Tải bản đầy đủ (.pdf) (180 trang)

Luận án tiến sĩ Y học: Đánh giá hiệu quả sử dụng thuốc nhỏ mắt atropin 0,01% đối với sự tiến triển cận thị của học sinh tiểu học và trung học cơ sở tại thành phố Cần Thơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 180 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO                      BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

HOÀNG QUANG BÌNH

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG THUỐC NHỎ MẮT ATROPIN 0,01% 
ĐỐI VỚI SỰ TIẾN TRIỂN CẬN THỊ CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC VÀ 
TRUNG HỌC CƠ SỞ TẠI THÀNH PHỐ CẦN THƠ

LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC

HÀ NỘI – 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO                           BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
======

HOÀNG QUANG BÌNH

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG THUỐC NHỎ MẮT ATROPIN 0,01% 
ĐỐI VỚI SỰ TIẾN TRIỂN CẬN THỊ CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC VÀ 
TRUNG HỌC CƠ SỞ TẠI THÀNH PHỐ CẦN THƠ

Chuyên ngành: Nhãn khoa
Mã số             : 62720157
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Nguyễn Chí Dũng
2. PGS.TS. Hoàng Thị Phúc 
HÀ NỘI – 2018




LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và nghiên cứu để hoàn thành luận án này, tôi  
đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ tận tình, sự đóng góp quý báu, sự động  
viên khích lệ từ các thầy cô giáo, bạn bè, đồng nghiệp và gia đình.
Tôi xin bày tỏ lòng biết  ơn vô cùng sâu sắc đối với PGS.TS Nguyễn Chí  
Dũng và PGS.TS Hoàng Thị  Phúc, những người Thầy đã trực tiếp hướng  
dẫn, tận tâm chỉ bảo và định hướng, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu  
khoa học và hoàn thành luận án.  
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và lời cảm ơn chân thành tới Bộ môn  
Mắt Trường Đại học Y Hà Nội, Bệnh viện Mắt­Răng Hàm Mặt Cần Thơ …  
đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi học tập, nghiên cứu và hoàn thành  
luận án.
Với tất cả lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm  
ơn GS.TS Tôn Thị Kim Thanh, GS.TS Nguyễn Văn Hơn, PGS.TS Phạm Trọng  
Văn, PGS.TS Phạm Thị  Khánh Vân, TS. Nguyễn Đức  Anh … đã đóng góp  
những ý kiến quý báu cho tôi trong quá trình hoàn thành luận văn này.
 Tôi xin cảm  ơn sự  giúp đỡ  quí báu của Ban giám hiệu, các thầy cô  
giáo và các em học sinh tại các Trường Tiểu học Trần Hưng Đạo, Trường  
Tiểu học An Thới 2, Trường THCS Châu Văn Liêm, trường THCS An Thới  
đã hợp tác, giúp đỡ tôi trong thời gian nghiên cứu tại trường.
 Cuối cùng, tôi xin chia sẻ  thành quả  đạt được ngày hôm nay với vợ  
con tôi và những người thân trong gia đình đã có những đóng góp, hy sinh  
cho sự thành công của luận án này.
   Xin trân trọng cảm ơn !
                                                                          Hoàng Quang Bình


LỜI CAM ĐOAN


Tôi là Hoàng Quang Bình, nghiên cứu sinh khóa 32  Trường Đại học Y Hà 
Nội, chuyên ngành Nhãn khoa, xin cam đoan:
1. Đây là công trình nghiên cứu do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự 

hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Chí Dũng và PGS.TS Hoàng Thị Phúc.
2. Công trình này không trùng lặp với bất kỳ  nghiên cứu nào khác đã được  

công bố tại Việt Nam. 
3. Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác, trung thực  

và khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của cơ sở nơi nghiên cứu
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.
Hà Nội, ngày 24 tháng 5 năm 2018

Hoàng Quang Bình


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ATOM

Điều trị cận thị bằng atropin
(the Atropin in the Treatment  Of  Myopia )

BCVA

Thị lực chỉnh  kính tốt nhất (Best Corrected  Visual Acuity) 

CI


Khoảng tin cậy (Confidence Interval)

CT

Cận thị



Diop 

ĐNT

Đếm ngón tay

HS

Học sinh

LogMar   

Lô­ga­rít của góc phân ly tối thiểu
(Logarithm of  Minimum Angle of  Resolution )

LT

Loạn thị

OR 


Tỷ xuất chênh (Odds  Ratio)

OLSM

Nghiên cứu cắt dọc về cận thị 
(the Orinda Longitudinal Study of Myopia)

PALs

Kính công suất tăng dần (Progressive Aditional Lens)

RCT

Thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên (Randomized controlled trials)

SD

Độ lệch chuẩn  (Standard Deviation)

SE

Độ cầu tương đương  (Spherical Equivalent) 

SL

Số lượng

TH   

Tiểu học 


THCS 

Trung học cơ sở 

TL

Thị lực

TB

Trung bình

UCVA

Thị lực không  kính  (Under Corrected Visual Acuity)

VT

Viễn thị


WHO  

Tổ chức Y tế Thế giới (The World Health Organisation)

MỤC LỤC

 DANH  MỤC BẢNG


 


DANH MỤC BIỂU ĐỒ


 DANH MỤC HÌNH, SƠ ĐỒ 


9
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, cùng với sự  phát triển kinh tế xã hội, quá trình  
đô thị  hóa và sự  thay đổi lối sống trong xã hội hiện đại, tình hình tật khúc xạ 
đang có xu hướng ngày càng gia tăng,  ảnh hưởng khoảng 2,3 tỷ người trên thế 
giới, trong đó có khoảng 153 triệu người mù lòa, chủ yếu sống  ở các nước đang 
phát triển (1/3  ở  châu Phi). Tật khúc xạ  chưa được chỉnh kính hiện là nguyên 
nhân hàng đầu gây giảm thị lực, đồng thời là nguyên nhân gây mù quan trọng xếp 
thứ  hai sau bệnh đục thể  thủy tinh, đã được Tổ  chức Y tế  thế  giới khuyến cáo  
toàn cầu, cần đặc biệt quan tâm nhằm đạt được mục tiêu “Thị giác 2020 ”. Tỷ lệ 
tật khúc xạ  rất khác nhau  ở  các nước, Châu Á là nơi có tỷ  lệ  tật khúc xạ  cao  
nhất thế  giới và có xu hướng gia tăng mạnh trong những năm gần đây, lên tới  
80% như ở Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và Singapore, trong khi tại Mỹ tỷ 
lệ  cận thị  là 41,6% trong giai đoạn 1999­2004 [1], [2].  Ước tính riêng châu Á đã 
có tới 300 triệu người tật khúc xạ.
Không chỉ  tăng nhanh về tỷ  lệ, tật khúc xạ   ở  trẻ  em còn thay đổi theo lứa  
tuổi, đặc biệt cận thị còn tiến triển ngày càng nặng hơn, ảnh hưởng xấu tới thị 
lực, gây biến chứng dẫn tới mù lòa, tăng các chi phí cho gia đình, xã hội và hạn  
chế trong lựa chọn nghề nghiệp sau này.
Ở Việt Nam, tật khúc xạ đang là một vấn đề sức khỏe thời sự được xã hội 
đặc biệt quan tâm. Đã có nhiều điều tra, nghiên cứu về  tỷ  lệ  tật khúc xạ   ở  các 

