BỘ GIÁO DỤC VÀ
ĐÀO TẠO
1
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
VIỆN SINH THÁI VÀ TÀI NGUYÊN SINH VẬT
NGUYỄN ANH TUẤN
NGHIÊN CỨU CÁC CƠ SỞ KHOA HỌC NHẰM
BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CÁC
LOÀI QUÝ HIẾM TRONG CHI TẾ TÂN (ASARUM
L.) Ở VIỆT NAM
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ SINH HỌC
Chuyên ngành: THỰC VẬT HỌC
Mã số: 62. 42. 01. 11
2
HÀ NỘI, 2015
Công trình được hoàn thành tại: Viện Sinh thái và Tài nguyên
sinh vật, Viện Hàn lâm KH & CN Việt Nam Viện Sinh thái và Tài
nguyên Sinh vật, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS. Trần Huy Thái
2. PGS. TS. Lê Mai Hương
Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Khắc Khôi
Phản biện 2: GS. TSKH. Trần Văn Sung
Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Trung Thành
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án cấp
Viện
Vào hồi: 09 giờ 00 ngày 07 tháng 07 năm 2015
3
Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia
Thư viện Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Họ Mộc hương (Aristolochiaceae) gồm có 2 phân họ chính là Asaroideae
(gồm 3 chi: Saruma, Asarum và Hexastylis) và Aristolochioideae (gồm 7
chi: Asiphonia, Thottea, Isotrema, Pararistolochia, Euglypha, Holostylis và
Aristolochia). Trong đó, chi Tế tân (Asarum L.) có khoảng 90 loài, gồm
các cây thân cỏ, phát triển ở các vùng ôn đới của Bắc bán cầu. Phần lớn
các loài phân bố ở vùng Đông Á, tại các khu vực Hymalaya đến lục địa
Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và đảo Sakhalin; Bắc Mỹ và
một loài ở châu Âu (Asarum europaeum).
Theo Phạm Hoàng Hộ (1999), Nguyễn Tiến Bân (2003) và Võ Văn Chi
(2003), chi Tế tân (Asarum L.) ở Việt Nam gồm có 7 loài (Asarum balansae
Franch; Asarum blumei Duch. in DC.; Asarum caudigerum Hance; Asarum
glabrum Merr.; Asarum petelotii O.C. Schmidt; Asarum reticulatum Merr. và
Asarum wulingense Liang), phân bố chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc Việt Nam
(Hà Giang, Lào Cai, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Phú Thọ, Vĩnh
Phúc, Hà Nội, Hà Tĩnh và Quảng Bình). Có 3 loài được ghi trong Sách Đỏ
Việt Nam (1996, 2007) là Asarum balansae Franch.; Asarum caudigerum
Hance và Asarum glabrum Merr.. Trong đó, loài Biến hóa núi cao ( Asarum
balansae) được phân hạng EN A1c,d và là yếu tố đặc hữu Bắc Bộ. Đây là
loài đã xếp hạng ở mức Nguy cấp, có nguy cơ tuyệt chủng ngoài tự nhiên
trong một tương lai gần, quần thể của chúng đã suy giảm khoảng 50% do
nơi cư trú bị thu hẹp và tình trạng khai thác quá mức; loài Thổ tế tân
(Asarum caudigerum) được phân hạng VU A1a,c,d; loài Hoa tiên (Asarum
glabrum) được phân hạng VU A1c.d. Đến nay, những nghiên cứu ở trong
nước về các loài thuộc chi Tế tân (Asarum L.) hầu như chưa có gì đáng kể.
Các loài thuộc chi Tế tân (Asarum L.) đang có nguy cơ lớn sẽ bị tuyệt
chủng ngoài thiên nhiên trong một tương lai tương đối gần, quần thể của
chúng suy giảm ít nhất khoảng 20%. Nghiên cứu các cơ sở khoa học để
bảo tồn, phục hồi và sử dụng bền vững tính đa dạng của các loài thuộc chi
Tế tân (Asarum L.) ở Việt Nam là vấn đề thời sự mang tính cấp thiết có
nhiều ý nghĩa khoa học và giá trị thực tiễn cao. Chính vì vậy, chúng tôi đã
thực hiện đề tài: “Nghiên cứu các cơ sở khoa học nhằm bảo tồn và
phát triển bền vững các loài quý hiếm thuộc chi Tế tân (Asarum L.) ở
Việt Nam”.
2. Mục tiêu của đề tài
Mục tiêu chung:
5
Cung cấp một số dẫn liệu khoa học về đặc điểm sinh học, thành phần
hóa học cũng như về giá trị sử dụng của một số loài thuộc chi Tế tân
(Asarum L.), nhằm góp phần bảo tồn có hiệu quả các loài này ở Việt
Nam hiện nay.
Mục tiêu cụ thể:
+ Chỉ ra được các đặc điểm nổi bật về hình thái thực vật, cùng với khóa
phân loại, giúp cho việc nhận biết chính xác các loài thuộc chi Tế tân
(Asarum L.) hiện có ở Việt Nam, phục vụ cho yêu cầu bảo tồn.
+ Cung cấp dẫn liệu về hiện trạng, khả năng tái sinh tự nhiên, nhất là
khả năng nhân trồng, phục vụ cho yêu cầu bảo tồn nguyên vị (in situ),
chuyển vị (ex situ) và phát triển trồng thêm một số loài Tế tân đang có
nhu cầu sử dụng hiện nay.
+ Thông qua việc nghiên cứu về thành phần hóa học và một số tác dụng
sinh học (in vitro) nhằm bổ sung thêm các dẫn liệu về giá trị nguồn gen
và giá trị sử dụng trong việc bảo tồn một số loài thuộc chi Tế tân
(Asarum L.) hiện có ở Việt Nam.
3. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài góp phần bổ sung và hoàn thiện dần về mặt phân loại, bảo tồn và
phát triển bền vững các loài quí hiếm thuộc chi Tế tân (Asarum L.) ở
Việt Nam.
4. Những điểm mới của luận án
Bổ sung hai loài Asarum cordifolium C. E. C. Fischer và Asarum
yunnanense T. Sugaw., Ogisu & C. Y. Cheng cho hệ thực vật Việt Nam.
Lần đầu tiên nhóm chất isocoumarin được phát hiện từ loài Tế tân nhẵn
(Asarum glabrum); đã phát hiện một hợp chất mới từ loài Tế tân balansa
(Asarum balansae) là 1(3hydroxy4metoxyphenyl)propan1,2diol
(ABW4.2) và cũng là một phenylpropanoid mới.
Lần đầu tiên thử nghiệm hoạt tính sinh học của 03 loài Asarum
balansae, Asarum caudigerum và Asarum glabrum ở Việt Nam: thử hoạt
tính kháng vi sinh vật kiểm định, hoạt tính chống oxy hóa và hoạt tính gây
độc tế bào.
5. Bố cục của luận án
Luận án bao gồm 107 trang, 21 bảng, 31 hình, 3 sơ đồ và 20 phụ lục.
Luận án gồm các phần: Mở đầu (3 trang); Chương 1: Tổng quan nghiên
cứu (12 trang); Chương 2: Đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên
cứu (16 trang); Chương 3: Kết quả nghiên cứu (73 trang); Kết luận, Kiến
nghị (3 trang); Danh mục các công trình đã công bố của tác giả liên quan
đến luận án; Tài liệu tham khảo; Phụ lục.
6
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. VỊ TRÍ PHÂN LOẠI CỦA CHI TẾ TÂN (ASARUM L.)
Họ Mộc hương (Aristolochiaceae) gồm có 2 phân họ chính là Asaroideae
(gồm 3 chi: Saruma, Asarum và Hexastylis) và Aristolochioideae (gồm 7
chi: Asiphonia, Thottea, Isotrema, Pararistolochia, Euglypha, Holostylis và
Aristolochia). Chi Tế tân (Asarum L.) được Linnaeus đặt tên lần đầu tiên
vào năm 1753, khi đó, Linnaeus xếp chi Hexastylis thuộc chi Asarum. Đến
năm 1825, Rafinesque tách chi Hexastylis từ chi Asarum dựa trên hình thái
và cấu tạo của lá. Chi Hexastylis có phiến lá dày và xanh, trong khi chi
Asarum có phiến lá mỏng và sớm rụng hơn. Một điểm khác biệt đáng chú
ý là, thực tế, thân và hoa của chi Hexastylis không có lông trên bề mặt của
chúng, trong khi thân và hoa của chi Asarum có lông tơ. Ngoài ra, các thùy
đài hoa của các loài trong chi Asarum có xu hướng dài hơn và sắc nét hơn
của chi Hexastylis. Như một kết quả của những khác biệt về hình thái,
các nhà phân loại học đã công nhận Hexastylis và Asarum là hai chi riêng
biệt.
