và thể nhân
tôn giáo. Pháp nhân tôn giáo, đó là bộ máy tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước
17
công nhận. Còn thể nhân tôn giáo, đó là cá nhân tôn giáo (tín đồ) được tổ chức tôn giáo
công nhận.
1.1.2.2. Tính tất yếu tăng cường QLNN đối với tôn giáo
Vì sao phải tăng cường công tác QLNN đối với tôn giáo, việc này được xuất
phát từ các lý do khách quan và cơ bản.
Thứ nhất, hoạt động tôn giáo có liên quan đến tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội, do đó, với chức năng quản lý xã hội của mình, để đảm bảo cho xã hội
ổn định, phát triển bình thường, tất yếu Nhà nước phải tăng cường quản lý các
hoạt động tôn giáo.
Thứ hai, sự nghiệp đổi mới do Đảng ta lãnh đạo diễn ra trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội, trong đó có đời sống tôn giáo, vậy để đường lối, chính
sách, pháp luật được hiện thực hoá, để đồng bào có và không có tôn giáo đoàn kết
trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo động lực cho sự thành công của công
cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nhà nước phải tăng cường quản lý các hoạt
động tôn giáo.
Thứ ba, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách lợi dụng tôn giáo hống phá
cách mạng, vậy để đập tan âm mưu đó và để đồng bào lương giáo tích cực tham
gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tất yếu Nhà nước phải tăng cường quản lý các
hoạt động tôn giáo.
Thứ tư, Việt Nam mở cửa, hội nhập để phát triển, theo đó, các thế lực thù địch
cũng thông qua con đường hợp tác, liên doanh, du lịch... thâm nhập vào những vùng
nhạy cảm về tôn giáo, mua chuộc một số chức sắc, tín đồ tôn giáo, vậy để hội nhập
quốc tế có nhiều thành công, Nhà nước phải tăng cường quản lý các hoạt động
tôn giáo.
1.1.2.3. Mục tiêu, nguyên tắc và nội dung của QLNN về tôn giáo
Nội dung cơ bản của QLNN về tôn giáo được ghi nhận tại Pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo và được cụ thể hoá tại Nghị định số 22 của Chính phủ, hướng
18
dẫn thực hiện Pháp lệnh trên. Còn trước Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, Nhà nước
ta mới chỉ có Nghị định số 69 (năm 1991), Quy định về các hoạt động tôn giáo, và
Nghị định số 26 (năm 1999), Về các hoạt động tôn giáo. Như vậy, cho đến thời
điểm này, công cụ trực tiếp cho QLNN về tôn giáo chính là Pháp lệnh tín ngưỡng,
tôn giáo, còn luật thì chưa có.
Vì thế vừa qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, ở nội
dung tôn giáo, Báo cáo chính trị đã nêu: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật
về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng. Phát huy những giá trị
văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; động viên các tổ chức tôn giáo, chức
sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quan tâm và tạo mọi điều kiện cho các tổ chức tôn giáo
sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã được nhà nước
công nhận, đúng quy định của pháp luật. Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên
quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia
rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc” [33, tr.245].
Còn trong Cương lĩnh xây dựng đất nước bổ sung, phát triển, năm 2011,
khẳng định: “Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và xử lý
nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín
ngưỡng tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân” [33, tr.81].
Theo đó, quan điểm về vấn đề tôn giáo tại đây có những điểm mới là “Tiếp
tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan
điểm của Đảng”; “quan tâm và tạo mọi điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh
hoạt theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã được nhà nước công
nhận, đúng quy định của pháp luật”.
Từ đó, công tác QLNN về tôn giáo, từ mục tiêu, nguyên tắc và nội dung cho
đến phương pháp, cần phải được xác định rõ và bổ sung cho phù hợp với quan
điểm của Đảng. Về mục tiêu, theo chúng tôi, đó là:
19
Thứ nhất, QLNN đối với tôn giáo trước hết phải bảo đảm được quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, để các
hoạt động tôn giáo được diễn ra bình thường, theo hướng tuân thủ pháp luật.
Rằng: “Người có tín ngưỡng, tín đồ được tự do bày tỏ đức tin, thực hành các nghi
thức thờ cúng, cầu nguyện và tham gia các hình thức sinh hoạt, phục vụ lễ hội, lễ
nghi tôn giáo và học tập giáo lý tôn giáo mà mình tin theo" [77, tr3].
Thứ hai, QLNN đối với hoạt động tôn giáo phải phát huy được những gia trị
văn hoá và mặt tích cực, khắc phục những hạn chế, tiêu cực của tôn giáo trong sự
phát triển của đất nước theo định hướng XHCN.
Thứ ba, QLNN đối với tôn giáo phải góp phần củng cố, phát triển đồng bào
có và không có tín ngưỡng, tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cùng
chung sức, chung lòng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ tư, QLNN về tôn giáo phải đảm bảo tăng cường được vai trò lãnh đạo
của Đảng, quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo.
Với mục tiêu đó, công tác QLNN đối với tôn giáo phải được dựa trên 3
nguyên tắc sau:
Một, phải đứng vững trên đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước về tôn giáo.