lứa tuổi và một số  nghiên cứu về  sự  thay đổi khúc xạ   ở  học sinh.  Nguyễn Thị 
Hồng Hạnh (2009) nghiên cứu sự  tiến triển của cận thị  trên trẻ  em  đến khám 
bệnh tại bệnh viện Mắt Trung ương cho thấy sự tiến triển của cận thị là 0,69 
Diop (D)/năm [3]. Đặng Anh Ngọc (2010) thấy tỷ lệ mắc mới  ở vùng nội thành 
Hải Phòng  là 6,46% cao hơn vùng ngoại thành  (1,27 D)  [4].  Nguyễn Chí Dũng, 
Nguyễn Thị  Hạnh (2011) nghiên cứu sự  thay đổi khúc xạ  của học sinh lớp 6 
trong một năm thấy tỷ  lệ  mắc mới cận thị là 2,0%/ năm với mức độ  tiến triển 


10
trung bình là 0,4 D/ năm [5]. Các nghiên cứu trên còn giới hạn trong phạm vi như 
chỉ  nghiên cứu trên những trẻ  đến bệnh viện khám hoặc chỉ  theo dõi được ở  1 
lứa tuổi trong thời gian ngắn. Một số  tác giả  khác như  Hoàng Văn Tiến (2006), 
Đặng Anh Ngọc (2010) [4] [6] đã nghiên cứu các giải pháp can thiệp đối với cận 
thị như truyền thông phổ biến kiến thức nâng cao thực hành vệ sinh học đường.
Trên thế giới đã có những nghiên cứu can thiệp làm chậm tiến triển cận thị 
như  chỉnh kính thấp hơn độ  cận thị, đeo kính tiếp xúc cứng, kính 2 tiêu cự, đa 
tiêu cự, sử  dụng pirenzepine … nhưng hầu hết các phương pháp là không hiệu 
quả. Cho tới nay, sử dụng atropin nhỏ mắt là một trong 3 phương pháp làm chậm  
tiến triển cận thị  có hiệu quả, ngoài việc mang kính Ortho­K và kính tiếp xúc  
mềm   đa   tiêu  cự.  Các   tác   giả   Bedrossian,   Gostin   (1964),   Gimbel,   Kelly,   Dyer, 
Sampson, Gruber, Brodstein, Brenner và Yen từ 1973 tới 1989  đã nghiên cứu thấy 
sử dụng atropin 1% nhỏ mắt có tác dụng tốt làm ngăn cản sự tiến triển của mắt  
cận thị so với các mắt đối chứng. Trong thập niên qua, Shih (1999), Shia (2001),  
Chua(2006), Lee (2006), Lu (2010) đã khẳng định tác dụng làm chậm tiến triển  
của cận thị bằng thuốc nhỏ mắt atropin với nồng độ thấp hơn như 0,5%, 0,25%,  
0,1%, 0,05% [1]. Mới đây, năm 2011 A. Chia tại Singapore đã thông báo thuốc nhỏ 
mắt atropin 0,01% cũng có tác dụng rõ rệt làm chậm tiến triển cận thị mà không  
có các tác dụng phụ như lóa mắt, viêm kết mạc dị ứng, viêm da mi [7].
Tuy nhiên đến nay, tại thành phố  Cần Thơ  chưa có các nghiên cứu sâu và 

toàn diện về vấn đề này và ở nước ta vẫn chưa có các nghiên cứu đánh giá hiệu 
quả  biện pháp can thiệp dùng thuốc nhỏ  mắt dễ  sử  dụng như  atropin nồng độ 
thấp 0,01% để  hạn chế sự  tiến triển cận thị  ở  học sinh. Do vậy, chúng tôi tiến 
hành đề  tài “Đánh giá hiệu quả  sử  dụng thuốc nhỏ  mắt atropin 0,01% đối 
với sự tiến triển cận thị của học sinh tiểu học và trung học cơ sở tại thành 
phố Cần Thơ” với các mục tiêu sau:


11
1. Mô tả  đặc điểm  tật cận thị  của  học sinh  1 số  trường tiểu học và 

trung học cơ sở TP. Cần Thơ trong năm học 2013 ­2014.
2. Đánh giá hiệu quả can thiệp của thuốc nhỏ mắt atropin 0,01% đối với 

sự tiến triển cận thị.

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. CƠ SỞ PHÁT SINH TẬT KHÚC XẠ 
1.1.1. Quá trình chính thị hóa 
Trong suốt quá trình phát triển bình thường của mắt, trục nhãn cầu phải phù 
hợp với công suất khúc xạ  để  đảm bảo hình  ảnh võng mạc được hội tụ  chính  
xác. Nếu mắt phát triển quá nhanh, hình ảnh nằm phía trước võng mạc, hậu quả 
là sự  phát triển của mắt có khuynh hướng chậm lại. Nếu mắt phát triển quá 
chậm, hình  ảnh nằm về  phía sau và mắt sẽ  có khuynh hướng phát triển nhanh 
hơn. Quá trình sinh học liên tục này nhằm đảm bảo cân bằng công suất khúc xạ 
và   phát   triển   chiều   dài   trục   nhãn   cầu   gọi   là  quá   trình   chính   thị   hóa 
(Emmetropization) (Yackle và Fitzgerald (1999).
Quá trình chính thị  hóa xảy ra vào 18 tháng đầu tiên (82% trẻ  vào lúc 12 
tháng tuổi), chính thị đạt được vào độ tuổi 9 ­ 14 và không có sự thay đổi khúc xạ 

trên mắt bình thường sau 16 tuổi.
Hai thuyết đối nghịch nhau là cơ  chế  chủ  động (feedback thị  giác) và thụ 
động (sự phát triển được xác định trước). Theo Saunders (1994) thì chính thị phối 
hợp cả quá trình thụ động và chủ động.
­ Quá trình thụ động: quyết định bởi gen và yếu tố thể chất. Công suất khúc 
xạ  (dioptric) giảm, tỷ  lệ  với sự gia tăng của kích thước trục. Khi sự  thay đổi này 
không tỷ lệ với nhau, bất chính thị phát triển. Trẻ cận thị có thể thủy tinh mỏng hơn  
bình thường, điều này cho thấy quan hệ cơ học giữa sự phát triển của mắt và sự bù 