Theo các tài liệu của Takhtajan, Brummitt, Cronquist và Robert F. Thorne,
chi Tế tân (Asarum L.) được xếp theo các bậc phân loại khác nhau tùy
theo các hệ thống phân loại.
Các nhà khoa học Việt Nam như Nguyễn Tiến Bân, Nguyễn Nghĩa Thìn,
Võ Văn Chi, Vũ Văn Chuyên có quan điểm giống với hệ thống phân loại
của Takhtajan (2009), chi Tế tân (Asarum L.) được xếp vào họ
Aristolochiaceae, bộ Piperales, phân lớp Magnoliidae, lớp Magnoliopsida
(Dicotyledons), ngành Magnoliophyta (hình 1.1).
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CÁC LOÀI THUỘC CHI TẾ
TÂN (ASARUM L.)
Chi Tế tân (Asarum L.) thuộc họ Mộc hương (Aristolochiaceae) được
Linnaeus (1753) đặt tên và mô tả. Trên thế giới, chi Tế tân (Asarum L.) có
khoảng 90 loài, chúng phân bố chủ yếu ở vùng ôn đới của Bắc bán cầu,
các khu vực Đông Á từ Hymalaya đến lục địa Trung Quốc, Đài Loan,
Nhật Bản, Hàn Quốc và đảo Sakhalin; Bắc Mỹ và một loài ở châu Âu
(Asarum europaeum).
Việt Nam, hiện tại có 7 loài (Asarum balansae Franch; A. blumei Duch. in
DC.; A. caudigerum Hance; A. glabrum Merr.; A. petelotii O. C. Schmidt;
A. reticulatum Merr. và A. wulingense Liang), chúng phân bố chủ yếu ở
các tỉnh phía Bắc Việt Nam. Riêng loài A. wulingense được phát hiện ở
miền Trung tại Hà Tĩnh (Hương Sơn, Kéo Nưa).
7
1.3. NGHIÊN CỨU VỀ THÀNH PHẦN HÓA HỌC CỦA CÁC
LOÀI TRONG CHI TẾ TÂN (ASARUM L.)
Những thông tin đã có cho biết, các loài trong chi Tế tân (Asarum L.)
thường có chứa tinh dầu với các thành phần chính là metyl eugenol,
pinen, myrcen, borneol, safrol, 1,8cineol và asafrol… Ngoài ra, chúng còn
chứa các hợp chất khác như aristolochic acid, các secquiterpen, các
sterol…
Li Xianggao (1988) đã nghiên cứu thành phần hóa học của loài A.
heterotropoides var. mandshuricum (Maxim) Kitag. và đã xác định được 43
hợp chất trong tinh dầu của thân, lá và rễ. Hàm lượng tinh dầu được
chiết suất: thân (2,3%), lá (0,65%) và rễ (4,06%)
Zhang và nnk. (2001) đã phân tích thành phần hóa học ở rễ và thân của
loài Asarum longerhizomatosum C.F. Liang & C.S. Yang bằng các phương
pháp sắc ký và quang phổ, đã phân lập được 5 hợp chất từ dịch chiết
ethanol là asarone; βsitosterol; 2,4,5trimethoxybenzaldehyde; 4(2,4,5
trimethoxyphenyl)3enbutylone và 3βhydroxystigmast5en7one.
Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về thành phần hóa học của các
loài trong chi Tế tân (Asarum L.) rất hạn chế.
1.4. NGHIÊN CỨU VỀ DƯỢC TÍNH TỪ CÁC LOÀI TRONG CHI
TẾ TÂN (ASARUM L.)
Trong y học dân gian, đa số các loài trong chi Tế tân ( Asarum L.) được sử
dụng làm thuốc chữa ho, chữa cảm sốt, cảm lạnh, viêm phế quản, viêm
nhiễm răng lợi và tê thấp. Một số loài lại làm tăng sự phát triển u tuyến
phổi và ung thư tuyến phổi.
1.5. NGHIÊN CỨU BẢO TỒN CÁC LOÀI TRONG CHI TẾ TÂN
(ASARUM L.) Ở VIỆT NAM
CHƯƠNG II:
VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. VẬT LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Các loài đại diện của chi Tế tân (Asarum L.) ở Việt Nam, bao gồm các
mẫu khô lưu giữ tại các phòng tiêu bản thực vật và các mẫu tươi thu được
tại Lào Cai (Sa Pa), Hà Giang (Quản Bạ), Tuyên Quang (Na Hang), Vĩnh
Phúc (Tam Đảo), Hà Nội (Ba Vì), Hòa Bình (Lạc Sơn), Thanh Hóa
(Thường Xuân) và Quảng Trị (Hướng Hóa).
2.1.2. Sinh vật và các dòng tế bào ung thư thí nghiệm
8
Các chủng vi sinh vật kiểm định được cung cấp từ phòng Sinh học
thực nghiệm Viện Hóa học các hợp chất thiên nhiên, gồm: Vi khuẩn Gr
(+); Vi khuẩn Gr (); Nấm men; Nấm mốc.
Các dòng tế bào ung thư được cung cấp từ phòng Sinh học thực nghiệm
Viện Hóa học các hợp chất thiên nhiên, gồm: Dòng Fl, dòng RD, dòng
HepG2, và dòng Lu.
2.1.3. Hóa chất và thiết bị
2.2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.2.1. Các nội dung nghiên cứu về sinh học
2.2.2. Nghiên cứu khả năng sử dụng
Các nội dung nghiên cứu về hóa học:
Các nội dung nghiên cứu thử nghiệm:
2.3. ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
Điều tra, nghiên cứu và khảo sát tại một số tỉnh miền Bắc và miền Trung
Việt Nam, như Quản Bạ (Hà Giang), VQG Hoàng Liên (Sa Pa, Lào Cai),
KBTTN Na Hang (Tuyên Quang), VQG Tam Đảo (Vĩnh Phúc), VQG Ba
Vì (Hà Nội), Lạc Sơn (Hòa Bình), KBTTN Xuân Liên (Thường Xuân,
Thanh Hóa), Hướng Hóa (Quảng Trị) và quần đảo Cát Bà (Hải Phòng).
2.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.4.1. Phương pháp điều tra thực vật
Điều tra theo tuyến và xác lập các ô tiêu chuẩn (OTC)
2.4.2. Phương pháp phân loại thực vật và thảm thực vật
Phân loại thực vật:
Phân loại thảm thực vật:
2.4.3. Phương pháp xác định đặc điểm tái sinh
Chất lượng cây tái sinh được tính theo công thức: N% = (n 100)/N.
2.4.4. Phương pháp nhân giống vô tính
Xây dựng vườn giống
Nhân giống từ hạt:
Nhân giống từ hom:
Chăm sóc và bảo quản:
2.4.5. Phương pháp nghiên cứu thành phần hóa học của tinh dầu
Sắc ký khíkhối phổ (GC/MS):
2.4.6. Phương pháp phân lập các hợp chất
2.4.6.1. Phương pháp chiết tách và phân lập các hợp chất
2.4.6.2. Phương pháp xác định cấu trúc các hợp chất
2.4.7. Phương pháp thử hoạt tính sinh học
2.4.7.1. Đánh giá hoạt tính kháng vi sinh vật (VSV)
9
2.4.7.2. Đánh giá hoạt tính gây độc tế bào
2.5. XỬ LÝ SỐ LIỆU
Bằng phần mềm Microsoft Excel.
CHƯƠNG III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1.
NGHIÊN CỨU PHÂN LOẠI, ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC VÀ
BẢO TỒN CÁC LOÀI THUỘC CHI TẾ TÂN (ASARUM L.)
