Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Chuẩn bị nguồn nhân lực cho công nghiệp quốc phòng Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (584.26 KB, 27 trang )

1
MỞ ĐẦU 
1. Giới thiệu khái quát về luận án
“Chuẩn bị  nguồn nhân lực cho công nghiệp quốc phòng  
Việt Nam hiện nay” là một luận án tiến sĩ được nghiên cứu dưới 
góc độ chuyên ngành Kinh tế chính trị.
Đề tài luận án là một vấn đề mới, có ý nghĩa lý luận và thực 
tiễn, đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, nhằm cung  
cấp luận cứ khoa học cho Chính phủ, Bộ Quốc phòng và các lực lượng 
có liên quan  thực hiện việc chuẩn bị NNL cho CNQP Việt Nam, từng  
bước đưa CNQP nước ta phát triển trong thế kỷ XXI, đáp ứng nhu cầu 
sản xuất quân sự, phục vụ trực tiếp nhiệm vụ xây dựng Quân đội nhân  
dân Việt Nam “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”,  
sẵn sàng phục vụ nhu cầu chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt 
Nam XHCN.
Luận án có kết cấu gồm: Phần mở đầu, 3 chương, 8 tiết,  
danh mục tài liệu tham khảo và các phụ  lục kèm theo. Nội dung 
chính của luận án là tập trung phân tích, luận giải làm rõ cơ  sở  lý 
luận, thực tiễn, đánh giá thực trạng,  chỉ  ra những  ưu điểm, hạn 
chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết trong  
chuẩn bị  NNL cho CNQP Việt Nam. Trên cơ  sở  đó, đề  xuất các  
quan điểm cơ  bản, giải pháp chủ  yếu để  thực hiện có hiệu quả 
việc chuẩn bị NNL cho phát triển CNQP Việt Nam thời gian tới.
Phạm vi nghiên cứu của luận án chủ  yếu tập trung vào 
vấn đề  chuẩn bị  NNL cho CNQP nòng cốt do Bộ  Quốc phòng, 
Tổng   cục   CNQP   quản   lý.   Trong   quá   trình   ti ến   hành   khảo   sát 
thực trạng, nghiên cứu sinh gặp nhiều khó khăn do yêu cầu của 
bí mật quân sự, bí mật sản xuất quân sự; tư  liệu, tài liệu liên  
quan đến vấn  đề  nghiên cứu chưa có nhiều trên phươ ng diện 
thông tin khoa h ọc. Do vậy, k ết qu ả nghiên cứu của luận án sẽ 
không   tránh   khỏi   những   hạn   chế   nhất   định.   Tác   giả   luận   án 


mong nhận đượ c sự  giúp đỡ, góp ý c ủa Thầy hướng dẫn, các  
nhà khoa học, các đồng nghiệp để  nghiên cứu sinh hoàn thành  
mục tiêu đào tạo.
2. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Hiện nay, hoà bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế  lớn  
trên thế  giới; nhưng tình hình tiếp tục có những diễn biến phức  


2
tạp, tiềm  ẩn nhiều bất trắc, khó lường, nhất là khu vực châu Á ­  
Thái Bình Dương. Toàn cầu hoá và cách mạng KH,CN, trong đó có 
KH,CN nghệ  quân sự  đang từng bước phát triển mạnh mẽ. Các 
nước công nghiệp phát triển đẩy mạnh sản xuất vũ khí trang bị kỹ 
thuật hiện đại, cho ra đời nhiều loại vũ khí mới. Chiến tranh sử 
dụng vũ khí công nghệ cao ngày càng có tính phổ biến. 
Đối với nước ta, nhiệm vụ  bảo vệ  Tổ  quốc có sự  phát  
triển mới và yêu cầu cao hơn. Xây dựng và phát triển CNQP trong  
điều kiện hội nhập quốc tế  là một trong những nhiệm vụ  quan 
trọng của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ  Tổ quốc. Với hoàn cảnh  
nền kinh tế  còn nghèo, CNQP quy mô còn khiêm tốn, công nghệ 
lạc hậu, chúng ta phải có chiến lược rõ ràng, bước đi cụ  thể  để 
phát triển CNQP phù hợp với điều kiện hội nhập quốc tế. 
Ngày nay, mặc dù cuộc cách mạng KH,CN ngày càng phát  
triển, chi phối mọi lĩnh vực sản xuất và đời sống xã hội nhưng  
vẫn không thay thế được vai trò của nguồn lực con người; bởi nó  
là nguồn lực của mọi nguồn lực, là tài nguyên của mọi tài nguyên. 
Yếu tố con người giữ vai trò quyết định trong mọi lĩnh vực và giữ 
vai   trò   quyết   định   nhất   trong   phát   triển   CNQP.   Nhân   lực   trong 
CNQP trực tiếp quản lý, nghiên cứu, sáng tạo, sử dụng, khai thác, 
bảo quản vật chất, trang thi ết b ị, s ản xu ất qu ốc phòng, làm kinh 

tế, xây dựng ngành CNQP nước ta phát triển, thành một bộ  phận 
quan trọng của tiềm lực quốc phòng, an ninh quốc gia; đồng thời  
là một bộ  phận quan trọng của công nghiệp Việt Nam, đóng góp 
tích cực vào sự  nghiệp CNH, HĐH, xây dựng lực lượng vũ trang  
hùng mạnh, góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm v ụ  chi ến  
lược: xây dựng và bảo vệ  Tổ  quốc Việt Nam XHCN. Th ực tiễn  
nước ta thời gian qua cho thấy, thách thức lớn nhất để  phát triển  
CNQP chính là từ con người. Nhiều chủ trương phát triển CNQP  
chưa  được  triển  khai   đồng  bộ,   hiệu quả;   nhiều  dự   án đầu tư 
chưa đạt được mục tiêu ban đầu đặt ra đều có nguyên nhân từ 
năng lực, trình độ tổ chức, tiếp nhận chuyển giao công nghệ  của  
nhân lực CNQP.
Đ ể  có NNL d ồ i dào, ch ấ t l ượ ng t ố t đáp  ứ ng k ị p th ờ i  
s ự   phát   tri ể n   c ủ a   CNQP   trong   th ờ i   k ỳ   chúng   ta   ch ủ   đ ộ ng 
h ộ i   nh ậ p   qu ố c   t ế ,   thì   công   tác   chu ẩ n   b ị   NNL   là   m ộ t   n ộ i  


3
dung quan tr ọ ng trong chi ế n l ượ c phát tri ể n CNQP.
Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước và Quân đội đã ban  
hành nhiều chủ  trương, chính sách, thực hiện nhiều biện pháp để 
xây dựng NNL cho yêu cầu phát triển CNQP. Tuy nhiên, công tác  
này còn nhiều hạn chế  do nhận thức, cơ  chế, tổ  chức thực hiện  
còn nhiều vướng mắc, nhất là trong bối cảnh phát triển kinh tế thị 
trường định XHCN và hội nhập quốc tế. 
Vì vậy, nghiên cứu làm sáng tỏ bản chất, những vấn đề có tính  
quy luật giải quyết vấn đề: Chuẩn bị nguồn nhân lực cho công nghiệp  
quốc phòng Việt Nam hiện nay”  có tính cấp thiết và có ý nghĩa thiết 
thực.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

* Mục đích:
Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn, đề xuất một số 
quan điểm cơ  bản và giải pháp chủ  yếu nhằm chuẩn bị  NNL cho  
CNQP Việt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
­ Làm rõ những vấn đề  lý luận  cơ bản về chuẩn bị NNL cho  
CNQP Việt Nam.
­ Đánh giá thực trạng chuẩn bị NNL cho CNQP ở nước ta thời  
gian qua (cả trên phương diện văn bản pháp quy và tổ chức thực hiện);  
chỉ  rõ nguyên nhân, những vấn đề  đặt ra cần giải quyết để  chuẩn bị 
NNL cho CNQP Việt Nam.
­ Đề  xuất một số quan điểm và giải pháp chủ  yếu để  thực  
hiện tốt nhiệm vụ chuẩn bị NNL cho CNQP nước ta trong thời gian  
tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án 
­ Đối tượng nghiên cứu của luận án: Chuẩn bị NNL cho 
CNQP nòng cốt Việt Nam hiện nay.
­ Phạm vi nghiên cứu của luận án: Luận án nghiên cứu vấn 
đề chuẩn bị NNL cho CNQP (chủ yếu là CNQP nòng cốt do Bộ Quốc 
phòng, Tổng cục CNQP quản lý) ở nước ta dưới góc độ kinh tế chính 
trị; các số liệu cơ bản được tổng hợp từ CNQP nòng cốt, thời gian từ 
năm 2006 ­ 2014. Đề xuất các giải pháp chuẩn bị NNL cho CNQP từ 
nay cho năm 2020 và định hướng đến năm 2030.
5. Cơ sở lý lu ận, th ực ti ễn và p hương pháp nghiên cứu 