12
trừ của thể thủy tinh. Điều này cho thấy đây là quá trình feedback không phải do thị 
giác.
­ Quá trình chủ động: quyết định bởi hình ảnh võng mạc. Mắt phân tích số 
lượng hình ảnh mờ trên võng mạc và kéo dài trục nhãn cầu cho đến khi hình ảnh  
trên võng mạc rõ nét. Đây là cơ chế feedback thị giác từ hình ảnh võng mạc. Có  
nhiều bằng chứng  ủng hộ  cho giả  thuyết này như  hiện tượng các bệnh lý đục 
giác mạc, đục thể  thủy tinh, hẹp khe mi, xuất huyết dịch kính và bệnh lý võng 
mạc trẻ sinh non (Retinopathy of Prematurity (ROP) làm cho mắt kéo dài ra. Một 
nghiên cứu trên trẻ sinh đôi cho thấy mắt bị đục môi trường quang học một bên 
sẽ có trục nhãn cầu dài hơn mắt lành 2 mm, tương đương 6 D.
Kết quả  thực nghiệm đã chỉ  ra rằng quá trình kiểm soát chính thị  hóa này 
nằm ở vùng ngoại biên của mắt (Wildsoet (1988), Wallman (1997), Smith (2009)
…) cho thấy ngay cả khi cắt thần kinh thị, sự phát triển của mắt vẫn tiếp tục tại 
vùng kích thích trên võng mạc. Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy sự thay đổi  
tương phản hình  ảnh võng mạc, ví dụ  như  che, hoặc dùng thấu kính làm lệch 
tiêu tại 1 vùng võng mạc khu trú, tác động lên sự phát triển nhãn cầu chỉ duy nhất 
tại vùng đó (Wildsoet (1998), Smith (2009)...) 

Hình 1.1. Lệch tiêu cận thị và viễn thị (nguồn:Hung, 2010 [8])

1.1.2. Mô hình thực nghiệm 
Wiesel (1977) nhận thấy khâu mắt khỉ gây ra cận thị. Kết quả  quan trọng  
này thúc đẩy nghiên cứu thực nghiệm trên  một số  loài để  tìm hiểu bản chất 


13
quang học và sinh học của cận thị.  Giữa thập niên 1970, nhiều mô hình động vật 
đã được phát triển (Sherman (1977), Wallman (1978)…) với việc tìm ra có 3 loài 
đóng vai trò quan trọng [9].
1.1.2.1. Đối tượng thực nghiệm 
Young (1961) nhận thấy cận thị ở khỉ gia tăng trong môi trường không gian 
bị giới hạn. Loại gặm nhấm như chuột ít biến dị và có độ khúc xạ lớn, phát triển 
cận thị nhanh, chỉ 12 ­ 14 ngày. Cấu trúc củng mạc và các nguyên bào sợi có tất 
cả năm loại thụ thể muscarinic như người . Gà nuôi là mô hình thông dụng nhất, 
giá rẻ và sẵn có [10]. Có thể gây độ khúc xạ ­5 D tới ­10 D trong 5 ­ 7 ngày, trong 
tự nhiên không phát triển cận thị.

1.1.2.2.

 Mô hình 

Cận thị  do  ức chế  thị  giác (Form  ­  deprivation Myopia ) (FDM): sử  dụng  
kính che mờ trên mắt động vật, làm cường độ ánh sáng, chi tiết vật và độ tương 
phản giảm. Thị giác không bị che hoàn toàn. Mắt sẽ dừng phát triển đến khi kính 
mờ được tháo bỏ.
Cận thị do mang kính phân kỳ (Negative lens ­ Induces Myopia) (LIM):  mắt 
sẽ  phát triển đến kích thước phù hợp độ  khúc xạ  gây ra bởi kính . Theo Irving 
(1992), Smith (1999), mô hình LIM cho thấy tính tương quan rất chặt giữa chiều 
dài và công suất kính, ví dụ gà được mang kính ­7 D trong 10 ngày sẽ có độ khúc 
xạ     ­10 D khi bỏ kính ra.

1.1.3. Cơ chế bệnh sinh 
   

2 cơ chế phát sinh cận thị:

      * Thuyết điều tiết non độ (Accommodative lag theory): thuyết này dựa trên 
giả thiết là ảnh võng mạc mờ ở mắt viễn thị do điều tiết non độ  trong các hoạt  
động nhìn gần là nguyên nhân gây ra sự phát triển bất thường của trục nhãn cầu.  
Cơ sở của thuyết này là các mắt cận thị có đáp ứng điều tiết yếu hơn so với mắt  
chính thị, Do đó khi ảnh võng mạc mờ thì đáp ứng điều tiết của mắt không đủ để 


14
cho nhìn rõ. Vai trò của lệch tiêu viễn thị được xác nhận bởi quan sát rằng những  
mắt của động vật còn nhỏ  khi cho đeo kính trừ  thì mắt đáp ứng bằng sự  dài ra  
nhanh hơn của trục nhãn cầu. Tuy nhiên, các giai đoạn ngắn mắt nhìn rõ (khi  
nhìn vật  ở xa) sẽ khử hoàn toàn tín hiệu “tăng chiều dài trục nhãn cầu” (“grow 
signal”) gây ra bởi  ảnh võng mạc mờ   ở  mắt viễn thị  khi nhìn gần. Những kết 
quả  nghiên cứu ở động vật đã cho thấy là lệch tiêu viễn thị  do điều tiết non độ 
trong khi làm việc nhìn gần chưa chắc đã phải là yếu tố làm tăng trục nhãn cầu.  
Ngoài ra các ý kiến còn chưa thống nhất là lệch tiêu viễn thị có xảy ra trước khi  
xuất hiện cận thị không và điều tiết non độ có liên quan đến sự tiến triển cận thị 
hay không.