Ở VIỆT NAM
3.1.1. Nghiên cứu phân loại và đặc điểm của các loài thuộc chi Tế
tân (Asarum L.) ở Việt Nam
3.1.1.1. Đặc điểm của chi Tế tân (Asarum L.) ở Việt Nam
Cỏ nhiều năm, cao từ 2030 cm, có lông hay nhẵn; thân rễ ngắn, thẳng
hoặc thân rễ dài, bò ngang (Asarum cordifolium); lóng dài 25 cm; thân
thường phân nhánh và mang nhiều rễ con; thân và rễ thường có mùi thơm
đặc biệt.
Lá: Thường mọc đơn độc (A. glabrum, A. petelotii...) hay thành cặp (A.
caudigerum, A. yunnanense), có lông hay nhẵn; cuống lá dài; phiến lá hình
trứng tròn (A. caudigerum, A. cordifolium), trứng thuôn (A. balansae, A.
yunnanense), hoặc hình trứng tam giác hay hình mác tam giác (A. glabrum,
A. petelotii); gốc lá hình tim, hình chữ V, hình tai, hoặc hình tim dạng tai;
chóp lá nhọn; mép lá nguyên hoặc có răng nhỏ không đều ( A.
reticulatum); bề mặt trên của phiến lá có màu sắc đồng nhất hoặc có các
vết màu trắng khảm theo đường gân (A. yunnanense) hay dọc theo hai bên
của gân chính (A. petelotii); gân hình mạng chân vịt, 57 gân chính, 24
cặp gân phụ (hình 3.1).
Lá vảy: Thường có hình mũi giáo hoặc hình trứng thuôn nhọn đầu, phát
triển hàng năm từ 24 lá, 12 lá rụng và hoa phát triển sau cùng (hình 3.2).
Hoa: Thường mọc đơn độc ở phần chót, hiếm khi thành cặp ( A.
balansae); cuống hoa dài 25 cm, có lông tơ (A. cordifolium) hoặc không.
Đài hợp theo các mức độ khác nhau, các lá đài gắn lại với nhau và tạo
thành ống đài hoặc rời và tạo thành ống đài giả phía trên bầu ( A.
caudigerum, A. cordifolium); ống đài hình quả đấu, hình nhạc, hình
chuông, hình phễu, hay hình trụ, thường tạo vết hoặc khảm ở mặt trong,
hẹp hoặc mở ở họng (miệng ống đài), họng có hoặc không có mấu lồi
hẹp; thùy lá đài 3, thẳng, mở rộng, hoặc uốn ngược, chóp thùy đài vuốt
nhọn hình kim hoặc không vuốt nhọn. Nhị 12; chỉ nhị dài hơn bao phấn;
10
bao phấn hướng ra ngoài, mở dọc. Bầu hạ hoặc trung, 6 ô; noãn hoàn
toàn hợp sinh. Vòi nhụy 6, rời hoặc nối liền thành cột, chóp nguyên hoặc
xẻ thành 2 thùy; núm nhụy phần chót hoặc phần bên (hình 3.3).
Quả: nạc hoặc nang xốp, tách ra không đều đặn khi chín.
Hạt: thường màu đen lồi ở lưng, phẳng hoặc tạo nếp ở mặt bụng, với
phôi nạc ở đáy (hình 3.4).
3.1.1.2. Khóa định loại và đặc điểm của các loài thuộc chi Tế tân
(Asarum L.) ở Việt Nam
1a. Vòi nhụy hợp lại thành cột, đỉnh vòi nhụy nguyên.
2a. Lá đài hợp gắn lại ở thành bầu, tạo thành ống đài, thùy của đài không
có đuôi ở chóp
3a. Phiến lá 1618 × 911 cm, mặt trên có vệt trắng dọc theo gân; núm
nhụy màu trắng.............................................................................1. A.
yunnanense
3b. Phiến lá 1423 913 cm, mặt trên không có vệt trắng dọc theo gân;
núm nhụy có đốm màu tím........................................................2. A.
balansae
2b. Lá đài rời gắn lại ở thành bầu (có thời điểm chụm lại nhưng không
hợp), thùy của đài có đuôi nhọn ở chóp
4a. Lá hình tim, cỡ 812 × 78 cm; mặt ngoài lá đài màu đỏ, thùy đài cỡ
2,0 × 1,2 cm; có đuôi nhọn dài 11,5 cm. Bầu trung..................3. A.
cordifolium
4b. Lá hình tim, cỡ 1324 × 1118 cm; mặt ngoài lá đài đỏ nhạt rồi xanh ở
phía trên, thùy đài cỡ 2,5 × 1,2 cm; có đuôi nhọn dài 1,53,3 cm.
Bầu hạ...................................................................................4.
A.
caudigerum
1b. Vòi nhụy rời, đỉnh vòi nhụy chẻ 2 hay có khuyết.
5a. Đài hợp hình ống dài 33,5 cm, thắt lại ở 1/3 phía trên........5. A.
glabrum
5b. Đài hợp hình trụ hay mở rộng dần, không thắt lại như trên.
6a. Ống đài và mặt dưới của phiến lá phủ lông tơ màu vàng nâu dày đặc,
cuống hoa uốn ngược, phủ lông...……………......................6. A.
wulingense
6b. Ống đài và mặt dưới của phiến lá nhẵn hay chỉ có lông thưa ở gân lá;
cuống hoa thẳng, thường nhẵn.
7a. Ống đài thường nghiêng sang một bên, không cân đối, vùng cổ mảnh,
hẹp; bầu trung.........................................………………………7. A.
petelotii
11
7b. Ống đài không nghiêng, cân đối, vùng cổ rộng; bầu hạ.
8a. Ống đài hình ống, phồng xung quanh bầu; phiến lá hình tim mũi giáo,
mép không có răng........................................................................8. A.
blumei
8b. Ống đài hình trụ, mở rộng dần; phiến lá hình tim thuôn, như da, mép
có răng nhỏ không đều...............................................................9. A.
reticulatum
3.1.1.2.1. Asarum yunnanense T. Sugaw., Ogisu & C. Y. Cheng Tế tân
vân nam
Cỏ nhiều năm, cao 2030 cm, đường kính thân 35 mm, có lông thưa ở thân
già, lông trắng dày ở thân non; thân rễ có lóng 23 cm, mang nhiều rễ con.
Lá mọc cách, thường 12 lá; cuống lá dài 712 cm, có lông trắng dày; phiến
lá hình timtrứng, 1618 × 911 cm; gốc lá hình tim; chóp lá nhọn; mép lá
nguyên, có lông thưa; mặt trên của phiến lá có vệt trắng dọc theo gân, có
lông trắng thưa; mặt dưới có lông mịn thưa ở gân; gân gốc 5, gân phụ 3
cặp. Lá vảy không rõ. Cuống hoa uốn cong, lệch sang bên, dài 3,5 cm, có
lông trắng, thường mọc rủ xuống. Đài gần đối xứng hai bên, hơi đỏ tía,
hình chuông. Lá đài hợp gắn lại ở thành bầu, tạo thành ống đài, mặt ngoài
có nhiều lông trắng, mặt trong vàng nhạt, có nhiều lông tơ đỏ sẩm, có các
tia đốm tròn màu vàng nhạt; ống đài hình nón ngược; thùy đài 3, mở rộng,
hình tam giác tròn. Nhị 12; chỉ nhị dài 0,3 mm, ngắn hơn bao phấn; bao
phấn 3 mm; trung đới 0,8 mm, rộng hơn bao phấn, hình trụ; vòi nhụy hợp
lại thành ống, đầu nhụy 6, nguyên, núm nhụy màu trắng, phần cuối của
núm nhụy tỏa xuống. Bầu dưới, 6 ô. Quả phát triển trong bao hoa tồn tại,
có lông trắng thưa. Hạt nhỏ, 1227 hạt, màu nâu đen, nhẵn bóng.
Loc. class.: China: Yunnan: Hekou, 1987. TypeProto.: T. Sugawara, M.
Ogisu & C.Y. Cheng, 890425. HT: PE, IT: PEM, MAK.
Sinh học và sinh thái: Mùa ra hoa vào tháng 1112, quả chín vào tháng 6
7 năm sau, hạt phát tán gần, nhiều cây con mọc xung quanh.
Phân bố: Tuyên Quang (Na Hang). Còn có ở Trung Quốc.
Mẫu nghiên cứu: TUYÊN QUANG, NAT11128 (HN); Trung Quốc, No.