4
của luận án
* Cơ sở lý luận, thực tiễn
­ Dựa vào lý luận của chủ nghĩa Mác ­ Lênin, tư tưởng Hồ 

Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng về  vai trò của nhân tố 
con người trong quá trình sản xuất, xây dựng và bảo vệ  Tổ  quốc  
Việt Nam XHCN; về mối quan hệ kinh tế với quốc phòng, kinh tế 
với chiến tranh.Kế  thừa và phát triển kết quả  nghiên cứu của các 
nhà khoa học có liên quan đến nội dung mà luận án nghiên cứu.
­ Dựa vào các báo cáo tổng kết về giáo dục ­ đào tạo, phát 
triển nhân lực của CNQP trong thời gian 2006 ­ 2014.
* Phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu của kinh tế 
chính trị, kinh tế quân sự Mác ­ xít và các phương pháp nghiên cứu  
khoa học xã hội nhân văn, như: phương pháp trừu tượng hóa khoa 
học khi nghiên cứu cơ sở lý luận; kết hợp với phương pháp lô gic, 
lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê khi nghiên cứu, đánh  
giá thực trạng và phương pháp chuyên gia trong toàn bộ  quá trình 
nghiên cứu.
6. Những đóng góp mới của luận án
­   Xây   dựng   được   quan  niệm   Chuẩn   bị   NNL   cho   CNQP  
Việt Nam dưới góc độ kinh tế chính trị; xác định những vấn đề  có  
tính quy luật trong chuẩn bị NNL cho CNQP Việt Nam hiện nay.
­ Đưa ra hệ thống quan điểm cơ bản, giải pháp chủ yếu để 
chuẩn bị NNL cho CNQP Việt Nam hiện nay. 
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
­ Cung cấp luận cứ  khoa học để  Chính phủ, các bộ, ban, 
ngành tham khảo trong hoạch định chủ trương, chính sách chuẩn bị 
NNL cho CNQP nước ta hiện nay.
­  Luận  án có thể   sử  dụng  làm  tài  liệu  tham  khảo trong  
nghiên cứu, giảng dạy, học tập một số nội dung liên quan đến bộ 
môn Kinh tế chính trị, Kinh tế quân sự ở các nhà trường quân đội.
 8. Kết cấu của luận án
 

Gồm: Phần mở đầu, tổng quan về  vấn đề  nghiên cứu; 03 
chương (8 tiết), kết luận; danh mục các công trình công bố kết quả 
nghiên cứu của luận án; danh mục tài liệu tham khảo được trích 
dẫn và sử dụng trong luận án.


5
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Các công trình nghiên cứu  ở  nước ngoài liên quan 
đến đề tài
Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài, tập trung chủ yếu  
ở  các quốc gia như: Nga, Đức, Mỹ, Trung Quốc, Singapore, Thái 
Lan... bàn đến vai trò NNL; giáo dục, đào tạo phát triển NNL, nhân 
lực cho CNQP... được các tác giả  đề  cập  ở  những khía cạnh, góc 
độ khác nhau. Liên quan đến vấn đề nghiên cứu của luận án có các  
nhóm công trình sau: 
Nhóm các công trình khoa học bàn về  vai trò của giáo dục, 
đào tạo đối với phát triển NNL của đất nước; Nhóm các công trình 
khoa học bàn về đào tạo phát triển NNL cho CNQP. 
2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước liên quan đến 
đề tài
Luận án tập trung tổng quan: Nhóm các công trình khoa học bàn 
về vai trò nguồn lực, nguồn lực con người trong phát triển kinh tế ­ xã  
hội nước ta hiện nay; Nhóm các công trình khoa học về phát triển NNL  
phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; Nhóm các công trình 
khoa học về phát triển CNQP và NNL cho CNQP Việt Nam hiện nay
3. Đánh giá khái quát kết quả  nghiên cứu của các công  
trình khoa học đã công bố và những vấn đề đặt ra luận án cần  
tập trung giải quyết
Ở  nhiều góc độ  nghiên cứu khác nhau, các công trình khoa 

học đã đề cập tới vấn đề cần phải xây dựng và phát triển NNL của  
đất nước đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và 
bảo vệ  Tổ  quốc trong thời kỳ  đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập 
quốc tế. Có một số  công trình, bài viết của các tác giả  đã công bố, 
bước đầu đã đề cập đến vấn đề xây dựng NNL, nâng cao chất lượng  
đội  ngũ cán bộ,  nhân viên chuyên môn,  kỹ  thuật trong các doanh 
nghiệp thuộc Tổng cục CNQP đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học, 
công nghệ quân sự nói chung, CNQP nói riêng. Một số đề tài đã làm rõ 
cơ sở lý luận và thực tiễn cần phải phát triển đội ngũ cán bộ giảng 
dạy trong các nhà trường quân đội, nhằm đáp  ứng yêu cầu đào tạo  
NNL chất lượng cao phục vụ  phát triển CNQP của đất nước.  Tuy 
nhiên, chưa có công trình nào chuyên sâu đề cập tới vấn đề: “Chuẩn  


6
bị nguồn nhân lực cho công nghiệp quốc phòng Việt Nam hiện nay”ở 
góc độ kinh tế chính trị.
Vì vậy, vấn đề đặt ra mà luận án cần phải giải quyết là:
Thứ  nhất,  đưa ra quan niệm về  NNL cho CNQP Việt Nam  
dưới góc độ kinh tế chính trị. Thứ hai, xây dựng quan niệm về chuẩn 
bị NNL cho CNQP Việt Nam d ưới góc độ kinh tế chính trị  và phân 
tích rõ nội hàm của nó. Thứ  ba, cần làm rõ tính đặc thù của NNL 
trong CNQP Việt Nam, những vấn đề có tính quy luật trong chuẩn  
bị   NNL   cho   CNQP.  Thứ   tư,  đánh   giá   đúng   ưu   điểm,   hạn   chế,  
nguyên nhân vấn đề  chuẩn bị  NNL cho CNQP nước ta hiện nay.  
Thứ  năm, đề  xuất quan điểm, giải pháp chuẩn bị NNL cho CNQP  
Việt Nam hiện nay

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CHUẨN BỊ 

NGUỒN NHÂN LỰC 
CHO CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG VIỆT NAM 
1.1.   Quan   niệm   về   nguồn   nhân   lực   cho   công   nghiệp 
quốc phòng Việt Nam 
1.1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực
Kế thừa các yếu tố hợp lý của các quan niệm trước, tiếp 
cận dưới góc độ kinh tế chính trị, luận án cho rằng: NNL là một 
phạm trù kinh tế dùng để chỉ toàn bộ sức lao động của xã hội tồn  
tại trong bộ phận dân số có khả năng lao động, được sử dụng vào 
quá trình sản xuất ra của cải, vật chất và tinh thần cho xã hội; 
được biểu hiện thông qua số  lượng, chất lượng (thể lực, trí lực,  
tâm lực) và cơ cấu của bộ phận dân số đó
 1.1.2.  Quan niệm về nguồn nhân lực cho công nghiệp  
quốc phòng
Vận dụng quan niệm về  NNL tiếp cận dưới góc độ  kinh 


7
tế chính trị đã được nêu ra ở tiết 1.1.1, luận án cho rằng: NNL cho 
CNQP Việt Nam là một phạm trù kinh tế để  chỉ  một bộ phận sức  
lao động của quốc gia, được huy động vào quá trình sản xuất hàng  
hoá quân sự phục vụ nhu cầu tiêu dùng của lực lượng vũ trang.
Theo đó, NNL cho CNQP chỉ là một bộ phận của NNL quốc  
gia, gồm có: bộ phận sức lao động trong CNQP nòng cốt do Bộ Quốc 
phòng, Bộ Công an quản lý và bộ phận sức lao động huy động từ các 
thành phần kinh tế, từ chuyên gia nước ngoài, từ Việt kiều. 
Là một bộ  phận NNL của quốc gia, bên cạnh những đặc 
điểm chung, NNL cho CNQP có những đặc thù riêng. 
Một là: tính đa dạng và lưỡng dụng của sức lao động.  Hai là, 
luôn phải giải quyết hài hoà nhu cầu sử  dụng sức lao động trong 