Hình 1.2. Lệch tiêu viễn thị
* Thuyết sức căng cơ học (mechanical tension theory): 
Thuyết này được đưa ra dựa vào dữ  liệu về  sự  phát triển của nhãn cầu  ở 
trẻ chính thị và viễn thị. Thuyết này khẳng định rằng sức căng cơ học tạo ra bởi 
thể thủy tinh hoặc thể mi làm hạn chế sự giãn ra của nhãn cầu ở vùng xích đạo, 
làm cho trục nhãn cầu dài ra nhiều hơn. Thuyết này cho rằng có nhiều yếu tố 

làm cho kích thước nhãn cầu lớn hơn bình thường  ở  những trẻ  có nguy cơ  cận  
thị. Sức căng thể  mi­hắc mạc  ở  phần trước nhãn cầu đạt đến điểm tới hạn mà  
nhãn cầu không thể giãn ra tương ứng trong quá trình phát triển của mắt. Cận thị 
xảy ra do sự dài ra quá mức không thể  bù trừ  được, vì thể  thủy tinh không thể 


15
giảm công suất hơn nữa bằng cách dẹt hơn và căng ra hơn. Một hậu quả  khác  
của sự đạt điểm tới hạn là sức căng dẫn đến tăng lực điều tiết cần thiết, do đó 
làm cho điều tiết non độ và tỉ số AC/A càng tăng thêm. Theo thuyết này thì điều  
tiết non độ  chỉ  là một sản phẩm phụ  của cận thị và nó liên quan với tiến triển  
cận thị nhưng không phải là nguyên nhân của tiến triển cận thị [11]. Thuyết này 
cũng phù hợp với sự biến dạng nhãn cầu xảy ra ở mắt cận thị.

Sơ đồ 1.1. Thuyết sức căng cơ học và điều tiết non độ (Berntsen, 2010 [11])
Như  vậy, hiện nay có 2 thuyết về  cơ  chế  phát sinh cận thị, đưa đến việc 
giải thích và hướng điều trị cận thị cũng khác nhau.
1.1.4. Các yếu tố nguy cơ mắc tật khúc xạ
Nguyên nhân phát sinh cận thị là sự kết hợp nhiều yếu tố nguy cơ, trong đó 
quan trọng nhất là yếu tố gen và yếu tố môi trường.  Nói một cách khác, hiện tại 
có 2 thuyết: thuyết sử dụng và lạm dụng ­ sự căng thẳng điều tiết (The use and 


16
abuse theory ­ accomadative stress) và thuyết sinh học về cận thị (The biological  
theory of myopia).
1.1.4.1. Yếu tố di truyền
Độ  dài trục nhãn cầu góp phần lớn nhất quyết định tật khúc xạ. Tính di 
truyền đối với độ  dài trục khoảng từ  40% tới 94%, độ  sâu tiền phòng từ  70% ­  
94%, độ  dày của thể  thủy tinh từ 90,3% tới 93% (Lyhne, 2001). Cá nhân có gen 

có khuynh hướng phát sinh cận thị khi tiếp xúc yếu tố môi trường nào đó. 

­ Yếu tố chủng tộc
Khảo sát xem xét dinh dưỡng và sức khỏe quốc gia (The National Health and 
Nutrition Examination Survey (NHANES) (1971 ­ 1972) cho thấy tỷ lệ cận thị cao  
ở  nữ  và người da trắng. Các tác giả  Wang (1994), Rajan (1994) cho kết quả 
tương tự. Người châu Á và người Do Thái có tỷ  lệ  cận thị  cao. Zylbermann  
(1993) cho thấy trẻ  nam  ở  các  trường Do Thái chính thống có tỷ  lệ  cận thị 
(81,3%) cao hơn so với các trường Do Thái thông thường (27,4%) [12]. Tại Đài 
Loan, tỷ lệ cận thị ở người bản địa là 13% so với 30% ở người Trung quốc [13].  
Theo Wu (2001), tỷ lệ cận thị người bản địa (82,2% ) cao so với người gốc  Ấn  
Độ  (68,7%) và gốc Mã Lai (65,0%). Chủng tộc thể  hiện về cấu trúc gen và thể 
hiện tính nhạy cảm mạnh đối với bệnh nào đó (Mann, 1966). Wedner (2002) 
nhận thấy học sinh gốc Phi có tỷ lệ thấp hơn (4,7%) so với trẻ không phải gốc  
Phi (13,4%) và người gốc Nam Á (17,0%), với p < 0,001.

­ Tiền sử gia đình
Nghiên cứu về di truyền tiến hành chủ yếu trên các trẻ sinh đôi, phả hệ và 
gia đình. Sorby (1996) và Keller (1973) cho thấy mối liên quan có ý nghĩa giữa cha 
mẹ  và trẻ. Zadnik (1994) nhận thấy học sinh cận thị có cha mẹ  cận thị  thì trục 
nhãn cầu dài hơn, gợi ý cho một khả năng di truyền. Cả hai cha mẹ bị cận thị thì  
33 ­ 60% trẻ cận thị, nếu 1 trong hai cha mẹ cận thị thì có 23 ­ 40% trẻ cận thị,  
không có ai trong cha mẹ cận thị thì chỉ  có 6 ­ 15%. Wedner (2002), Mehdizadeh 


17
(2006), Khader (2006) [14]…cũng cho kết quả  tương tự. Sự khác nhau về  tỷ  lệ 
cận thị liên quan đến cận thị cha mẹ có thể biểu hiện ngay trong những năm đầu 
đi học [13]  [15]. Vai trò của di truyền được thừa nhận  ở  cận thị  nặng. Ashton  
(1985) nhận thấy trẻ cận thị dưới 1 D có 15% cha mẹ bị cận thị, trẻ cận thị nặng  

hơn 7 D có 55% cha, mẹ bị cận thị. Ashton (1985) nghiên cứu tiến hành ở Hawai  
trên 185 gia đình có cha mẹ tổ tiên là người Nhật và trên 192 gia đình có cha mẹ 
tổ  tiên là người châu Âu cho thấy có bằng chứng về mô hình di truyền gen theo 
thuyết của Mendel [13].
Nghiên cứu trẻ sinh đôi không xác định được mô hình di truyền nhưng cung 
cấp bằng chứng cận thị có thể di truyền. Trong một nghiên cứu các cặp sinh đôi  
cùng trứng có thói quen nhìn gần gần giống nhau (khác nhau ít hơn 1 giờ/ ngày về 
học tập và đọc) so với các cặp sinh đôi cùng trứng (79,3%) có thói quen không  
giống nhau, các tác giả  cho thấy sự  kết hợp tăng thêm có ý nghĩa giữa sinh đôi 
cùng trứng với công việc nhìn gần [16].