890425; Nhật Bản, MAK257702.
Giá trị sử dụng: Chưa rõ.
12
Ảnh Tế tân vân
nam (Asarum
yunnanense T.
Sugaw., Ogisu & C.
Y. Cheng) chụp tại
KBTTN Na Hang
(Tuyên Quang)
3.1.1.2.2. Asarum balansae Franch Tế tân balansa
Cỏ nhiều năm, cao 923 cm. Thân rễ tròn, có đốt ngắn 1,53 cm, phân
nhánh, mang nhiều rễ con. Lá gồm 25 cái, mọc so le, có cuống dài 1116
cm; phiến lá dày, hình tim thuôn 1423 913 cm; có lông ở cả 2 mặt, mặt
dưới lông tập trung nhiều ở gân lá, mặt trên có nhiều túm lông trắng, ngắn;
mép lá nguyên. Hoa 12 cái, mọc riêng lẻ ở kẽ lá hoặc ở ngọn, hoa có
cuống dài 34 cm, có lông trắng. Lá đài hợp, đầu chia thành 3 thùy; mặt
ngoài màu xanh; mặt trong màu vàng nhạt, phủ lông tím dày. Nhị 12, chỉ nhị
ngắn, trung đới vượt lên bao phấn; vòi nhụy hợp lại thành ống, đầu nhụy
6, nguyên, núm nhụy có đốm màu tím. Quả phát triển trong bao hoa tồn tại,
bên ngoài có những hàng lông trắng chạy dọc. Hạt nhỏ (1230 hạt), màu
đen, nhẵn bóng; số hạt trung bình của quả là 19,5.
Loc. class.: Tonkin, mont Ba Vi pus de la pagode DeinTouran. Typus:
Balansa 3160 (P).
Sinh học và sinh thái: Loài Tế tân balansa (Asarum balansae Franch) bắt
đầu ra hoa từ đầu tháng 10; hoa nở vào đầu tháng 12; quả chín và phát tán
hạt vào tháng 78 năm sau.
Phân bố: Tuyên Quang (Na Hang), Hà Nội (Ba Vì), Hòa Bình (Lạc Sơn),
Thanh Hóa (Thường Xuân) và Quảng Trị (Hướng Hóa). Còn có ở Trung
Quốc và Nhật Bản.
Mẫu nghiên cứu: TUYÊN QUANG, NAT11121 (HN); HÀ NỘI,
NAT12031 (HN), 0217 (VNU), 3160 (NMNH); HÒA BÌNH, CPC 1695
(HN); THANH HÓA, XL804 (HN); QUẢNG TRỊ, CPC 2819 (HN).
Giá trị sử dụng: Rễ và thân rễ dùng làm thuốc ho, chữa viêm phế quản,
cảm sốt và tê thấp.
13
Ảnh Tế tân balansa
(Asarum balansae
Franch)
chụp tại KBTTN Na
Hang (Tuyên Quang)
3.1.1.2.3. Asarum cordifolium C. E. C. Fischer Tế tân lá hình tim
Cây thảo, sống nhiều năm, thân rễ nằm ngang, cao 1525 cm, có lóng 23
cm. Thân rễ tròn, có lông thưa ở thân già, lông trắng dày ở thân non. Lá
mọc cách, 14 lá; hình tim 812 × 78 cm; mép lá nguyên, có lông trắng
thưa; 2 mặt lá phủ lông trắng; cuống lá 1220 cm, có lông trắng dày ở
cuống lá non; gân đáy 5. Hoa đơn độc, mọc ở ngọn, màu đỏ, có nhiều
lông trắng ở mặt ngoài; cuống dài 2 cm, có nhiều lông trắng. Lá vảy hình
mũi giáo. Đài rời; lá đài màu đỏ, cỡ 2,0 × 1,2 cm; ở chóp lá đài đột ngột
thót lại thành đuôi nhọn, dài 11,5 cm. Cánh hoa 3, dạng hình kim, màu
đỏ, dài 0,3 cm. Nhị 12; chỉ nhị dài bằng bao phấn, màu đỏ tím; trung đới
hình lưỡi, vượt bao phấn. Vòi nhụy 6, hợp; cao bằng bao phấn; đỉnh
nguyên. Quả phát triển trong bao hoa tồn tại, màu đỏ nhạt, có lông trắng
dày; bầu trung, 6 ô. Hạt nhỏ, 1530 hạt, màu nâu đen, nhẵn.
Loc. class.: India (Asam), Myanma (Chin, Kachin và Sagaing). Syntypus:
Kingdon Ward, F., 8123 (K), Kingdon Ward F., 6661 (K).
Sinh học và sinh thái: Cây ra hoa vào đầu tháng 10, hoa nở vào đầu tháng
11, phát tán hạt vào tháng 67 năm sau, hạt phát tán gần.
Phân bố: Lào Cai (Bản Khoang, Bãi Rác, Tả Phìn, Tả Van, Cát Cát Sa
Pa). Còn gặp ở phía Nam Himalayan, Assam (Ấn Độ) và Bắc Myanma.
Mẫu nghiên cứu: LÀO CAI, NAT11129 (HN); HÀ NỘI, 3719HNU;
Kew, K000634499, K000634500 (K).
Giá trị sử dụng: Người Dao Đỏ (Sa Pa, Lào Cai) sử dụng làm thuốc tắm
trị đau lưng, nhiễm trùng vết thương và trị bệnh trĩ.
14
Tình trạng: Loài Tế tân lá hình tim (Asarum cordifolium) mọc dưới tán
rừng thảo quả tại Bản Khoang (Sa Pa, Lào Cai) nên ít nhiều bị tác động
bởi hoạt động canh tác của người dân trồng thảo quả.
Ảnh Tế tân lá hình tim
(Asarum cordifolium C.
E. C. Fischer )
chụp tại VQG Hoàng
Liên (Sa Pa, Lào Cai)
3.1.1.2.4. Asarum caudigerum Hance Tế tân hoa có đuôi
Cây thảo, sống nhiều năm, cao 1530 cm. Thân rễ tròn, có đốt ngắn 11,5
cm, phân nhánh, mang nhiều rễ con. Cây đẻ nhánh khỏe và nhiều nên
thường phát triển thành từng khóm. Lá gồm 26 cái, mọc thành cặp,
cuống dài 1830 cm; phiến lá dày, hình tim, 1324 × 1118 cm; ở mặt dưới
có nhiều lông trắng, tập trung nhiều ở gân lá; mặt trên có lông trắng thưa,
chủ yếu ở gân; gân đáy 5; mép lá nguyên. Hoa đơn độc, mọc ở kẽ lá hoặc
ở ngọn; cuống hoa dài 15 cm, có lông trắng. Lá vảy 3. Đài rời; mặt ngoài
lá đài đỏ nhạt rồi xanh ở phía trên , mặt trong màu đỏ, cỡ 2,5 × 1,2 cm; ở
chóp lá đài đột ngột thót lại thành đuôi nhọn, dài 1,53,3 cm. Cánh hoa 3,
dạng hình kim, dài 0,3 cm, màu tím nhạt. Nhị 12; chỉ nhị dài bằng bao
phấn, màu đỏ tím; trung đới hình lưỡi, vượt bao phấn. Nhụy 6, vòi nhụy
hợp lại thành cột, đỉnh vòi nhụy nguyên, cao bằng bao phấn. Quả phát
triển trong bao hoa tồn tại, màu tím, có lông trắng dày; bầu dưới, 6 ô. Hạt
nhỏ, 6090 hạt, màu nâu đen, nhẵn.
Loc. class.: In prov. Cantonensi, secus fl. East River. Typus: Herb. Propr. n.
21366.
Sinh học và sinh thái: Cây bắt đầu ra hoa từ tháng 1112; hoa nở vào đầu
tháng 1 năm sau; quả chín và phát tán hạt vào tháng 34.
Phân bố: Hà Giang (Phó Bảng, Quản Bạ) và Tuyên Quang (Na Hang).
Còn có ở Trung Quốc.
Mẫu nghiên cứu: TUYÊN QUANG, NAT12012 (HN); HÀ GIANG, CPC
199 (HN) và CPC 242 (HN); Kew, K000634520; Natural History Museum,
15
BM000901357; Herbarium Musei Parisiensis, P01645340…; Trung
Quốc (Đài Loan), 041317…; Trung Quốc (Xishuangbanna), 2844, 065815;
Virtual Herbaria Austria, 2770.