Hai, phải đảm bảo để mọi tôn giáo hoạt động theo hướng tuân thủ hiến
pháp, pháp luật; để những hoạt động tôn giáo ích nước, lợi dân, vì lợi ích chính
đáng và hợp pháp của tín đồ được đảm bảo; hoạt động mê tín dị đoan phải bị phê
phán và loại bỏ.
Ba, phải xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật mọi hành vi lợi dụng tôn giáo
để chống phá chế độ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Còn về nội dung QLNN đối với tôn giáo, xuất phát từ quan điểm của Đảng
và theo quy định pháp lý, có thể khái quát như sau:
Trước hết, với tính cách là một quy trình của QLNN đối với tôn giáo thì bao
gồm những nội dung:
20
Xây dựng chiến lược dài hạn, kế hoạch năm năm và hàng năm thuộc lĩnh
vực tôn giáo;
Ban hành các văn bản qui phạm pháp luật đối với hoạt động tôn giáo;
Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật đối với hoạt động tôn giáo;
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đối với hoạt động tôn giáo;
Qui định tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo;
Qui định về việc phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong công tác quản
lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo;
Tổ chức quản lý công tác nghiên cứu, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức làm công tác tôn giáo;
Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật
về hoạt động tôn giáo.
Tất cả những nội dung trên đều có ý nghĩa xác định cụ thể, nhưng lại có
mối quan hệ mật thiết với nhau, vì thế không thể xem nhẹ một nội dung nào.
Tiếp theo, QLNN về tôn giáo với tính cách là giải quyết bằng quyền lực nhà
nước các hoạt động tôn giáo ở những lĩnh vực cụ thể khác nhau, thì nó bao gồm
các nội dung sau:
Quản lý nhà nước các hoạt động tín ngưỡng;
Quản lý việc đăng kí hoạt động của tổ chức tôn giáo và công nhận tổ chức
tôn giáo;
Quản lý việc chia tách, sáp nhập, hợp nhất các tổ chức tôn giáo trực thuộc;
Việc đăng kí người vào tu và hoạt động của dòng tu, tu viện, hội đoàn tôn
giáo;
Quản lý việc phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử; cách
chức, bãi nhiệm, thuyên chuyển trong tôn giáo;
Quản lý về đại hội, hội nghị của tổ chức tôn giáo;
Về việc đăng kí hoạt động tôn giáo (thường xuyên, đột xuất, ngoài cơ sở
tôn giáo);
21
Quản lý việc xây, sửa, cải tạo các công trình tôn giáo;
Về đất đai, tài sản tôn giáo;
Về hoạt động in ấn, xuất bản, phát hành các ấn phẩm tôn giáo;
Quản lý việc kinh doanh, xuất, nhập khẩu kinh sách tôn giáo và đồ dùng
việc đạo;
Quản lý việc mở trường, lớp đào tạo, bồi dưỡng những người hoạt động
tôn giáo chuyên nghiệp, giải thể trường đào tạo;
Quản lý việc quyên góp; hoạt động từ thiện nhân đạo của các tôn giáo;
Quản lý việc quan hệ quốc tế của các tổ chức và cá nhân tôn giáo;
Quản lý về việc đình chỉ hoạt động tôn giáo.
Những nội dung quản lý như trên được quy định tại Pháp lệnh tín ngưỡng,
tôn giáo và trong Nghị định số 22/2005/NĐCP. Tuy nhiên cho đến nay, nó đã và
đang có nhu cầu phải bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Về vấn đề này, chúng tôi
sẽ đề cập ở các chương sau.
QLNN đối với tôn giáo có một số phương pháp chủ yếu được áp dụng như:
Phương pháp giáo dục, thuyết phục, phương pháp hành chính, phương pháp kinh
tế, phương pháp cưỡng chế và phương pháp tổng hợp.
Như vậy, QLNN đối với tôn giáo là tất yếu, không chỉ ở nước ta mà còn đối
với các nước khác. Tuy nhiên, về mục đích, nội dung cụ thể của QLNN về tôn
giáo cũng khác nhau qua mỗi giai đoạn. Vậy, chủ thể quản lý cần nắm vững quan
điểm lịch sử cụ thể để công tác này có hiệu quả, hiệu lực cao nhất.
1.2. TÌNH HÌNH TÔN GIÁO Ở BẮC NINH
1.2.1. Một số đặc điểm của tỉnh Bắc Ninh liên quan đến tôn giáo
Bắc Ninh là tỉnh thuộc vùng đồng bằng Bắc bộ, nằm gọn trong châu thổ
sông Hồng, liền kề với thủ đô Hà Nội. Phía Bắc Bắc Ninh giáp tỉnh Bắc Giang,
phía Nam giáp tỉnh Hưng Yên và một phần Hà Nội, phía Đông giáp tỉnh Hải
Dương và phía Tây giáp thủ đô Hà Nội. Bắc Ninh có nhiều thuận lợi cho sự phát
triển toàn diện trên các lĩnh vực xã hội và cũng là địa bàn mở rộng của Hà Nội qua