1.1.4.2. Yếu tố môi trường
Tỷ lệ cận thị khác nhau giữa các vùng, các quốc gia và giữa các thế hệ. Tỷ 
lệ  cận thị  phát sinh  ở  thế  hệ  sau là manh mối quan trọng cho nguyên nhân gây 
cận thị   ở  cộng đồng người trẻ  tuổi. Di truyền và môi trường cùng đóng vai trò 
trong sự phát sinh cận thị. Tuy nhiên, khi sự thay đổi xảy ra trong một giai đoạn  
ngắn, nguyên nhân thường là do ảnh hưởng của môi trường. Thay đổi lớn trong 
lối sống của người Trung Quốc trong ba hoặc bốn thế kỷ qua cho thấy các yếu 
tố về cách sống có thể ảnh hưởng tới cận thị [17]. 

­ Giáo dục và sự hiểu biết
Nghiên cứu  ở  Đan Mạch, Israel, Mỹ, Phần Lan, Singapore cho thấy tỷ  lệ 
cận thị  cao hơn trong cá nhân với trình độ  học vấn cao. Sato (1993) thấy tỷ  lệ 
cận thị  mắc mới cao hơn trong số người tốt nghiệp đại học  ở  Mỹ. Tay (1992) 
thấy tỷ  lệ  cận thị  gia tăng cùng với sự  học tập. Dayan (2005)   nhận thấy tỷ  lệ 


18
cận thị tỷ lệ thuận với trình độ học vấn, thể hiện qua số năm học tập tại trường: 
nhóm học vấn từ  lớp 8 trở  xuống có 4,7% cận thị  nhẹ, 1,7% cận trung bình và 

0,7% cận nặng; nhóm học vấn từ lớp 12 trở lên có 16,0% cận thị nhẹ, 7,7% cận 
trung bình và 2,2% cận nặng. Ashton (1985) nhận thấy không có liên quan giữa  
cận thị và công việc nhìn gần, nhưng mối liên quan thành tích tại trường và cận 
thị  đã được ghi nhận. Hirsch (1959) lưu ý rằng trẻ  thông minh thường đọc sách 
và bị cận thị nhiều hơn. Mức độ giáo dục và thông minh quan hệ mạnh với công  
việc nhìn gần.

­ Công việc nhìn gần
+ Các nghiên cứu cho rằng công việc nhìn gần ảnh hưởng tới cận thị 
Nghiên cứu SMS  (The Sydney Myopia Study:  nghiên cứu cận thị  Sydney) 
[18] cho thấy trẻ  em đọc liên tục hơn 30 phút có nhiều khả  năng phát triển cận 
thị so với trẻ đọc liên tục dưới 30 phút, nhìn gần dưới 30 cm có khả năng cận thị 
gấp 2,5 lần so với khoảng cách xa hơn. Nghiên cứu SCORM tại Singapore (The 
Singapore  Cohort  Study  of the Risk Factors for  Myopia)  cho thấy trẻ  đọc nhiều 
hơn 2 cuốn sách một tuần có nguy cơ  cao hơn gấp 3,05 lần đối với cận thị  cao 
độ (ít nhất trên ­3 D) so với trẻ đọc dưới 2 cuốn một tuần.  Đọc hơn 2 giờ/ ngày 
có khả  năng bị  cận thị  cao hơn 1,5 lần so với những người  đọc  ít hơn  2 giờ, 
nhưng điều này không có ý nghĩa. Mỗi tuần đọc nhiều hơn 1 cuốn sách kèm theo 
với sự kéo dài trục nhãn cầu thêm 0,04 mm, đọc nhiều hơn 2 cuốn sách mỗi tuần 
có chiều dài trục nhãn cầu hơn 0,17 mm  [19].  Nghiên cứu OLSM (the Orinda 
Longitudinal Study of Myopia: nghiên cứu cắt dọc về cận thị) [20] đã phát hiện ra 
rằng OR  =  1,02 cho mỗi giờ  làm việc nhìn gần một tuần. Nghiên cứu cắt dọc 
của You (2016) tại Thượng Hải cho thấy đọc, viết, xem tivi, ánh sáng không đủ 
và làm việc liên tục hơn 30 ­ 40 phút sẽ làm thay đổi thông số khúc xạ và chiều 
dài sinh học nhãn cầu. Li (2015) cũng kết luận công việc nhìn gần liên quan tới 
yếu tố  đọc liên tục, khoảng cách đọc gần, xem tivi gần, nghiêng đầu khi viết, 


19
dùng đèn huỳnh quang. Các nghiên cứu của Hsu (2016) cũng cho kết quả  tương  

tự.
   + Thuyết sinh học đối với công việc nhìn gần 
Gia tăng áp lực  ở  phần phía trước do điều tiết gây quá sức chịu đựng cho  
củng mạc, dẫn đến sự  gia tăng trục thị  giác. Tuy nhiên sự  gia tăng áp lực chưa  
được ghi nhận. Dẫu sao, sự điều tiết khiếm khuyết làm hình ảnh không hội tụ trên  
võng mạc đang ngày càng được xem là yếu tố  chìa khóa trong phát sinh cận thị. 
Young (1961) thực nghiệm trên khỉ, thị giác bị giới hạn trong 18 inch (46cm) bởi màn 
che thì mắt đó sẽ trở nên cận thị đã cho thấy mối liên quan công việc nhìn gần với 
sự gia tăng điều tiết và cận thị. Raviola (1978) cho thấy khỉ bị phẫu thuật làm hẹp  
mi mắt một bên trong môi trường được chiếu sáng đã phát sinh cận thị trục ở mắt  
bị làm hẹp khe mi. 
    + Các nghiên cứu cho rằng nhìn gần không có mối quan hệ với cận thị
Một số tác giả khác như Saw (2002) [21], Lu (2009), Low (2010) [22], Jones­
Jordan (2012) [23] cho rằng nhìn gần không có mối quan hệ với cận thị [24].
    + Hạn chế của các nghiên cứu công việc nhìn gần:
Hầu hết các nghiên cứu là mô tả  cắt ngang, hoạt động nhìn gần và cận thị  
được xác định trong cùng một thời điểm nên không thể kiểm tra quan hệ  nguyên 
nhân ­ kết quả [25] [16]. Ngoài ra, thông tin do cha mẹ báo cáo nên sai lệch có thể 
xảy ra. Cần phương pháp chặt chẽ hơn để định lượng công việc nhìn gần. Một 
số biến thể của công việc nhìn gần như tư thế đọc, giải lao, ánh sáng cần được 
nghiên cứu để thay đổi thái độ hành vi [26]. 