Giá trị sử dụng: Rễ và thân rễ làm thuốc ho, chữa viêm họng, cảm sốt,
cảm lạnh.
Ảnh Tế tân hoa có đuôi
(Asarum caudigerum Hance)
chụp tại KBTTN Na Hang
(Tuyên Quang)
3.1.1.2.5. Asarum glabrum Merr. Tế tân nhẵn
Cây thảo sống nhiều năm, cao 2030 cm. Thân rễ ngắn, tròn, có đốt;
mang nhiều rễ phụ dài; có thể phân nhánh. Lá mọc so le, gồm 23 cái;
cuống dài 1017 cm, nhẵn, khi non màu tía sau chuyển thành màu lục
nhạt. Phiến lá mỏng, hình tim nhọn đầu, cỡ 1318 × 812 cm; gốc lá tạo
thành 2 thùy, gần nhọn, cách xa nhau; mặt trên lá nhẵn, mặt dưới có lông
thưa ở gân; mép nguyên. Hoa thường chỉ có 1 cái, mọc ở kẽ lá; cuống hoa
dài 3 cm, màu tím nâu, thường mọc rủ xuống, nhưng hoa lại hướng cong
lên. Lá đài hợp thành ống 33,5 cm, thắt lại 1/3 phía trên, màu nâu xám
hình phễu hơi cong; đầu chia thành 3 thùy tam giác hay hình mác, mặt
ngoài có 7 đường vân chạy dọc; họng màu tím nâu có vân trắng. Nhị 12,
chỉ nhị ngắn, màu đỏ tím; trung đới tròn đầu, vượt trên bao phấn. Nhụy 6,
vòi nhụy rời; đỉnh vòi nhụy chẻ làm 2, hình chữ V. Quả phát triển trong
bao hoa tồn tại, màu nâu xám nhạt. Hạt nhỏ, màu đen.
Loc. class.: Vietnam: Tonkin: Hanoi, Mt. Bavi, open forests, ca. 600 m, 2
July 1940. TypeProto.: Petelot 2611 (HT: A).
Sinh học và sinh thái: Mùa hoa tháng 56, quả tháng 79. Hạt phát tán
gần, nên thấy cây con xung quanh gốc cây mẹ.
Phân bố: Lào Cai (Sa Pa), Hà Giang (Quản Bạ), Vĩnh Phúc (Tam Đảo) và
Hà Nội (Ba Vì).
Mẫu nghiên cứu: LÀO CAI, NAT13053; VĨNH PHÚC, NAT12093 (HN);
HÀ NỘI, NAT11073 (HN), 0219 (HNU).
16
Giá trị sử dụng: Rễ và thân rễ của loài Tế tân nhẵn (Asarum glabrum)
được dùng làm thuốc ho, chữa viêm họng, hoa ngâm rượu làm thuốc bổ.
Ảnh Tế tân nhẵn
(Asarum glabrum Merr.)
chụp tại VQG Ba Vì (Hà
Nội)
3.1.1.2.6. Asarum wulingense C. F. Liang Tế tân wuling
Cây thân thảo. Thân rễ đứng, dày 34 mm, đốt ngắn hơn 5 mm. Lá đơn
độc, cuống lá uốn ngược lại, mặt trên phiến lá màu xanh với các vết trắng,
thường hình trứng hay trứng thuôn, hiếm khi hình tam giác, 717 × 59 cm,
mặt dưới phủ lông vàng nâu dày đặc, mặt trên thường nhẵn hoặc có lông
tơ dài ở gân bên và gân chính, gốc lá hình tai hoặc hình tim dạng tai, thùy
bên lá phân nhánh, chóp lá nhọn; lá vảy hình trứng, 1,2 × 0,8 cm. Cuống hoa
uốn ngược phủ lông, dài 2 cm. Lá đài hợp lại ở thành bầu, đầu chia thành 3
thùy tam giác hay hình mác, màu đỏ tía, 23 × 23 cm, mặt ngoài phủ lông
tơ vàng nâu dày đặc; ống đài hình trụ, 2,5 × 1,2 cm, mở rộng dần, không
thắt lại, mặt trong có sọc theo chiều dọc, miệng hình tròn, rộng 1 cm. Nhị
12, chỉ nhị ngắn hơn bao phấn, trung đới kéo dài vượt bao phấn, hình lưỡi.
Bầu dưới. Vòi nhụy rời, chẻ 2 ở chóp; núm nhụy ở bên. Mùa ra hoa vào
tháng 124.
Loc. class.: China: Guangxi: Longsheng, moist shady areas, ca. 1100 m, 14
Oct. 1956. TypeProto.: S. L. Yu et al. 700702; HT: IBG (fl.).
Phân bố: Hà Giang (Quản Bạ), Vĩnh Phúc (Tam Đảo) và Hà Tĩnh
(Hương Sơn). Còn có ở Trung Quốc. Hiện tại chúng tôi chưa thu được
mẫu của loài này.
Giá trị sử dụng: Chưa rõ.
3.1.1.2.7. Asarum petelotii O.C. Schmidt Tế tân petelot
17
Thân thảo. Thân rễ nằm ngang, đường kính 45 mm. Thân đứng
mang 2 lá, cuống lá dài 1024 cm. Lá có phiến dạng hình trứng, trứng
thuôn hay hình mác thuôn, 1323 × 813 cm; mặt dưới của phiến lá có
lông tơ thưa ở gân lá, mặt trên nhẵn; mép lá có lông cứng nhỏ; gốc lá có
tai hay hình mác, thùy bên phân nhánh, 7 × 6 cm; chóp lá nhọn. Vãy chồi
hình trứng mũi giáo, 2 × 1 cm; mép lá vảy có lông tơ dày. Cuống hoa mọc
hướng thẳng lên, dài 35 cm; đài hoa màu tím hoặc tím nhạt; lá đài hợp
lại thành ống hình trụ thường nghiêng sang một bên ở thành bầu và mở
rộng dần, hơi hẹp ở vòng miệng; mặt ngoài nhẵn, mặt trong có sọc; thùy
lá đài hình trứng, 2,5 × 2 cm, mặt ngoài có 5 đường vân chạy dọc không
rõ, mặt trong với một nữa bề mặt màu đỏ tía, gần mép thùy màu vàng
nhạt. Nhị 12, bao phấn dài 2 mm, trung đới hình lưỡi, vượt lên bao phấn.
Nhụy 6, vòi nhụy rời; đỉnh vòi nhụy chẻ 2, hình chữ V. Bầu trung. Quả
phát triển trong bao hoa tồn tại, màu đỏ tía (hình 3.17).
Ảnh Tế tân petelot (Asarum
petelotii O.C. Schmidt)
chụp tại VQG Tam Đảo
(Vĩnh Phúc)
Loc. class.: Vietnam. Typus: Petelot
3891
(P).
Sinh học và sinh thái: Mùa hoa tháng 45, quả tháng 68. Hạt phát tán
gần, nên thấy cây con xung quanh gốc cây mẹ.
Phân bố: Lào Cai (Sa Pa) và Vĩnh Phúc (Tam Đảo). Còn có ở Trung Quốc
(Vân Nam).
Mẫu nghiên cứu: LÀO CAI, NAT13054 (HN); VĨNH PHÚC, NAT12094
(HN); Petelot, 5009, 3891, 5036 (P).
Giá trị sử dụng: Rễ và thân rễ của loài Tế tân petelot ( Asarum petelotii)
được dùng làm thuốc ho, chữa viêm họng, hoa ngâm rượu làm thuốc bổ.
3.1.1.2.8. Asarum blumei Duch. Tế tân blume
Cỏ nhiều năm; thân ngắn, dài 12 cm, mang ít rễ to 1,5 mm, có ít rễ con.
Lá 2; cuống dài đến 10 cm, không lông; phiến hình tim mũi giáo, to 8 × 4
18
cm, mặt trên xám lục, mặt dưới ửng nâu, gân đáy 3(5), gân phụ 2
cặp; bìa lá không răng. Cuống hoa dài 1,5 cm. Lá đài hợp gắn lại ở thành
bầu, tạo thành hình ống, không nghiêng, vùng cổ rộng, phồng xung quanh
bầu, dài 1,52 cm; thùy lá đài 3, tròn dài, cao 1 cm. Nhị 12; vòi nhụy rời,
đỉnh vòi nhụy chẻ 2. Quả nang, bầu 6 ô.