CNQP  ở  thời bình và thời chiến bằng chế  tài định biên rõ rệt. Ba  
là,  NNL trong CNQP là lực lượng lao  động đặc biệt trong môi  
trường công nghiệp đặc thù. 
1.2. Quan niệm, đặc điểm chi phối và những vấn đề có 
tính quy luật chuẩn bị nguồn  nhân  lực cho  công nghiệp quốc 
phòng Việt Nam 
1.2.1. Quan niệm về chuẩn bị nguồn nhân lực cho công  
nghiệp quốc phòng Việt Nam hiện nay
Trên cơ sở tham khảo một số khia nhiệm có liên quan và kế 
thừa các nội dung đã trình bày ở tiết 1.1, luận án cho rằng:  chuẩn bị 
NNL cho CNQP Việt Nam là một phạm trù phản ánh hoạt động tích  
cực, chủ động của hệ thống chính trị, mà nòng cốt là Nhà nước và  
quân đội, dưới sự  lãnh đạo của Đảng, bám sát chiến lược quốc  
phòng, chiến lược phát triển CNQP để bảo đảm sức lao động cho  
quá trình tái sản xuất  CNQP cả trong hiện tại và tương lai, đáp  
ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
1.2.2. Đặc điểm chi phối và những vấn đề  có tính quy  
luật chuẩn bị  nguồn nhân lực cho   công nghiệp quốc phòng  
Việt Nam
1.2.2.1.  Đặc điểm chi phối
Chuẩn bị NNL cho CNQP nước ta ch ịu sự chi phối bởi các vấn 
đề sau: Thứ nhất, chuẩn bị NNL cho CNQP Việt Nam đặt dưới sự lãnh  
đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, trực tiếp chỉ  đạo và tổ  
chức thực hiện của Bộ  Quốc phòng.  Thứ  hai,  chuẩn bị  NNL cho  


8
CNQP chịu sự chi phối chủ yếu của các quy luật hoạt động quân  
sự, quốc phòng, chiến tranh.  Thứ  ba,  chuẩn bị  NNL cho CNQP  
chịu sự  chi phối của điều kiện hội nhập và quá trình phát triển  

kinh tế  ­ xã hội của đất nước.  Thứ  tư,  chuẩn bị  NNL phụ  thuộc  
vào chính cơ chế quản lý, điều hành và  môi trường làm việc trong  
các   ngành   CNQP   hiện   nay.  Thứ   năm,  những   thay   đổi   của   thị  
trường sức lao động Việt Nam trong thời kỳ  hội nhập tác động  
đến chuẩn bị NNL cho CNQP.
1.2.2.2.   Những   vấn   đề   có   tính   quy   luật   trong   chuẩn   bị  
nguồn nhân lực cho công nghiệp quốc phòng nước ta
Nghiên cứu quá trình chuẩn bị  NNL cho CNQP; có thể 
thấy các vấn đề  có tính quy luật trong chuẩn bị  NNL như  sau: 
Thứ nhất, chủ trương lãnh đạo, chỉ  đạo của Đảng, Nhà nước là  
điểm khởi đầu để  chuẩn bị  NNL cho CNQP.  Thứ  hai,  giáo dục,  
đào tạo là hình thức cơ  bản trong hoạt động chuẩn bị  NNL cho  
CNQP. Thứ  ba, sử  dụng hợp lý sức lao động là khâu quyết định  
hiệu quả chuẩn bị  nguồn nhân lực cho công nghiệp quốc phòng.  
Luận án đã khẳng định: cần phải tôn trọng và tuân thủ  đầy đủ 
tính quy luật trong chuẩn bị, tránh làm tắt, làm  ẩu vi phạm quy  
luật dẫn đến hiệu quả chuẩn bị NNL cho CNQP không cao.

1.3. Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực cho công 
nghiệp quốc phòng  ở  một số  nước trên thế  giới và bài học  
đối với Việt Nam 
1.3.1. Tham khảo kinh nghiệm phát triển nguồn nhân  
lực cho công nghiệp quốc phòng ở một số nước trên thế giới 
Luận án đã khảo cứu tư liệu về kinh nghiệm phát triển NNL  
quân sự, NNL cho CNQP của  Trung Quốc, thấy rằng: Chiến lược phát  
triển CNQP và NNL cho CNQP của Trung Quốc. Trung Quốc sử dụng 
giáo dục là phương tiện cơ bản để  phát triển NNL.  Trung quốc coi 
trọng hoàn thiện các chính sách thị trường sức lao động để  phát triển  
NNL. Chính phủ khuyến khích và ủng hộ việc thành lập các tổ chức  
phát triển NNL, nhanh chóng bắt kịp với trình độ  quốc tế. Tích cực 



9
thực hiện chính sách thu hút NNL từ nước ngoài về phục vụ đất nước.  
Trung Quốc coi trọng nhân tài trên tất cả lĩnh vực, nhưng tập trung vào 
ba loại nhân tài: lãnh đạo (quản lý Đảng và chính quyền), quản lý kinh 
doanh và kỹ thuật chuyên môn. Chú trọng quan hệ với Nga để đào tạo 
NNL cho CNQP. Sử dụng các nhà trường quân đội có ngành đào tạo  
mang tính lưỡng dụng tham gia đào tạo nhân lực cho CNQP.
  Đối với nước Nga:   Nga đã nhanh chóng chuyển đổi cơ 
chế  quản lý và tái cơ  cấu CNQP.  Nước Nga đã sớm nhận ra và 
kịp thời khắc phục hiện tượng chảy máu chất xám, tập trung hợp  
tác quốc tế để nâng cao trình độ cho người lao động trong CNQP. 
Nga vẫn sử dụng một phần cơ sở của quân đội để  tham gia đào 
tạo NNL cho đất nước trong đó có NNL cho CNQP 
Đối với các nước như: Mỹ, Pháp,  Ấn Độ  và các nước  ở  
khu vực Đông Nam Á
Các nước, như:  Mỹ, Hàn Quốc và các nước  ở  khu vực 
Đông Nam Á luôn coi CNQP là lĩnh vực công nghiệp đặc thù, nằm 
trong tiềm lực quốc phòng ­ an ninh của mỗi nước. Những năm 
gần đây, trong bối cảnh tình hình thế  giới, khu vực và tình hình 
nội bộ  của từng quốc gia có nhiều thay đổi, diễn biến phức tạp, 
nhiều nước đã điều chỉnh chiến lược phát triển CNQP; trong đó, 
có điều chỉnh chiến lược phát triển NNL, hệ  thống quản lý nhà 
nước về CNQP.
1.3.2. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
Trên cở sở phân tích kinh nghiệm phát triển NNL cho CNQP 
ở  một số  nước trên thế  giới, luận án chỉ  ra và làm rõ một số  kinh  
nghiệm đối với Việt Nam, đó là:Thứ  nhất,  cần khẳng định nhất  
quán   vai   trò   quyết   định   nhất   của     NNL   đối   với   sự   phát   triển  

CNQP;  trên cơ   sở   đó,  hoàn thiện hệ   thống  cơ   chế,  chính sách  
nhằm   huy  động  nguồn   lực  của  xã  hội   cho  phát   triển  NNL   cho  
CNQP. Thứ  hai, Quân đội là một lực lượng quan trọng góp phần  
quản lý và phát triển NNL cho CNQP. Thứ ba, tăng cường liên kết,  
hợp tác quốc tế về đào tạo, chuyển giao, thu hút NNL cho CNQP
Chương 2
THỰC TRẠNG CHUẨN BỊ NGUỒN NHÂN LỰC CHO  
CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG VIỆT NAM 