­ Công việc hoạt động ngoài trời
    + Các nghiên cứu cho thấy tác dụng bảo vệ của hoạt động ngoài trời với cận  
thị: 
Mutti (2007) đầu tiên báo cáo hoạt động ngoài trời và khả  năng làm giảm  
khả  năng cận thị [12], tác động đó được báo cáo trong các nghiên cứu của Rose 
(2008)   [27],   Jones­Jordan   (2010)   [23],   Guggenheim   (2012)…   Nghiên   cứu   SMS 



20
(The Sydney Myopia Study: nghiên cứu cận thị Sydney) tìm thấy học sinh có mức 
nhìn gần cao, mà hoạt động ngoài trời thấp có mức khúc xạ  trung bình viễn thị 
thấp. Thời gian ngoài trời ít và nhìn gần nhiều có khả năng làm tăng tỷ lệ cận thị 
tới 2 ­3 lần. Dirani (2009) [28] cho thấy mỗi giờ gia tăng hoạt động ngoài trời, độ 
cầu tương đương  tăng  +  0,17 D và độ  dài trục nhãn cầu giảm 0,06 mm.  Jones 
(2007) [12] trên dữ liệu OLSM thấy trẻ em trở thành cận thị khi dành ít thời gian 
thể thao và hoạt động ngoài trời so với những người không bị cận thị (7,98 ± 6,54  
giờ  so với 11,65 ± 6,97 giờ). Nghiên cứu cận thị tại Sydney [27] cho thấy hoạt 
động ngoài trời có tác động lên khúc xạ của mắt và là yếu tố bảo vệ chống cận  
thị.
Có lẽ ngưỡng 10 ­ 14 giờ hoạt động ngoài trời/ tuần giúp ngăn cận thị [29]. 
Verkicharla (2016) cho rằng hoạt động ngoài trời khoảng 3 giờ/ ngày có tác dụng 
bảo vệ chống lại cận thị. Thử nghiệm trên trẻ Trung Quốc thấy hoạt động ngoài 
trời 40 phút/ ngày giảm khởi phát cận thị 9% sau 3 năm. Tại Đài Loan, hoạt động 
ngoài trời 80 phút/ ngày giảm khởi phát cận thị  9% sau 1 năm. Tác giả  Shah 
(2017) kết luận rằng bổ xung hoạt động ngoài trời có tác động lớn trên khởi phát  
và phát triển cận thị ở lứa tuổi 5 ­ 8. He (2015) cho rằng 45 phút hoạt động ngoài  
trời có thể ngăn ngừa cận thị.
Xiong (2017) [30] phân tích meta­analysis trên 25 nghiên cứu, kết luận hoạt 
động ngoài trời ngăn cản phát triển cận thị, nhưng không làm chậm tiến triển 
cận thị trong các đối tượng đã bị cận thị. Cohen (2011) nghiên cứu trên gà con cho 
thấy cường độ ánh sáng điều chỉnh các quá trình chính thị hóa và cường độ thấp 
của ánh sáng vào ban đêm là một yếu tố nguy cơ cho phát triển cận thị.
    + Cơ chế sinh học
Theo Morgan, 3 thuyết được đưa ra để giải thích giá trị của hoạt động ngoài 
trời: 1/ánh sáng về phía cuối dải tia cực tím làm chậm phát triển của mắt và cận 
thị   2/   thuyết   không   gian   dioptric   (Flitcroft)   3/   thuyết   “ánh   sáng­dopamine” 



21
(Morgan): ánh sáng ngoài trời làm co đồng tử, làm tăng độ sâu thị trường và giảm 
độ  mờ  của  ảnh.  Dopamine phóng thích từ  võng mạc khi   bị  kích thích bởi ánh 
sáng, sẽ ức chế các chất dẫn truyền thần kinh làm ức chế sự phát triển tại mắt. 
Ashby (2010) cho gà con tiếp xúc với cường độ chiếu sáng cao (15 000 lux) trong  
5 giờ mỗi ngày sẽ bù trừ có ý nghĩa cho việc đồng thời mang kính phân kỳ khi so 
sánh với những cá thể  chiếu sáng dưới 500 lux. Charman (2011) giả thuyết mối  
quan hệ giữa hình  ảnh không đều trên võng mạc là điều kiện thuận lợi để  phát 
triển quá trình chính thị  hóa dựa trên võng mạc ngoại vi. Tình trạng này được 
thỏa mãn bởi hoạt động ngoài trời, vì kích thích quang học không thay đổi nhiều  
tại mỗi vùng trên thị trường. 
    + Bằng chứng không có mối quan hệ:
Một số  tác giả  khác như  Lu (2009), Low (2010) [22] không thấy mối quan 
hệ hoạt động ngoài trời và cận thị. Tuy nhiên, cũng có thể do thời gian hoạt động 
ngoài   trời   còn   ít,   còn   dưới   ngưỡng   bảo   vệ.   Hai   nghiên   cứu   đầu   tiên   của 
Singapore (Saw 2001, 2006) báo cáo không có mối liên quan, tuy nhiên những  
nghiên cứu gần đây hơn như  của Dirani (2009) [28] lại thấy mối quan hệ  có ý 
nghĩa.
1.1.4.3. Các yếu tố khác
Có các bằng chứng rõ ràng cho mối liên kết giữa trẻ đẻ  non, cân nặng khi  
sinh thấp và cận thị, nhưng chưa có bằng chứng thuyết phục đối với mối liên hệ 
giữa cận thị  và chiều cao, cá tính, hoặc suy dinh dưỡng. Không có bằng chứng 
rằng các thiếu hụt vitamin đặc biệt có liên kết với cận thị. Bằng chứng về dinh  
dưỡng gây ra sự phát sinh cận thị không có tính thuyết phục.