Phân bố: Hà Giang, Lạng Sơn và Vĩnh Phúc. Còn có ở Malaixia, Nhật
Bản (Suruga) (phụ lục 6.8). Hiện tại chúng tôi chưa thu được mẫu của
loài này.
Mẫu nghiên cứu: Pháp (Pari), P01645370 và P01645371.
Giá trị sử dụng: Rễ cây chứa tinh dầu mà thành phần chủ yếu là safrole
và eugenol, được dùng làm thuốc chữa viêm phế quản, ho và chữa thủy
thũng. Nhân dân thường dùng làm thuốc gây nôn.
3.1.1.2.9. Asarum reticulatum Merr. Tế tân mạng
Thân nằm rồi đứng, đơn độc hay phân nhánh, nhẵn, đường kính đến 3
mm, có rễ sái vị, ngắn. Lá hình tim thuôn, như da, cả hai mặt nhẵn, 1317
× 68 cm, nhọn hoặc nhọn dần; gốc lá hình tim, thùy lá ngắn hoặc hơi
xòe, hình trứng, tròn, 2,54 × 2,53,5 cm; mép lá có răng nhỏ không đều,
có lông tơ; gân chính 3, rõ, lồi ở mặt dưới lá, thêm hai gân mãnh từ gốc
thùy lá kéo dài ra, hình mạng lưới thưa rõ ở phía dưới, không dính liền;
cuống lá dài 89 cm. Lá đài hợp thành ống ở thành bầu, mở rộng dần, dài
33,5 cm, mặt ngoài nhẵn, gốc gồ lên, rộng 1,8 cm (phần thắt lại), phía
cổ họng hơi thắt lại, hướng xuống dưới, thùy hình trứng rộng, tròn,
chiều dài khoảng 2 cm; lá vảy hình mũi giáo, nhọn dần, dài khoảng 1,5
cm, ở mép có ít hoặc nhiều lông tơ. Nhị 12, chỉ nhị vượt lên bao phấn,
bao phấn dài 2 mm; trung đới hình lưỡi, tròn, ngắn. Nhụy 6, vòi nhụy rời;
đỉnh vòi nhụy chẻ làm 2, hình chữ V.
19
Ảnh Tế tân mạng
(Asarum reticulatum
Merr.) chụp tại VQG
Hoàng Liên (Sa Pa,
Lào Cai)
Loc. class.: Vietnam: Tonkin: Chapa, 1500 m, 1935. Typus: Petelot 2554
(HT: A).
Sinh học và sinh thái: Mùa hoa tháng 34, quả tháng 56. Hạt non phát
triển bình thường trong quả, chưa thấy cây cho quả chứa hạt già, quả
non thường mọc sát mặt đất và bị thối rữa khi có mưa. Loài này đa số tái
sinh bằng chồi, chưa thấy cây con mọc xung quanh gốc cây mẹ. Cây ưa
ẩm, ưa bóng; thường mọc trên đất nhiều mùn dọc theo hành lang khe
suối, sườn núi, 2 bên đường mòn trong rừng, dưới tán rừng kín thường
xanh ẩm, ở độ cao 1.5001.700 m.
Phân bố: Mới thấy ở Lào Cai (Can Hồ B, Bản Khoang, Sa Pa).
Mẫu nghiên cứu: LÀO CAI, NAT12045, NAT13055 (HN); Petelot 2554
(HNU).
Giá trị sử dụng: Dân tộc Dao Đỏ sử dụng cả cây làm thuốc chữa bệnh
trĩ và thuốc kháng sinh.
3.1.1.3. Một số ghi nhận mới về đặc điểm các loài thuộc chi Tế tân
(Asarum L.) ở Việt Nam
3.1.1.3.1. Đặc điểm hình thái
Theo các mô tả trước đây, trong cấu trúc hoa của các loài thuộc chi Tế tân
(Asarum L.) không tồn tại tràng hoa ở bao hoa, chỉ có lá đài gắn lại với
nhau hợp ở thành bầu và tạo thành ống đài hoặc rời và tạo thành ống đài
giả phía trên bầu. Khi phân tích cấu trúc hoa ở các loài Tế tân hoa có đuôi
(Asarum caudigerum), loài Tế tân lá hình tim (Asarum cordifolium) và loài
Tế tân petelot (Asarum petelotii), chúng tôi phát hiện có sự tồn tại của
tràng hoa tiêu biến ở dạng hình kim, dài khoảng 0,3 cm (hình 3.21). Ở các
20
loài Tế tân vân nam (Asarum yunnanense), Tế tân balansa
(Asarum balansae), Tế tân nhẵn (Asarum glabrum) và Tế tân mạng
(Asarum reticulatum) có phát hiện tràng hoa ở một số ít cá thể.
3.1.1.3.2. Mùa ra hoa
Qua các đợt khảo sát từ năm 2010 đến năm 2013 tại Lào Cai (Sa Pa), Hà
Giang (Quản Bạ), Tuyên Quang (Na Hang), Vĩnh Phúc (Tam Đảo), Hà
Nội (Ba Vì) và Thanh Hóa (Thường Xuân) theo các mùa khác nhau trong
năm, chúng tôi đã ghi nhận được mùa hoa và mùa quả của các loài thuộc
chi Tế tân (Asarum L.).
Kết quả cho thấy, thời điểm ra hoa, quả chín và phát tán hạt theo ghi
nhận của chúng tôi thường sớm hơn so với những ghi nhận trước đây.
3.1.1.3.3. Phân bố
Qua việc đánh dấu định vị tại các điểm nghiên cứu, chúng tôi đã ghi nhận
và xây dựng đai độ cao phân bố của các loài thuộc chi Tế tân (Asarum L.) ở
Việt Nam (bảng 3.5). Qua bảng 3.5 cho thấy, loài Tế tân vân nam ( A.
yunnanense) mới phát hiện một số ít cá thể ở độ cao 410 m tại Tuyên
Quang (Na Hang); loài Tế tân banlansa (A. balansae) mới phát hiện phân bố
ở độ cao 200400 m tại Tuyên Quang (Na Hang), Hà Nội (Ba Vì), Hòa Bình
(Lạc Sơn), Thanh Hóa (Thường Xuân) và Quảng Trị (Hướng Hóa); loài Tế
tân lá hình tim (A. cordifolium) ở độ cao 1.5001.700 m tại Lào Cai (Sa Pa);
loài Tế tân hoa có đuôi (A. caudigerum) ở độ cao 7001.000 m tại Tuyên
Quang (Na Hang) và Hà Giang (Quản Bạ); loài Tế tân nhẵn (A. glabrum) ở
độ cao 9001.100 m tại Lào Cai (Sa Pa), Vĩnh Phúc (Tam Đảo) và Hà Nội
(Ba Vì); loài Tế tân petelot (A. petelotii) ở độ cao 1.0001.600 m tại Lào Cai
(Sa Pa) và Vĩnh Phúc (Tam Đảo); loài Tế tân mạng ( A. reticulatum) ở độ
cao 1.5001.700 m tại Lào Cai (Sa Pa). Những ghi nhận về đai độ cao phân
bố của các loài thuộc chi Tế tân (Asarum L.) khác biệt so với những ghi
nhận trước đây.
3.1.2 Kết quả điều tra về vốn tri thức bản địa của cộng đồng trong
việc sử dụng các loài thuộc chi Tế tân (Asarum L.) làm thuốc
Tế tân balansa (Asarum balansae)
+ Thuốc tắm: Lấy lá làm thuốc tắm chữa bệnh đau nhức xương khớp
+ Men rượu: Lá loài Tế tân balansa (Asarum balansae) kết hợp với các
loài khác làm men rượu, sản xuất rượu ngô men lá.
Tế tân lá hình tim (Asarum cordifolium)
+ Toàn cây sử dụng làm thuốc tắm trị đau lưng, nhiễm trùng vết thương
và trị bệnh trĩ.
Tế tân hoa có đuôi (Asarum caudigerum)
21
Rễ và thân rễ làm thuốc ho, chữa viêm họng, cảm sốt, cảm lạnh.