10
2.1. Thành tựu cơ bản trong chuẩn bị nguồn nhân lực  
cho công nghiệp quốc phòng Việt Nam
2.1.1.   Đảng   và   Nhà   nước   ta   đã   bám   sát   vai   trò   của  
nguồn nhân lực trong CNQP để  xác định quan điểm, cơ  chế,  
chính sách, quy hoạch, kế hoạch chuẩn bị nguồn nhân lực.
Luận án đã tập trung đánh giá trên phương diện lãnh đạo của  
Đảng,
 
quản 
l
ý, điều hành vĩ mô của Nhà nước, các bộ, ban, ngành Trung ương về 
hoạt động chuẩn bị NNL cho CNQP đã  được quan tâm đúng mức.  
Công tác quy hoạch, kế hoạch chuẩn bị NNL của đất nước nói chung,  
trong đó có chuẩn bị NNL cho CNQP nói riêng đã gắn kết chặt chẽ kế 
hoạch và thị trường, tôn trọng luật chơi của thị trường lao động, tạo 
động lực để  thị  trường lao động trong nước phát triển, trong đó đã 
từng bước phát triển thị trường lao động trong CNQP.
 Chế  độ, chính sách trong sử dụng và phát triển NNL trong  
CNQP từng bước được xây dựng, bám sát hao phí lao động sống trong 

lĩnh vực sản xuất quân sự đặc thù để hoàn thiện. 
2.1.2. Các chủ  thể  đã tích cực chuẩn bị  sức lao động,  
đáp ứng cơ bản nhu cầu phát triển CNQP trong điều kiện hội  
nhập quốc tế 
Luận án đã đánh giá, thấy rằng: 
Dưới sự  lãnh đạo, chỉ  đạo trực tiếp của Đảng, mà trực 
tiếp là từ khi có Nghị quyết 27 ­ NQ/TW của Bộ Chính trị về xây  
dựng và phát triển CNQP đến năm 2010 và gần đây là Nghị quyết  
06 ­ NQ/TW của Bộ  Chính trị  về  xây dựng và phát triển CNQP 
đến năm 2020 và những năm tiếp theo, Quân uỷ  Trung  ương đã 
chỉ đạo Cục Nhà trường và các cơ quan chức năng trong Bộ Quốc 
phòng, hệ  thống các học viện, nhà trường trong Quân đội trực 
tiếp đào tạo, phát triển NNL nói chung, phục vụ cho ngành CNQP 
nói riêng. 
Riêng đối với Tổng cục CNQP, công tác chuẩn bị  số  lượng  
NNL đáp  ứng nhu cầu hoạt động của CNQP nòng cốt đã được coi  
trọng. Về phương thức đào tạo, bồi dưỡng NNL cán bộ khá đa dạng, 
với nhiều hình thức phong phú, chú trọng liên kết các học viện, nhà 


11
trường trong và ngoài quân đội để đào tạo cán bộ cho CNQP. Tổng cục 
đã tích cực đào tạo nhân lực cán bộ cho các ngành kỹ thuật, các ngành 
còn thiếu, hoặc còn yếu,  ưu tiên các ngành phục vụ  sản xuất quốc 
phòng, số lượng nhân lực cán bộ  ngành kỹ thuật hiện nay đã chiếm 
75% tổng số nhân lực cán bộ đã được đào tạo. 
Quy mô đào tạo, chuẩn bị  NNL quân sự  ngày càng được 
mở  rộng, riêng công tác đào tạo, huấn luyện, chuẩn bị NNL cho  
CNQP   được thực  hiện  khá  toàn diện trên tất  cả  các  lĩnh  vực, 
ngành nghề đặc thù, cơ  bản đáp  ứng cầu NNL trong nghiên cứu, 

sản xuất hàng hoá quân sự ở nước ta. 
Các chủ thể đã thường xuyên coi trọng chuẩn bị về chất lượng 
NNL cho CNQP, tập trung vào các vấn đề sau: Trước hết, chuẩn bị về  
chất lượng chính trị. Tổng cục CNQP nói riêng, đã tích cực giáo dục, 
rèn luyện đội ngũ cán bộ trong CNQP luôn có bản lĩnh chính trị vững  
vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; luôn giữ 
vững và phát huy bản chất của giai cấp công nhân, truyền thống yêu 
nước, cách mạng của quân đội, kế thừa và phát huy truyền thống của 
ngành quân giới, nay là ngành CNQP; có ý chí quyết tâm phục vụ, xây 
dựng quân đội, ngành CNQP và đơn vị, sẵn sàng nhận và hoàn thành  
mọi công việc được giao.
Thứ hai, về chất lượng chuyên môn nghiệp vụ.
Đội ngũ nhân lực cán bộ trong CNQP hiện nay có trình độ 
học vấn được nâng lên, có 94,3% nhân lực cán bộ được đào tạo cơ 
bản, trong đó có 88% có trình độ cao đẳng, đại học; 3,2% có trình  
độ sau đại học. Về  đội ngũ cán bộ  tham gia nghiên cứu, thiết kế 
công nghệ  sản xuất vũ khí trang bị  và hỗ  trợ  sản xuất CNQP có 
trình độ đại học chiếm khoảng 72%, thạc sĩ 11,3%, tiến sĩ 2,6%.  
Riêng NNL trong các doanh nghiệp CNQP do Tổng cục CNQP  
quản lý  thì   nhân lực  là   cán  bộ   chiếm   khoảng  9%  tổng số  lao 
động, trong đó 90% cán bộ có trình độ đại học và cao đẳng, 3,2% 
có   trình  độ   sau  đại   học;   công   nhân   kỹ   thuật   chiếm   trên  65%.  
Trong  đó,   công nhân kỹ   thuật   có  tay nghề  thợ   bậc   cao  chiếm  
59,6%, có tay nghề thợ bậc trung bình là 4,75%. 
2.1.3. Chính phủ, Bộ  Quốc phòng đã chủ  động, tích cực  
xây dựng cơ cấu, bố trí cơ bản hợp l ý để phát huy hiệu quả sử  
dụng NNL trong CNQP


12

Khảo cứu các tư liệu, tài liệu báo cáo của các cơ quan chức  
 
trực
 
tiếp
 
quản 

năng
l
ý NNL cho CNQP, luận án thấy rằng: nhiều năm gần đây, cơ  cấu 
NNL trong CNQP đã có sự chuyển biến tích cực trên tất cả các mặt.  
Cơ cấu trình độ NNL cán bộ của Tổng cục CNQP khá cao, được thể 
hiện tại  Bảng 2.1 sau:
Bảng 2.1. Cơ cấu trình độ cán bộ KHKTQS
Trình độ
Sau đại học
Đại học
Còn lại
Tỉ lệ
11,7%
83,6%
4,7%
Nguồn: Tổng cục CNQP, 2012
Về  cơ  cấu tuổi nghề  của NNL trong CNQP tương  đối 
hợp lý, b ảo đ ảm đ ược tính liên t ục, k ế  th ừa c ủa các th ế  h ệ  lao  
động. Điều này được khảo sát qua kết quả ở Bảng 2.2 dưới đây:
Bảng 2.2. Có cấu NNLKHKTQS theo năm công tác
Từ 10 ­ 20 
Năm công tác

Dưới 10 năm
Trên 20 năm
năm
Tỉ lệ
27%
37%
36%
Nguồn: Cục Chính trị ­ Tổng cục CNQP, 2011
Về cơ cấu tuổi đời của NNL trong CNQP tương đối hợp l ý, 
trong đó độ tuổi 30 ­ 45 (là độ tuổi mà người lao động có sức khoẻ và 
kinh nghiệm nghề  nghiệp) chiếm  ưu thế . Điều này được khảo sát  
qua kết quả ở Bảng 2.3 dưới đây:
Bảng 2.3. Cơ cấu NNLKHKTQS theo tuổi đời
Từ 30 ­ 45 
Tuổi đời
Dưới 30 tuổi
Trên 45 tuổi
tuổi
Cán bộ
24%
40%
36%
Nhân viên
33%
51%
16%
Nguồn: Cục Chính trị ­ Tổng cục CNQP, 2011
Về  cơ  cấu đào tạo, NNL trong CNQP hiện nay chủ yếu  
được đào tạo trong nước và ở các trường quân đội; có 92% được 
đào tạo trong nước; 8% được đào tạo  ở  nước ngoài. Riêng đội  

ngũ công nhân kỹ thuật của Tổng cục CNQP hiện có tới hơn 80%  
được đào tạo tại Trường Cao đẳng CNQP.
Việc bố  trí, sử  dụng:  hiện nay, chỉ  tính trong Tổng cục 