1.1. TÌNH HÌNH CẬN THỊ VÀ SỰ TIẾN TRIỂN CỦA CẬN THỊ
1.1.1. Tình hình cận thị trên thế giới và tại Việt Nam


22

Tỷ lệ cận thị rất khác nhau ở các nước trên thế giới, nhất là tỷ lệ TKX không  
được chỉnh kính thích hợp dẫn đến tăng tỷ lệ mù loà. Đây là một vấn đề mà tổ chức 
Y tế thế giới đã khuyến cáo cần phải đặc biệt quan tâm đến TKX như là một loại  
mù loà có thể dễ dàng phòng tránh được với các biện pháp đơn giản nhất và rẻ tiền 
nhất.
Trên Thế giới, cận thị học đường chiếm tỷ lệ cao ở các quốc gia, nhất là ở 
Châu Á. Tỷ lệ cận thị ở một số nước như Singapore, Hồng Kông, Đài Loan, tỷ lệ 
lên tới 80 ­ 90% ở tuổi 17 ­18 [13].
Tại Việt Nam, Năm 1999, Bộ  Y tế công bố  chính thức tỷ  lệ  cận thị  ở  cấp  
tiểu học là 0,65%, THCS 1,6%, THPT lên tới 8,12% [31], theo điều tra của các  
nhà nghiên cứu tại nhiều tỉnh, thành phố thì trong những năm gần đây tỷ  lệ cận 
thị  gia tăng rất nhanh. Tại Hà Nội, năm 2000, theo điều tra của Hà Huy Tiến, tỷ 
lệ cận thị của học sinh nội thành Hà Nội là 31,95%, ngoại thành là 11,75%. Năm  
2009, Trịnh Thị  Bích Ngọc cho thấy tỷ  lệ  cận thị   ở  học sinh tiểu học là 18%; 
trung học cơ sở là 25,5% và trung học phổ thông là 49,7% [32]. Tại thành phố Hồ 
Chí Minh, Lê Thị Thanh Xuyên cho thấy tỷ lệ cận thị đang có xu hướng gia tăng 
một cách báo động. Năm 1994, tỷ lệ cận thị là 8,65%, năm 2002 tăng lên 17,2% và 
đến năm 2006 là 38,88% [33].
1.1.2. Tình hình cận thị tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long
Đồng bằng sông Cửu Long bao gồm 1 thành phố  trực thuộc Trung  ương là 
thành phố  Cần Thơ  và 12 tỉnh. Thành phố  Cần Thơ  có tổng diện tích tự  nhiên là 
1.409,0 km², chiếm 3,49% diện tích toàn vùng và  dân số  vào khoảng 1.400.200 
người. 
Khảo sát tật khúc xạ  học sinh đầu cấp và cuối cấp tiểu học tại thành phố 
Long Xuyên An Giang (2013), cho thấy tỷ lệ tật khúc xạ trẻ em 6 tuổi và 10 tuổi  
là 13,1% và 19,8%. Cận thị 12,7% và 19,6%. Tại Cần Thơ, qua khảo sát trên chín 
lớp với 419 học sinh khối lớp 6 của một trường THCS n ội thành trên địa bàn TP 
Cần Thơ, trong đó chọn ngẫu nhiên và khám mắt thực tế  cho 172 em, tỉ lệ học  



23
sinh mắc tật cận thị chiếm tới 45,34%. Theo kết quả nghiên cứu của Trần Thanh 
Quang tại quận Ô Môn, một quận ngoại thành TP. Cần Thơ (2011) thì tỷ lệ cận 
thị là 9,2%. 
Các biện pháp điều trị chủ yếu là tuyên truyền và sủ dụng kính đúng độ. Năm  
2016, nhờ  sự  phối hợp với tổ chức HKI, Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố  Cần 
Thơ, chương trình khám sàng lọc thị lực cho 13.918 học sinh tại các trường THCS  
tại quận Ninh Kiều (quận trung tâm) đã được tiến hành, qua khảo sát thì tỷ lệ cận 
thị là 20%.
1.1.5. Các nghiên cứu về tỷ lệ mắc mới tự nhiên và sự tiến triển cận thị 
trên thế giới 
1.1.5.1. Các nghiên cứu so sánh
Lin (2004) [34] đánh giá 5 cuộc khảo sát tại Đài Loan (1983 ­ 2000), tỷ  lệ 
cận thị  tăng từ 14% đối với trẻ từ 16 đến 18 tuổi và 26,2% với trẻ 7 tuổi. Vitale 
(2009) [2] đánh giá tỷ lệ cận thị tại Hoa Kỳ ở  học sinh tuổi từ 12­17 thấy tăng từ 
12,0% (giữa năm 1971 ­ 1972 ) tới 31,2% (từ năm 1999 đến 2004). Pan (2012) [35] 
thấy tỷ  lệ  cận thị  trong người nhập cư thế hệ đầu tiên thấp hơn so với người  
nhập cư  thế  hệ  thứ  hai (cận thị: 23,4% so với 30,2%, cận thị   cao  2,5% so với 
4,8%). 
Tuy nhiên, tỷ lệ cận thị không thấy tăng trong một số nghiên cứu.  Ở Phần 
Lan,  tỷ  lệ  cận thị  trẻ  em tuổi từ  7  ­  8 trong hơn 20 năm gần đây là không đổi,  
trong khi đó tỷ  lệ  cận tăng gần gấp đôi  ở  trẻ  em 14  ­  15 tuổi. Ngược lại, một 
nghiên cứu so sánh các tỷ  lệ  cận thị của lính nghĩa vụ  ở  Đan Mạch trong những  
năm 1882, 1964 và 2004 cho thấy tỷ lệ cận thị giảm đáng kể theo thời gian, mặc  
dù sự so sánh có thể là khập khiễng vì có sự khác biệt trong phương pháp nghiên 
cứu ở những năm khác nhau [24]
1.1.5.2. Các nghiên cứu thuần tập tiến cứu
Chỉ có ít nghiên cứu theo dõi nhiều năm trên cùng một quần thể đối tượng,  
nhằm đánh giá tỷ  lệ  mới mắc bệnh và tiến triển của cận thị. Cho  đến nay, dữ 