Tế tân nhẵn (Asarum glabrum)
+ Thuốc tắm: Sử dụng lá làm thuốc tắm chữa trị bệnh đau bụng, đau
mắt, thâm mắt, làm tan mộng mắt và trị thấp khớp.
+ Thuốc bổ: Sử dụng hoa ngâm với rượu uống hàng ngày, trị bệnh mất
ngủ, đau đầu, thần kinh suy nhược và ăn uống ngon miệng.
Tế tân mạng (Asarum reticulatum)
+ Toàn cây được sử dụng điều trị bệnh trĩ: sắc uống điều trị trĩ nội; sắc
uống và giã nát đắp điều trị trĩ ngoại (Phụ nữ mang thai và cho con bú
không được sử dụng).
+ Làm thuốc kháng sinh: Giã nát đắp điều trị các vết thương, lỡ loét ngoài
da, u nhọt.
+ Thuốc tắm: Toàn cây được sử dụng làm thuốc tắm gây ra thai.
3.1.3.
Thăm dò khả năng nhân giống và xây dựng mô hình bảo tồn
một số loài thuộc chi Tế tân (Asarum L.)
3.1.3.1. Loài Tế tân balansa (Asarum balansae)
3.1.3.1.1. Khả năng tái sinh tự nhiên của loài Tế tân balansa (Asarum
balansae) tại Bản Bung, Na Hang, tỉnh Tuyên Quang
Cây tái sinh có nguồn gốc từ chồi chiếm ưu thế (từ 76,697,5%); cây tái
sinh có nguồn gốc từ hạt chiếm tỷ lệ tương đối thấp (từ 2,523,4%).
Chất lượng tái sinh không đồng đều giữa các khu vực.
3.1.3.1.2. Đặc điểm phân bố của loài Tế tân balansa ( Asarum
balansae) tại Bản Bung, Na Hang, tỉnh Tuyên Quang trong các cấu
trúc thảm thực vật
Phân bố theo kiểu rừng
Tại Bản Bung, huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang hầu hết phân bố ở
kiểu rừng nhiệt đới thường xanh mưa ẩm trên núi thấp, chủ yếu ở chân
và sườn núi.
Phân bố theo trạng thái và sinh cảnh
Theo trạng thái rừng: Tế tân balansa (Asarum balansae) phân bố tập trung
chủ yếu ở trạng thái rừng IIIA2, thuộc vùng lõi của KBTTN Na Hang.
Về sinh cảnh: Tế tân balansa (Asarum balansae) chủ yếu phân bố trên
đất, chúng mọc sát ngay bề mặt đất, nơi đất giàu mùn; độ ẩm, độ xốp và
ánh sáng cao; thoáng khí. Đôi khi thấy xuất hiện trên các hốc đá. Có thể
bắt gặp loài Tế tân balansa (Asarum balansae) ở những nơi ẩm ướt, ven
22
các suối, dưới tán rừng cây gỗ nhỏ, chủ yếu ở hai bên đường mòn đi
lại trong rừng.
Phân bố theo địa hình và đai cao
Về địa hình: Phân bố chủ yếu ở dạng địa hình như chân núi, có thể bắt gặp
một số ít cá thể ở sườn núi, chưa bắt gặp ở đỉnh núi và dông núi.
Về đai cao: Phân bố theo đai cao của loài Tế tân balansa ( Asarum
balansae) rất rộng, từ 201 m đến 1200 m. Với điều kiện về độ cao này,
rất thích hợp cho việc gây trồng tự nhiên, nhằm bảo tồn và sử dụng bền
vững loài biến hóa núi cao (A. balansae) tại khu vực Bản Bung, xã Thanh
Tương, huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang.
3.1.3.1.3. Khả năng nhân giống của loài Tế tân balansa (Asarum
balansae)
Tại 2 địa điểm ở Bản Bung, Na Hang, tỉnh Tuyên Quang là tại rừng rừng
tự nhiên (thung Lung Khăm) và tại vườn ươm (Bản Bung), sau 41 ngày
nhân giống, tỷ lệ ra rễ từ hom thân rễ (58,33%81,3%) cao hơn so với
hom ngọn (42,5%57%); tỷ lệ ra rễ của hom thân rễ và hom ngọn ở vườn
rừng tự nhiên tại thung Lung Khăm (57%81,3%) cao hơn so với vườn
ươm tại Bản Bung (42,5%58,33%). Đặc biệt, chưa thấy cây nảy mầm
từ hạt. Điều này phù hợp với khả năng tái sinh tự nhiên của loài Tế tân
balansa (Asarum balansae) từ chồi trong điều kiện tự nhiên.
3.1.3.1.4. Tình trạng
Loài Tế tân balansa (Asarum balansae) được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam
(2007) với cấp đánh giá EN A1,c,d; B1 +2b,c. và Danh lục thực vật rừng và
động vật rừng nguy cấp, quí hiếm (nhóm 2A) trong Nghị Định
32/2006/NĐCP để hạn chế khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại.
Các điểm phân bố không nhiều và cách xa nhau, dễ gặp rủi ro vì cây chủ
yếu mọc ven rừng, cạnh lối đi. Tại Hà Nội (Ba Vì), quần thể mọc chủ yếu
ở độ cao từ 400500 m, gần khu vực Đền Trung, tuy nhiên, cây thường
mọc rải rác số lượng cá thể không nhiều. Tại Tuyên Quang (Bản Bung, Na
Hang), các điểm bắt gặp ở độ cao từ 200 đến 600 m, mật độ phân bố cao
hơn, nhưng không đồng đều trong khu vực; ngoài ra còn gặp ở khu vực
Hòa Bình (Lạc Sơn), Thanh Hóa (KBTTN Xuân Liên) và Quảng Trị
(Hướng Hóa).
3.1.3.1.5. Mô hình bảo tồn
Trên cơ sở những khảo sát tại khu vực nghiên cứu chúng tôi tiến hành
nghiên cứu và đưa ra mô hình bảo tồn sau đây:
Bảo tồn nguyên vị: Khoanh nuôi tự nhiên trên diện tích 200 m2 (với số
lượng 900 cây) tại khu vực Lung Khăm (độ cao từ 400 đến 600 m) và
trồng mới 200 m2 (800 cây con nhân giống) dưới tán rừng tự nhiên, thuộc
23
Bản Bung, huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang. Nhìn chung, tại khu
vực khoanh nuôi và trồng mới, cây sinh trưởng và phát triển tốt.
Bảo tồn chuyển vị: Trồng dưới tán rừng trong khu vực vườn rừng của
một số hộ tại Bản Bung ở độ cao 200430 m, diện tích 100 m2 với số
lượng 240 cây con đã nhân giống. Cây có đủ độ che sáng và độ ẩm, được
chăm sóc tốt nên sinh trưởng và phát triển cũng khá, tỷ lệ cây sống khá
cao đạt 50,41%.
3.1.3.2. Loài Tế tân hoa có đuôi (Asarum caudigerum)
3.1.3.2.1. Khả năng tái sinh tự nhiên của loài Tế tân hoa có đuôi
(Asarum caudigerum) tại Bản Bung, Na Hang, tỉnh Tuyên Quang
Kết quả cho thấy, loài Tế tân hoa có đuôi (Asarum caudigerum) phân bố
tập trung dọc theo đường mòn sườn núi, nơi có độ ẩm cao, độ che thấp.
Tại các chân núi, ít gặp; đặc biệt, tại các đỉnh và rông núi, không thấy
xuất hiện loài này. Cây chủ yếu tái sinh bằng hạt và chồi.
3.1.3.2.2. Đặc điểm phân bố của loài Tế tân hoa có đuôi (Asarum
caudigerum) tại Bản Bung, Na Hang, tỉnh Tuyên Quang trong các cấu
trúc thảm thực vật
Phân bố theo kiểu rừng
Kết quả điều tra tại Bản Bung, Na Hang, tỉnh Tuyên Quang cho thấy, loài
Tế tân hoa có đuôi (Asarum caudigerum) phân bố ở kiểu rừng nhiệt đới
thường xanh mưa ẩm trên núi thấp, chủ yếu ở sườn và chân núi.
Phân bố theo trạng thái và sinh cảnh
Theo trạng thái rừng: Loài Tế tân hoa có đuôi (Asarum caudigerum) phân
bố tập trung chủ yếu ở trạng thái rừng IIIA2, thuộc vùng lõi của KBTTN
Na Hang, tỉnh Tuyên Quang.