13
CNQP thì NNL cán bộ chiếm 9,4% quân số, số có điều kiện phục  
vụ từ 5 năm trở lên đạt 70%. Với diện bố trí sử dụng cán bộ trong  
Tổng cục CNQP như  hiện nay, sĩ quan chiếm 37,5%; quân nhân  
chuyên nghiệp chiếm 54%, công chức quốc phòng chiếm 8,5% 
như vậy là phù hợp với đặc điểm, tính chất, nhiệm vụ của Tổng  
cục. 
2.1.4. Tuân thủ đầy đủ tính quy luật chuẩn bị sức lao động  
cho CNQP, khắc phục cơ  bản các mâu thuẫn nảy sinh trong tổ  
chức thực hiện
Từ phân tích, đánh giá thực thực trạng, luận án thấy rằng:  
những vấn đề  có tính quy luật trong chuẩn bị  NNL cho CNQP  
được nhận thức và thực hiện đầy đủ, thống nhất. Chủ  trương  
của Đảng, Nhà nước là điểm khởi đầu, định hướng cơ  bản cho 
các hoạt động tiếp theo của quy trình chuẩn bị. 
Các kế  hoạch, quy hoạch chuẩn bị  NNL trong quân đội 
nói chung, trong CNQP nòng cốt nói riêng là sự  cụ  thể  hoá quy 
hoạch, kế  hoạch phát triển NNL của Chính phủ. Việc bố  trí, sử 
dụng NNL trong CNQP đã phát huy hiệu quả  sử  dụng sức lao 
động của NNL trong thực tế. 
Trong những năm qua, Tổng cục CNQP và mỗi đơn vị 
trong Tổng cục đã thực hiện khá tốt công việc tổng kết, thống 
kê, báo cáo NNL. Thông qua đó, cung cấp các cơ  sở  khoa học 
để  đánh giá khách quan hiệu quả  c ủa quy trình chuẩn bị  NNL,  
làm tiền đề  cho cho quy trình chuẩn bị  sau đạt hiệu quả  cao  

hơn.
2.1.5. Nguyên nhân của ưu điểm
Luận án cho rằng những  ưu điểm về  chuẩn bị  NNL cho  
CNQP  đã  nêu  trên bắt   nguồn  từ  những   nguyên  nhân chủ  quan,  
khách quan khác nhau:
Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, do tác động tích cực của nền kinh tế thị trường 
và xu thế toàn cầu hoá đã tất yếu đòi hỏi mỗi quốc gia, vùng lãnh 
thổ phải quan tâm đầu tư phát triển NNL. 
Thứ  hai,  thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước đã tạo  
điều kiện thuận lợi để chuẩn bị NNL cho CNQP.
Nguyên nhân chủ quan


14
Thứ nhất, các chủ thể đã có nhận thức đúng vị trí, vai trò và 
tính quy luật của quá trình chuẩn bị NNL cho CNQP, nên đã triển khai 
thống nhất, hiệu quả quy trình thực hiện.
Thứ hai, bản thân mỗi nhân lực trong CNQP luôn xác định đúng  
vị trí, vai trò, trách nhiệm, quyết tâm cao trong học tập, rèn luyện nâng  
cao năng lực, sức khoẻ đáp ứng kịp thời nhiệm vụ được giao.
2.2. Những hạn chế  trong chuẩn bị  nguồn nhân lực 
cho công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam hiện nay 
2.2.1. Cơ  chế  quản lý, chính sách, quy định còn chồng  
chéo, còn nhiều mâu thuẫn, bất cập khó thực hiện; chưa có quy  
hoạch, kế hoạch cụ thể của của chủ thể về chuẩn bị NNL cho  
CNQP
Phân tích thực trạng vấn đề này, luận án cho rằng: CNQP 
nước ta có nhiều chủ thể tham gia quản lý, cơ chế rườm rà không  
phù hợp với phát triển thị trường lao động trong nền kinh tế mở. 

Cơ  sở  CNQP nước ta được cơ  cấu  ở  nhiều bộ, ngành, 
nhưng chưa có một cơ  quan chuyên trách nào của Chính phủ  tập  
trung quản lý thống nhất, mà vẫn còn lồng ghép trong các cơ quan  
quản lý khác nhau. 
Việc đổi mới hoàn thiện cơ  chế  quản lý vĩ mô về  NNL  
trong CNQP tuy có nhiều tiến bộ, song vẫn còn rất nhiều hạn chế;  
các văn bản quy phạm pháp luật về phát triển CNQP, trong đó có 
nội   dung  về   chuẩn  bị   NNL,   nhìn  chung   vẫn   còn   nặng   về   chủ 
trương, chưa có một văn bản tổng thể, toàn diện chuyên đề  về 
chuẩn bị NNL cho CNQP. 
2.2.2. Chuẩn bị số lượng, chất lượng sức lao động cho  
công nghiệp quốc phòng còn biểu hiện nhiều bất cập, chưa  
đáp  ứng đòi hỏi mở rộng và nâng cao chất lượng nghiên cứu,  
sản xuất kinh doanh
Luận án thấy rằng: Trong thời gian qua, chuẩn bị về số lượng 
NNL cho CNQP còn bộc lộ rất nhiều hạn chế, như: công tác đào tạo 
NNL có trình độ cao cho CNQP có lúc chưa thật bám sát quy hoạch  
xây dựng đội ngũ nhân lực lâu dài; chưa đào tạo đủ NNL các ngành 
nghề cần thiết phục vụ cho CNQP; ngành đào tạo, nguồn đào tạo còn 
mang nhiều yếu tố tự phát. Số lượng cán bộ ở từng đơn vị, từng khối  


15
công tác trong CNQP nòng cốt không đều. Chưa khắc phục được tình 
trạng mất cân đối vừa thừa, vừa thiếu, mất cân đối đội ngũ cán bộ, số 
cán bộ dư ra không thay thế được số thiếu, chưa chuẩn bị được nguồn 
kế cận kịp thời. 
Nhìn chung, hoạt động chuẩn bị  về  số  lượng NNL cho  
CNQP còn chưa đồng đều, cân đối cho từng đối tượng; còn bộc  
lộ hiện tượng thừa số lượng loại lao động này nhưng lại thiếu số 

lượng lao động khác, khả  năng thay thế nhau là rất khó, đặc biệt 
là thiếu lực lượng lao động chất lượng cao.
Công tác giáo dục, rèn luyện đối với NNL nói chung, trong 
đó có nhân lực là đội ngũ cán bộ hiệu quả có lúc chưa cao. Một số 
nhân   lực   cán   bộ   nhận   thức   nhiệm   vụ   chưa   sâu   sắc;   thiếu   tu 
dưỡng, rèn luyện, vi phạm nguyên tắc, vi phạm kỷ luật; hoặc lao  
động cầm chừng, ngại học tập nâng cao trình độ  lao động; chất 
lượng hiệu quả lao động thấp. Đội ngũ công nhân kỹ thuật có chất 
lượng tay nghề không đồng đều, chỉ có khoảng 55 ­ 60% có tay nghề 
khá, số thợ giỏi, thợ nhiều kinh nghiệm còn ít. 
Trong đào tạo huấn luyện công nhân kỹ  thuật chưa chú  
ý nhi ều đ ến các ngành ngh ề  đ ặc thù qu ốc phòng nh ư: hoá n ổ, 
mạ, nhiệt luyện, đo lườ ng, gia công áp lực; chất lượ ng đào tạo 
chưa cao, còn tụt hậu so với công nghệ hiện đại. Kỹ  năng thực  
hành   của   học   viên   sau   khi   ra   tr ường   còn   chưa   cao;   chương  
trình, nội dung, công nghệ, trang thi ết b ị, ph ương ti ện d ạy h ọc  
chưa theo kịp phát triển của khoa h ọc, công nghệ  nói chung và 
ngành CNQP nói riêng. 
Luận án phân tích và chỉ ra rằng: so với nhu cầu phát triển 
của CNQP hiện nay, thì NNL đang có nhiều hạn chế, bất cập thiếu  
cân đối, đồng bộ về ngành nghề, nhất là trong lĩnh vực công nghệ 
mũi nhọn. Các viện nghiên cứu đang còn thiếu nhân lực cán bộ đầu 
ngành chuyên môn sâu lẫn cán bộ có kiến thức khoa học, thực tiễn  
rộng, đa ngành để có thể chủ trì các đề tài nghiên cứu lớn hoặc các  
dự án chuyển giao công nghệ phức tạp, có nhiều đơn vị tham gia. 
2.2.3. Cơ cấu, bố  trí sử  dụng sức lao động trong quản  
lý, nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh trong công nghiệp quốc  
phòng còn biểu hiện thiếu cân đối, chưa phát huy đầy đủ năng  