24
liệu liên quan tới tỷ lệ mắc mới từ các nghiên cứu thuần tập tiến cứu còn ít.
Zhao J (1999) nghiên cứu trên 5.884 trẻ em ở Shunyi Trung Quốc phát hiện tỷ 
lệ mới mắc cận, tính trong suốt một thời kỳ 28,5 tháng là 14,1%, với tốc độ tiến triển  
cận trung bình là ­0,42 D. Saw (2005) [36] thấy tỷ lệ mắc mới tích lũy (cumulative 
incidence rates) trong năm là 47,7%, 38,4% và 32,4% tương  ứng với trẻ 7, 8 và 9  
tuổi. Fan (2004) [37] thấy tỷ  lệ  mắc mới cận thị  hàng năm là 144,1   2,31 trên 
1.000 học sinh tiểu học với tỷ lệ cao nhất  ở trẻ 11 tuổi.  French (2013) nghiên cứu 
trên trẻ Úc tuổi từ 12 ­ 17 cho biết tỷ lệ mắc mới cận thị hằng năm là 2,2% ở người  
trẻ và 4,1% ở người lớn tuổi. Tỷ lệ mắc mới hằng năm ở trẻ  em Đông Á (6,9% ở 
trẻ  nhỏ  tuổi, 7,3%  ở  trẻ  lớn) cao hơn nhiều so với tỷ lệ này  ở  trẻ  em da trắng 
châu Âu (1,3%  ở  trẻ  nhỏ  tuổi và 2,9% trẻ  lớn).  Donovan (2012  [38]  phân tích 
meta­analysis cho thấy tiến triển cận thị trung bình là ­0,55 D/ năm trẻ  châu Âu 
và ­0,82 D trẻ châu Á.
1.1.5.3. Các nghiên cứu can thiệp lâm sàng làm chậm tiến triển cận thị
Gwiazda (2003)  [39]  trong thử  nghiệm COMET  (U.S.­based Correction of 
Myopia Evaluation Trial: Thử nghiệm đánh giá chỉnh cận thị ở Hoa Kỳ)  thấy mức 
độ tiến triển của cận thị tích lũy trong 3 năm là ­1 ,48 ± 0,06 D ở nhóm mang kính 
gọng. Một thử nghiệm lâm sàng khác ở Singapore thấy tốc độ tiến triển của cận  
thị là ­0,63 D mỗi năm. 
1.1.6. Các nghiên cứu về tỷ lệ mắc mới tự nhiên và sự tiến triển cận thị ở 
Việt Nam 
Có rất ít những nghiên cứu về  tỷ  lệ  mắc mới   tật khúc xạ, đặc biệt là 
nghiên cứu ở cộng đồng. Hà Huy Tài (2009) [40] cho thấy cận thị tiến triển trung  
bình ­ 0,69 D/ năm. Đặng Anh Ngọc (2002­2004)  [4] thấy tỷ lệ mắc mới cận thị 
của học sinh nội thành Hải Phòng cấp tiểu học là 2,77% (p  = 0,015) và học sinh 
trường THCS là 14,64% (p < 0,001) cao hơn ngoại thành. Tuy nhiên, đo khúc xạ 
không làm liệt điều tiết nên kết quả chưa hoàn toàn chính xác. Nguyễn Thị Hạnh 
và Nguyễn Chí Dũng  (2010)  [5]  cho thấy  tỷ  lệ  mắc mới  tật khúc xạ  là 13,5%, 



25
tiến triển trung bình là 0,4 ± 0,8 D/ năm.Tuy nhiên, thời gian nghiên cứu còn ngắn 
(trong 1 năm), đối tượng nghiên cứu còn ít (chỉ học sinh lớp 6).
1.2. CÁC BIỆN PHÁP CAN THIỆP HẠN CHẾ SỰ TIẾN TRIỂN CẬN THỊ
1.2.1. Đeo kính gọng
1.2.1.1. Kính gọng chỉnh đủ số, thấp và cao hơn độ cận thị

­ Kính gọng đơn tiêu chỉnh đủ số
Không loại bỏ được hiện tượng lệch  tiêu kiểu viễn thị (hyperopic defocus)  
nên không làm chậm được sự  tiến triển của cận thị. Sankaridurg (2010) [41] sử 
dụng kính MyoVision được thiết kế  để  đảo ngược viễn thị  ngoại vi  ở  trẻ  em 
cận thị (lên đến ­4,00 D) cho thấy hiệu quả, nhưng duy nhất trên trẻ  6 ­ 12 tuổi 
có cha mẹ cận thị, tiến triển cận thị giảm 0,29 D (30%) trong một năm.

­ Kính gọng chỉnh thấp hơn độ cận thị
Chung (2002) [42], VasudevanB (2014) [43] cho thấy mang kính gọng chỉnh 
thấp hơn độ cận thị  gây tiến triển cận thị lớn hơn so với mang kính đủ  độ, phát 
hiện này tương tự với gần như  tất cả  các nghiên cứu trước đó  ở  người. Adler 
(2006), Li (2015) lại cho thấy không có sự khác biệt giữa 2 nhóm. Tuy nhiên phân  
tích hồi quy cho thấy có sự giảm tiến triển cận thị có ý nghĩa khi giảm số D iop 
nhiều hơn. Kết quả  này  ủng hộ  cho mô hình feedback, cho rằng giảm đủ  công  
suất kính sẽ giảm đáng kể tiến triển cận thị. Các nghiên cứu hiện nay chỉ ra rằng 
đeo kính thấp hơn độ cận thị có thể có lợi ích hạn chế.

­ Kính gọng chỉnh cao hơn độ cận thị           
Goss (1984) [44] cho thấy tốc độ tiến triển cận thị không khác biệt đáng kể. 
Các kết quả nghiên cứu không ủng hộ cho giả thuyết rằng mang kính cao hơn độ 
cận thị  có tỷ  lệ  tiến triển cận thị  thấp hơn người cận thị mang kính gọng thông 

thường.

­ Kính đeo liên tục
Ong (1999) [45] cho thấy kiểu đeo kinh
́  không ảnh hưởng đêń  triển cận thị 
giữa 4 nhóm: (1) đeo kinh
́  toàn bộ  thời gian (2) đeo kinh
́  nhìn xa sau đó chuyển 


×