Về sinh cảnh: Loài Tế tân hoa có đuôi (Asarum caudigerum) chủ yếu
phân bố trên đất, chúng mọc sát ngay bề mặt đất, nơi đất giàu mùn; độ
ẩm, độ xốp cao; thoáng khí; ưa sáng. Đôi khi thấy xuất hiện trên các hốc
đá, hay những nơi ẩm ướt, ven các suối, dưới tán rừng cây gỗ nhỏ, chủ
yếu ở hai bên đường mòn đi lại trong rừng.
Phân bố theo địa hình và đai cao
Về địa hình: Phân bố chủ yếu ở dạng địa hình sườn núi, có thể bắt gặp
một số ít cá thể ở chân núi, chưa bắt gặp ở đỉnh núi và rông núi.
Về đai cao: Phân bố về độ cao của loài Tế tân hoa có đuôi (Asarum
caudigerum) rất rộng, từ 754 m đến 1.800 m. Với điều kiện về độ cao
này, rất thích hợp cho việc gây trồng tự nhiên, nhằm bảo tồn và sử dụng
bền vững loài Tế tân hoa có đuôi (Asarum caudigerum) tại khu vực bản
Bung, xã Thanh Tương, huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang.
24
3.1.3.2.3. Khả năng nhân giống của loài Tế tân hoa có đuôi
(Asarum caudigerum)
Tại 2 địa điểm ở bản Bung là tại vườn rừng tự nhiên (thung Pu Cọ) và
tại vườn ươm (Bản Bung), tỷ lệ ra rễ từ hom thân rễ (12,5%87,3%) cao
hơn so với hom ngọn (6,67%80,1%). Tỷ lệ ra rễ ở vườn rừng tự nhiên
(Pu Cọ) cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ ra rễ ở vườn ươm (Bản Bung).
Đặc biệt, chưa thấy cây nảy mầm từ hạt.
3.1.3.2.4. Tình trạng
Tế tân hoa có đuôi (Asarum caudigerum) được xếp hạng VU (Sẽ nguy
cấp) trong Sách Đỏ Việt Nam (2007) và thuộc nhóm II trong Nghị Định
32/2006/NĐCP của Chính phủ để hạn chế khai thác, sử dụng vì mục
đích thương mại. Các ven rừng, hai bên đường mòn trong rừng. Qua các
đợt khảo sát, chưa phát hiện loài Tế tân hoa có đuôi (Asarum caudigerum)
tại Hà Nội (Ba Vì), Vĩnh Phúc (Tam Đảo) và Lào Cai (Sa Pa). Mới chỉ
gặp loài này tại Tuyên Quang (Na Hang) và Hà Giang (Quản Bạ) với số
lượng cá thể khá nhiều, tuy nhiên, phân bố không đồng đều giữa các khu
vực khác nhau.
3.1.3.2.5. Mô hình bảo tồn
Trên cơ sở những khảo sát tại khu vực nghiên cứu chúng tôi tiến hành
nghiên cứu và đưa ra mô hình bảo tồn sau đây:
Bảo tồn nguyên vị: Khoanh nuôi tự nhiên (300 cây) và trồng mới (600 cây
nhân giống) trên diện tích 200 m2/mỗi nơi, ở độ cao trên 900 m, tại thung
Pu Cọ thuộc Bản Bung, huyện Na Hang, Tuyên Quang; Cây sinh trưởng
và phát triển tốt, tỷ lệ sống đạt 80%.
Bảo tồn chuyển vị: Tại bản Bung ở độ cao 400 m; diện tích 100 m 2 với số
lượng 400 cây con đã nhân giống. Tuy được chăm sóc cẩn thận nhưng
cây sinh trưởng và phát triển kém, tỷ lệ sống thấp đạt 612%.
3.1.3.3. Loài Tế tân nhẵn (Asarum glabrum)
3.1.3.3.1. Khả năng nhân giống bằng hom
Thử nghiệm nhân giống bằng hom thân loài Tế tân nhẵn ( Asarum
glabrum) tại VQG Tam Đảo (Vĩnh Phúc).
Từ kết quả thu được ở trên cho chúng ta thấy, loài Tế tân nhẵn ( Asarum
glabrum) khi không xử lý thuốc (công thức đối chứng) cho tỷ lệ ra rễ
không cao (40%). Tỷ lệ ra rễ của các hom có xử lý thuốc kích thích (IBA,
NAA và IAA) đạt từ 77,1% đến 91,4%. Thời vụ nhân giống vào mùa
xuân và mùa thu là phù hợp cho việc nhân giống. Tỷ lệ ra rễ khá cao cho
thấy khả năng nhân giống bằng hom thân loài Tế tân nhẵn ( Asarum
glabrum) này là rất khả thi và có thể thực hiện thành công được.
3.1.3.3.2. Tình trạng
25
Mặc dù cây bắt gặp ở nhiều điểm phân bố như Lào Cai (Sa Pa), Hà
Giang (Quảng Bạ), Hà Nội (Ba Vì) và Vĩnh Phúc (Tam Đảo) nhưng ở
mỗi điểm số lượng cá thể không nhiều, các quần thể thường nhỏ và bị
phân cắt. Do bị phá rừng làm nương rẫy cũng như do bị khai thác quá
mức để sử dụng hay buôn bán qua biên giới, cho nên, nơi sống và số
lượng cá thể và kích thước quần thể của loài bị ảnh hưởng, loài được ghi
trong Sách Đỏ Việt Nam 2007 với cấp đánh giá VU A1,c,d và Danh lục
thực vật rừng và động vật rừng nguy cấp, quí hiếm (nhóm 2A) trong
Nghị Định 32/2006/NĐCP để hạn chế khai thác, sử dụng vì mục đích
thương mại.
3.1.3.3.3. Mô hình bảo tồn
Trên cơ sở những khảo sát tại khu vực nghiên cứu chúng tôi tiến hành
nghiên cứu và đưa ra mô hình bảo tồn sau đây:
Bảo tồn nguyên vị: Khoanh nuôi tự nhiên tại khu vực ven đường núi Rùng
Rình (độ cao trên 1.000 m), thuộc thị trấn Tam Đảo, Vĩnh Phúc (VQG
Tam Đảo) diện tích 200 m2 với số lượng 80 cây (trung bình khoảng 4.000
cây/ha). Số lượng cây không nhiều nhưng sinh trưởng và phát triển tốt.
Tại xã Thái An, Quản Bạ, Hà Giang với diện tích 100 m 2 dưới tán rừng
khu vực chân núi ở độ cao 1.100 m, với số lượng 600 cây. Cây sinh
trưởng và phát triển tốt.
Bảo tồn chuyển vị: Trồng cây dưới tán rừng khu vực Vườn thực vật tại
Ban quản lý VQG Tam Đảo ở độ cao 200 m; diện tích 150 m 2 với số
lượng 500 cây con đã nhân giống. Tuy trồng dưới tán với độ ẩm và độ
che sáng hợp lý, chăm sóc cẩn thận, nhưng cây sinh trưởng và phát triển
chậm, tỷ lệ sống đạt 60%.
3.2.
THÀNH PHẦN HÓA HỌC CỦA MỘT SỐ LOÀI THUỘC
CHI TẾ TÂN (ASARUM L.) Ở VIỆT NAM
3.2.1. Thành phần hóa học chủ yếu trong tinh dầu của một số loài
thuộc chi Tế tân (Asarum L.)
Hàm lượng tinh dầu của loài Asarum balansae đạt 0,02% (theo nguyên
liệu khô không khí). Tinh dầu là chất lỏng màu vàng chanh, có mùi thơm
nhẹ và nặng hơn nước. Tinh dầu từ loài Aarum balancae chứa 18 hợp
chất, trong đó, thành phần hóa học chính của tinh dầu là elemicin
(71,53%) và trans isoelemicin (19,85%).
Hàm lượng tinh dầu của loài Asarum yunnanense đạt 0,16% (theo nguyên
liệu khô không khí). Thành phần hóa học chính của tinh dầu là Emethyl
isoeugenol (47,39%); Cisβelemene (5,94%), bicyclogermacren (4,58%)
Myristicine (4,26%); δelemene (4,90%).