16
lực của từng loại nhân lực
Chưa khắc phục được tình trạng mất cân đối vừa thừa,  
vừa thiếu cán bộ  (thừa các ngành kinh tế, quản trị, kinh doanh; 
thiếu cán bộ  kỹ  thuật).. Công tác bố  trí sử  dụng NNL có trình độ 
cao đôi khi còn biểu hiện lãng phí chất xám, (tỷ lệ nhân lực tiến sĩ  
khoa học công nghệ  chủ yếu giữ cương vị  quản lý, chỉ  huy trong  
các nhà máy CNQP, trong khi đó trong có dây chuyền sản xuất, ứng 
dụng công nghệ còn thiếu NNL này). 
Đội ngũ nhân lực là sĩ quan trong CNQP hiện nay có tỷ lệ 
cơ  cấu quân hàm còn chưa hợp lý: cấp tá có tỷ  lệ  khá cao chiếm  
83,7%; cấp uý 16,3%. Đội ngũ nhân lực trung học và công nhân kỹ 
thuật có cơ cấu ngành nghề chưa cân đối, thiếu kỹ thuật viên một 
số ngành như: đo lường, mạ, nhiệt luyện, gia công áp lực, trong khi  
đó thừa khá nhiều ngành điện, kế toán. 
2.2.4.   Chưa   thực   hiện   triệt   để   tính   quy   luật   trong  
chuẩn bị nguồn nhân lực  cho công nghiệp quốc phòng
Luận án thấy rằng: Thực hiện các bước chuẩn bị  NNL 
cho CNQP nước ta hiện nay còn bộc lộ  khá nhiều hạn chế. Sự 
gắn kết giữa chủ trương với quy hoạch, kế hoạch, chính sách, tổ 
chức thực hiện chuẩn bị NNL còn chưa chặt chẽ, từ chủ trương  
đến tổ chức thực hiện còn có khoảng cách khá xa. Chính phủ, Bộ 
Quốc phòng vẫn chưa có một kế  hoạch tổng thể   để  chuẩn bị 
NNL cho CNQP. 
Các khâu, các bước trong chuẩn bị  NNL cho CNQP còn  
chưa rõ ràng, còn biểu hiện chồng chéo, dẫn đến giữa quy hoạch,  
kế  hoạch với đào tạo, sử  dụng NNL là chưa thống nhất. Chưa  
bảo đảm tính đồng bộ  trong thực hiện quy trình chuẩn bị  NNL 
cho CNQP,  biểu hiện như: có chủ  trương nhưng công tác quy 
hoạch, kế hoạch chuẩn bị chưa kịp thời; có kế hoạch, quy hoạch  

nhưng không đào tạo, hoặc đào tạo không theo kịp; quy hoạch, kế 
hoạch đào tạo chưa theo sát nhu cầu sử dụng NNL trong CNQP...
Hoạt   động  tổng  kết,   tổng  điều  tra   cung,   cầu  lao  động 
trong CNQP chưa được tiến hành thường xuyên, chưa có nhiều cơ 
sở  khoa học để  phục vụ  công tác quy hoạch, kế  hoạch đạt hiệu  
quả.  2.25. Nguyên nhân hạn chế


17
Luận án đã xác định, đồng thời phân tích, làm rõ nguyên 
nhân khách quan, chủ  quan của những hạn chế  trong chuẩn b ị 
NNL cho CNQP nước ta thời gian qua, đó là:
Nguyên nhân khách quan:
Thứ  nhất,  do tác động tiêu cực của mặt trái kinh tế  thị 
trường và hội nhập quốc tế.
Nguyên nhân chủ quan:
Thứ  nhất,  từ  chủ  trương của Đảng đến tổ  chức thực hiện  
của các bộ, ban, ngành liên quan đến chuẩn bị  NNL cho CNQP còn 
chậm.
Thứ  hai,  nước ta chưa có cơ  chế  quản lý CNQP phù hợp, 
chưa tạo điều kiện đầy đủ để mở rộng thị trường sức lao động trong  
CNQP.
Thứ   ba,  chủ   thể   sử   dụng   và   bản  thân  người   lao  động 
trong CNQP còn biểu hiện thụ  động, trông chờ   ỷ  lại, chưa tích  
cực chủ động, sáng tạo trong chuẩn bị NNL.
2.3. Những vấn đề đặt ra 
2.3.1. Tiếp tục hoàn thiện các công cụ vĩ mô để tổ chức  
chuẩn bị sức lao động cho công nghiệp quốc phòng 
Đây là một vấn đề  đặt ra vừa cấp thiết vừa lâu dài, thể 
hiện vai trò lãnh đạo của Đảng, điều hành vĩ mô của Nhà nước 

trong chuẩn bị  nguồn lực quan trọng nhất cho chi ến l ược phát 
triển CNQP nước ta. Các công cụ  vĩ mô để  thực hiện chuẩn bị 
NNL cho CNQP được tập trung vào hoàn thiện, như: cơ chế quản  
lý, chính sách bảo đảm, kế hoạch tổ chức thực hiện…
2.3.2.  Bám   sát   điều kiện thực  tiễn kinh tế  ­  xã  hội,  
nhiệm vụ  quân sự, quốc phòng của đất nước để  chuẩn bị  
sức lao động cho công nghiệp quốc phòng.
Phân tích cơ sở khoa học của quan điểm trên, luận án cho 
rằng: Chuẩn bị  NNL trong CNQP phải gắn chặt với nhiệm vụ 
xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam ‘cách mạng, chính quy, 
tinh nhuệ, từng bước hiện đại”. Trong đó, cần chú  ý chu ẩn b ị 
NNL cho CNQP để  trực tiếp phục vụ    nhiệm vụ  hiện đại hoá 
trang bị vũ khí, kỹ thuật quân sự cho Phòng không ­ Không quân,  
Hải quân, Cảnh sát biển, Thông tin, liên lạc... hiện nay.  Đồng  
thời, chuẩn bị  NNL cho CNQP còn  phải đặt trong xu thế  chung 


18
của   thời   đại   là   giải   trừ   quân   bị   và   chống   chạy   đua   vũ   trang; 
hướng vào những ngành nghề  nghiên cứu, sản xuất quân sự  mà  
nước ta  đã cam kết với các tổ  chức quốc tế, Liên hiệp quốc;  
không vi phạm công  ước quốc tế.   Nắm vững những điều kiện 
thuận lợi, cũng như  khó khăn của thực tiễn đất nước và bám sát 
nhiệm vụ quân sự, quốc phòng của đất nước là căn cứ sát thực để 
chúng ta xây dựng, hoạch định những giải pháp phù hợp chuẩn bị 
NNL cho CNQP. 
2.3.3. Coi  trọng  tính  hiệu  quả   trong  chuẩn bị  sức  
lao động cho công nghiệp quốc phòng
Vấn đề  đặt ra  ở  đây trước hết là gắn kết chặt chẽ  giữa 
tuyển dụng với sử dụng, giữa giáo dục đào tạo với sử dụng NNL  

trong  CNQP,   giữa   nhà   trường   với   doanh   nghiệp,   giữa   đào  tạo 
NNL cho CNQP với đào tạo NNL phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH 
đất nước. 
Khắc phục những bất cập trong việc bố  trí, sử  dụng tất 
cả  các loại nhân lực lao động trong CNQP hiện nay. Đẩy mạnh 
chuyển dịch cơ  cấu lao động có trình độ, chất lượng cao về  các 
dây chuyền sản xuất  trong các nhà  máy CNQP.   Tăng tính chủ 
động cho các đơn vị, doanh nghiệp quốc phòng trong chuẩn bị 
NNL. Tôn trọng thị trường lao động, tạo điều kiện thuận lợi nhất  
để  quy luật thị trường lao động phát huy tác dụng trong chuẩn bị 
NNL cho CNQP.

Chương 3
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU 
CHUẨN BỊ NGUỒN NHÂN LỰC 
CHO CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG 
VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI
3.1. Một số  quan điểm cơ  bản chuẩn bị  nguồn nhân 
lực cho công nghiệp quốc phòng Việt Nam thời gian tới
3.1.1. Chuẩn bị nguồn nhân lực cho công nghiệp quốc  
phòng   phải   bám   sát   đường   lối   quốc   phòng   toàn   dân,   chiến  


19
tranh nhân dân, chiến lược xây dựng và phát triển công nghiệp  
quốc phòng của đất nước
Đây là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong xác định phương  
hướng, mục tiêu, nội dung, giải pháp chuẩn bị  NNL cho CNQP. 
Thực hiện quan điểm trên cần làm tốt các yêu cầu cơ bản sau:
Một là, các kế hoạch, quy hoạch chuẩn bị sức lao động cho 

CNQP phải dựa trên đường lối quân sự, quốc phòng Việt Nam, phục 
vụ chiến lược bảo vệ Tổ quốc XHCN. 
Hai là, chuẩn bị sức lao động cho CNQP phải được quán 
triệt và triển khai rộng khắp trong các thành phần kinh tế  và các 
tổ  chức chính trị, xã hội; thu hút nhiều lực lượng tham gia, đặc 
biệt là các trí thức, tài năng trẻ của đất nước. 
Ba là, chúng ta chủ trương xây dựng nền quốc phòng toàn 
dân, sẵn sàng giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh nhân dân 
hiện đại bảo vệ Tổ quốc (nếu nó xảy ra) với nhiều quy mô, hình 
thức, trình độ  khác nhau.  Bốn là,  chiến tranh nhân dân hiện đại 
bảo vệ Tổ quốc nếu xảy ra, chiến trường sẽ bị chia cắt là không 
tránh khỏi. 
3.1.2. Chuẩn bị nguồn nhân lực cho công nghiệp quốc  
phòng phải bảo đảm tính toàn diện, đồng bộ, thống nhất, đi  
trước một bước 
Đây là quan điểm có tính chỉ đạo toàn bộ quá trình hoạt động  
chuẩn bị NNL cho CNQP Việt Nam. 
Thực hiện quan điểm trên, cần làm tốt các yêu cầu chính như 
sau:
Một là,  theo từng thời kỳ  phát triển kinh tế  ­ xã hội, quốc 
phòng, an ninh của đất nước, Bộ  Chính trị  kịp thời có nghị  quyết  
chuyên đề  về  phát triển CNQP trong đó có nội dung chuẩn bị NNL  
cho CNQP; xác định rõ chủ trương, cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với  
phát triển CNQP và bảo đảm NNL cho CNQP. 
Hai là, trên cơ sở chủ trương, cơ chế lãnh đạo của Đảng, 
Chính phủ  trực tiếp có nghị  định quản lý, điều hành bảo đảm 
NNL   cho   phát   triển   CNQP.  Ba   là,  nâng   cao   năng   lực   tổ   chức 
chuẩn bị  NNL cho CNQP của các bộ, ban, ngành có liên quan từ 
Trung  ương đến cơ  sở; đặc biệt là vai trò của Bộ  Quốc phòng, 
Bộ  Giáo dục và Đào tạo, Bộ  Lao động, Thương binh và Xã hội, 



20
Bộ Công Thương, Tổng cục CNQP.... 
Bốn là, chuẩn bị NNL cho CNQP cần được thực hiện một 
cách đầy đủ  trên tất cả  các tiêu chí: phẩm chất chính trị, năng lực  
chuyên môn, sức khoẻ,  trình độ học vấn. 
3.1.3. Tự  lực, tự  cường kết hợp với mở rộng hợp tác  
quốc  tế  trong  chuẩn bị   nguồn    nhân   lực  cho công nghiệp  
quốc phòng
Quan điểm này xuất phát từ nhận thức đầy đủ  mối quan 
hệ  giữa nội lực và ngoại lực trong bảo đảm NNL của đất nước 
nói chung và trong CNQP nói riêng. 
Quán triệt và thực hiện quan điểm tự lực, tự cường kết hợp 
với hợp tác quốc tế trong chuẩn bị NNL cho CNQP cần làm tốt một 
số yêu cầu sau:
Một là, công tác quy hoạch, kế  hoạch chuẩn bị NNL cho 
CNQP  ở  cấp vĩ mô và doanh nghiệp cần phải phân định rõ khả 
năng tự lực, khả năng hợp tác, thuê khoán chuyên gia nước ngoài; 
quy hoạch, kế  hoạch ngành nghề, lĩnh vực nghiên cứu có khả 
năng tự  lực NNL,  hoặc phải  hợp  tác,  thuê  mướn NNL  từ   bên 
ngoài.
Hai là, thực hiện điểm 2, điều 5, Pháp lệnh CNQP về nội 
dung hợp tác quốc tế  về  CNPQ, trong đó có hợp tác quốc tế  về 
đào tạo NNL cho CNQP, Chính phủ cần tạo điều kiện để  các cơ 
sở  đào tạo NNL của quân đội, Tổng cục CNQP chủ  động mở 
rộng các hình thức liên kết đào tạo NNL với các cơ sở đào tạo ở 
các nước có trình độ  KH,CN cao, nền CNQP phát triển.  Ba là, 
Đảng, Nhà  nước và  Bộ  Quốc Phòng cần quan tâm và sớm  có  
chính sách thu hút NNL, nhất là nhân lực chất lượng cao vào làm 

việc trực tiếp hoặc gián tiếp trong lĩnh vực CNQP.
Bốn là, đẩy mạnh đa  dạng  hoá  phương  thức  chuẩn bị 
NNL cho CNQP, các cơ sở  đào tạo của quân đội chỉ  nên tập trung  
đào tạo các chuyên ngành đặc thù quân sự; đồng thời, đẩy mạnh liên 
kết với các trường dân sự, với nước ngoài để  đào tạo các chuyên 
ngành khác cho CNQP. 
3.1.4. Chuẩn bị nguồn nhân lực cho công nghiệp quốc  
phòng phải đặt trong điều kiện phát triển kinh tế  thị  trường  
định hướng xã hội chủ  nghĩa và yêu cầu đặc thù của công  


21
nghiệp quốc phòng 
Quan điểm này xuất phát từ yêu cầu giải quyết mối quan hệ 
giữa phát triển kinh tế  với phát triển con người, kinh tế  với quốc 
phòng, trong quá trình phát triển nền kinh tế  thị trường định hướng 
XHCN. 
Thực hiện quan điểm trên, cần làm tốt các yêu cầu sau:
Thứ  nhất,  bên cạnh việc huy động NNL của CNQP vào 
nghiên cứu, sản xuất phục vụ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh đặc 
thù, thì NNL trong CNQP phải được chuyển đổi cơ  chế, chuyển  
dịch cơ cấu để thích ứng với những đòi hỏi của thị trường sức lao  
động của quốc gia; phải chấp nhận cạnh tranh để  thu hút nhân 
lực chất lượng cao; phải đổi mới phương thức đào tạo, chế  độ 
đãi ngộ, mở rộng hợp tác lao động, kể cả hợp tác quốc tế, thu hút  
chuyên gia nước ngoài cho nghiên cứu sản xuất CNQP.
Thứ   hai,  phải   linh  hoạt   hơn   trong   các   giải   pháp   tuyển 
dụng, luân chuyển, huấn luyện, xã hội hoá các dịch vụ phát triển  
NNL cho CNQP; để  không chỉ  hội nhập tích cực vào thị  trường  
sức lao động mà còn phải tham gia sâu vào thị trường khoa học và 

công nghệ  và mọi mặt của đời sống kinh tế  ­ xã hội của  đất 
nước.  Thứ  ba,  do  tính đặc thù của CNQP,  nên quá trình thích 
ứng   với   cơ   chế   thị   trường   phải   song  hành  với   việc   gìn  giữ, 
phát triển tiềm l ực CNQP, trong đó có NNL, nhất là nhân lực  
chất lượ ng cao. 
Thứ tư, Chính phủ, các cấp, các ngành phải tổ chức thực hiện 
có hiệu quả Pháp lệnh CNQP và Pháp lệnh động viên công nghiệp. 
3.1.5. Chuẩn bị nguồn nhân lực cho công nghiệp quốc  
phòng phải đặt trong và phục vụ  quy hoạch chiến lược phát  
triển nguồn nhân lực của quốc gia
Thực hiện quan điểm trên, cần làm tốt các yêu cầu sau:
Thứ  nhất,  đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận 
thức của toàn xã hội về vai trò của NNL; huy động được năng lực 
của toàn xã hội tham gia chuẩn bị NNL cho CNQP; xây dựng đồng 
bộ  cơ  chế  phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương, giữa các cơ 
quan chuyên trách quản lý nhà nước về NNL để thực hiện hiệu quả 
chiến lược chuẩn bị NNL quốc gia và của CNQP.
Thứ hai, đổi mới cơ cấu hệ thống đào tạo NNL của đất nước 


22
và quân đội theo hướng phù hợp với nhu cầu đào tạo NNL cho nền 
kinh tế và tăng cường củng cố an ninh, quốc phòng; đẩy mạnh xã hội 
hoá, chuẩn hoá, hiện đại hoá đào tạo NNL cho nền kinh tế và CNQP.
Thứ  ba,  hoàn thiện cơ  chế  phối hợp giữa các cơ  sở  đào 
tạo của quân đội và nền kinh tế  để  chuẩn bị  NNL cho CNQP;  
hình thành đội ngũ nhân lực có chuyên môn lưỡng dụng, vừa có 
khả năng nghiên cứu, quản lý sản xuất, kinh doanh hiệu quả trong 
nền kinh tế thị trường, vừa có khả  năng chỉ  huy, quản lý, nghiên 
cứu, sản xuất hàng hoá quân sự  phục vụ  nhu cầu tăng cường  

quốc phòng, an ninh của đất nước.
Thứ  tư, hoàn thiện hệ  thống thông tin thị  trường sức lao  
động của nền kinh tế  và CNQP; tăng cường các hoạt động dịch  
vụ  tư vấn việc làm trong nền kinh tế và CNQP để  sử  dụng hiệu 
quả  NNL của đất nước trong phát triển kinh tế  ­ xã hội, an ninh 
quốc phòng trong thời kỳ mới.
3.2. Giải pháp chủ  yếu chuẩn bị  nguồn nhân lực cho 
công nghiệp quốc phòng Việt Nam thời gian tới
3.2.1. Xây dựng chiến lược, quy hoạch chuẩn bị nguồn  
nhân lực cho công nghiệp quốc phòng đến năm 2020 tầm nhìn  
đến năm 2030
Thực hiện giải pháp này, cần tiến hành các giải pháp cụ  thể  
sau:
  Một là,  Chính phủ  cần thực hiện xây dựng quy hoạch, kế 
hoạch chuẩn bị sức lao động cho CNQP đến năm 2020 và tầm nhìn 
đến năm 2030, thống nhất với quy hoạch phát triển NNL Việt Nam  
đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. 
Hai là, quản lý và nắm chắc chất lượng NNL làm cơ sở để 
tiến hành phân hướng sử dụng đúng, dự  kiến được khả  năng phát 
triển của NNL.
Ba là,  nắm chắc tiêu chuẩn, điều kiện của các loại nhân 
lực gắn với vị trí công tác, chức danh cụ thể, dự báo được sự vận  
động, phát triển của nhiệm vụ, từ đó tính toán, dự  báo được yêu  
cầu của sức lao động trong những năm trước mắt cũng như  trong  
dài hạn.


23
Bốn là,  xây dựng quy hoạch chuẩn bị  sức lao  động   cho  
CNQP phải gắn chặt với đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp, bố  trí, sử 

dụng, đãi ngộ người lao động.
Năm là,  phát huy vai trò của cơ  quan cán bộ, cơ  quan tổ 
chức nhân sự cấp trên trong hướng dẫn, phối hợp với các cấp ủy, 
tổ chức đảng cơ sở, các cơ sở nghiên cứu và sản xuất để xây dựng  
quy hoạch chuẩn bị sức lao động và thực hiện quy hoạch.
Sáu là,  thực hiện tốt việc luân chuyển nhân sự trong từng nhà 
máy, xí nghiệp.
3.2.2.   Xây   dựng   đồng   bộ   cơ   chế,   chính   sách   nhằm  
chuẩn bị sức lao động cho công nghiệp quốc phòng  
Đây là giải pháp chi phối  đến thực hiện các giải pháp 
khác trong chuẩn bị NNL cho CNQP Việt Nam hiện nay. 
Để  xây dựng đồng bộ  cơ chế, chính sách chuẩn bị sức lao  
động cho CNQP, cần thực hiện tốt một số biện pháp cụ thể sau:
Trước hết, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự  quản lý 
của Nhà nước trong xây dựng cơ chế, chính sách  bảo đảm sức lao 
động cho CNQP
Hai là, cần làm tốt chính sách sử dụng, đánh giá, bố trí, sắp 
xếp, đào tạo, bồi dưỡng NNL.  
Ba là,  thực hiện tốt chính sách bảo đảm lợi ích và động 
viên tinh thần cho người lao động. 
3.2.3.   Tập   trung   nâng   cao   chất   lượng   đào   tạo,   bồi  
dưỡng   chuẩn   bị   nguồn   nhân   lực  cho   công   nghiệp   quốc  
phòng 
Giải pháp này có  ý nghĩa quyết định đến chất lượng của 
NNL cho CNQP; thể hiện được nội dung cơ bản nhất trong quá trình 
chuẩn bị sức lao động cho CNQP; gắn kết chặt chẽ giữa nội dung và  
điều kiện bảo đảm để  chuẩn bị  chất lượng NNL cho CNQP hiện 
nay; đồng thời, khắc phục hiện tượng  đào tạo NNL nặng về  l ý 
thuyết, thiếu thực tiễn, chất lượng   thấp. Cần thực hiện các biện 
pháp cụ thể sau:

Một là, hoàn thiện mục tiêu đào tạo NNL cho CNQP
Hai là,  đổi mới nội dung, chương trình đào tạo chuẩn bị 
NNL cho CNQP theo hướng tăng giá trị thực tiễn
Ba là,  đổi mới phương pháp giáo dục, đào tạo NNL theo  


24
hướng khơi dậy và phát huy năng lực sáng tạo của con người.
Bốn là,  làm tốt việc đào tạo lại gắn với thực hiện chính  
sách ở các cơ sở sản xuất quốc phòng
Năm là,  tăng cườ ng gắn kết các cơ  sở  đào tạo, nghiên 
cứu với sản xuất CNQP
Sáu là,  tăng cường đầu tư  cho giáo dục đào tạo chuẩn bị 
NNL cho CNQP 
Bảy là,  sử  dụng linh hoạt các hình thức bồi dưỡng nâng 
cao trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức của NNL cho CNQP.
3.2.4. Bố  trí, sử  dụng hợp lý và tăng cường chăm sóc  
sức khoẻ, thể lực cho người lao động trong công nghiệp quốc  
phòng
Đây là giải pháp quan trọng để  bảo đảm duy trì và tái sản  
xuất sức lao động của người lao động trong hiện tại, đồng thời là sự 
chuẩn bị cho một giai đoạn mới của chu kỳ sản xuất tiếp theo, nhất là  
yêu cầu tái sản xuất mở rộng CNQP trong tương lai. Theo đó, cần  
thực hiện đồng bộ các biện pháp sau:  
Một là, bố trí, sử dụng hợp lý NNL cho CNQP.
Hai là, tăng cường chăm lo sức khoẻ, thể lực cho người lao động 
trong CNQP
3.2.5. Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong  
nước, kết hợp với đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong chuẩn bị sức  
lao động cho công nghiệp quốc phòng 

Đây là một trong những giải pháp quan trọng không chỉ  có 
ý nghĩa trong việc tận dụng nguồn nội lực và ngoại lực, mà còn 
góp phần khắc phục tình trạng phát triển khép kín trong chuẩn bị 
sức lao động cho CNQP nước ta, phù hợp với xu hướng phát triển 
của khu vực và thế giới.
Một là, đổi mới và nâng cao hiệu quả hợp tác với các nước  
bạn bè truyền thống để chuẩn bị NNL cho CNQP.
Hai là,  mở  rộng quan hệ  hợp tác với các nước khác để 
chuẩn bị  sức lao động cho CNQP theo thứ  tự   ưu tiên đã được xác 
định.
Ba là,  từng bước hội nhập vào thị  trường sức lao  động  
CNQP của thế giới và khu vực.


25

KẾT LUẬN 
1. Nguồn nhân lực là yếu tố trung tâm của quá trình phát triển 
CNQP nước ta hiện nay. NNL cho CNQP Việt Nam là một phạm trù 
kinh tế để chỉ một bộ phận sức lao động của quốc gia, do Nhà nước  
thống nhất huy động và quản lý vào quá trình sản xuất quốc phòng, 
phục vụ nhu cầu tiêu dùng cơ bản của lực lượng vũ trang. Nó bao gồm: 
Tổng thể sức lao động của đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, khoa học, 
các nhà khoa học nghiên cứu, thực nghiệm khoa học kỹ thuật quân sự;  
cán bộ, nhân viên, công nhân kỹ thuật quân sự trực tiếp sản xuất CNQP;  
đội ngũ giảng viên, học viên, sinh viên ở các học viện, nhà trường trong  
và ngoài quân đội có thể  huy động phục vụ  trong các ngành CNQP.  
NNL trong CNQP có tính đặc thù riêng về  chuyên môn, phẩm chất,  
năng lực, điều kiện lao động công tác, bị chi phối bởi cả các quy luật  
kinh tế, lẫn quy luật hoạt động quân sự.

2. Chuẩn bị NNL cho CNQP là một phạm trù phản ánh  hoạt 
động tích cực, chủ động của hệ thống chính trị, mà nòng cốt là Nhà nước 
và quân đội, dưới sự  lãnh đạo của Đảng, bám sát chiến lược quốc 
phòng, chiến lược phát triển CNQP để bảo đảm sức lao động cho quá 


×