Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Luận văn Thạc sĩ xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước: Công tác quy hoạch cán bộ diện ban thường vụ Đảng ủy Đại học quốc gia Hà Nội quản lý hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (998.8 KB, 115 trang )

   BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO            HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
                     HỒ CHÍ MINH       

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN THỊ LAN ANH

CÔNG TÁC QUY HOẠCH CÁN BỘ DIỆN
BAN THƯỜNG VỤ ĐẢNG ỦY ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ 
NỘI QUẢN LÝ HIỆN NAY
                                      
Ngành: Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước
Mã số : 60 31 02 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ 
XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Lâm Quốc Tuấn


HÀ NỘI ­ 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số 
liệu, kết quả  nêu trong luận văn là trung thực, có xuất xứ  rõ ràng. Những 
kết luận trong luận văn chưa từng công bố trong bất cứ công trình nào. Tôi  
xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về lời cam đoan của mình.

                                                                 TÁC GIẢ LUẬN VĂN


                                                                 NGUYỄN THỊ LAN ANH


MỤC LỤC
 MỞ ĐẦU                                                                                                     
 
....................................................................................................
   
 1
Chương

 

1

CÔNG   TÁC   QUY   HOẠCH   CÁN   BỘ   DIỆN   BAN   THƯỜNG   VỤ  
ĐẢNG   UỶ   ĐẠI   HỌC   QUỐC   GIA   HÀ   NỘI   QUẢN   LÝ   ­  
 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN                                                                     
 
...................................................................
   
 8
1.1. Quan niệm, vai trò quy hoạch cán bộ  diện Ban Thường vụ 
Đảng uỷ  Đại học Quốc gia Hà Nội quản lý ­ Những vấn đề lý 
 luận                                                                                                 
 
................................................................................................
   
 8
1.2. Quan điểm, nguyên tắc, phương châm, quy trình quy hoạch cán 

bộ  diện Ban Thường vụ  Đảng uỷ  Đại học Quốc gia Hà Nội 
 quản lý                                                                                          
 
........................................................................................
    
 18
Chương
THỰC

 
 

TRẠNG

 

CÔNG

 

2
TÁC

 

QUY

 

HOẠCH


CÁN   BỘ   DIỆN   BAN   THƯỜNG   VỤ   ĐẢNG   UỶ

 

 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI QUẢN LÝ                                             
 
............................................
    
 35
2.1. Những yếu tố  ảnh hưởng đến công tác quy hoạch cán bộ diện 
 Ban Thường vụ Đảng uỷ Đại học Quốc gia Hà Nội quản lý   .  35
    
2.2. Công tác quy hoạch cán bộ diện Ban Thường vụ Đảng uỷ Đại 
học Quốc gia Hà Nội quản lý ­ Thực trạng, nguyên nhân và 
 kinh nghiệm                                                                                  
 
.................................................................................
    
 42
Chương

 

3

PHƯƠNG   HƯỚNG   VÀ   NHỮNG   GIẢI   PHÁP   CHỦ   YẾU  
NHẰM   NÂNG   CAO   CHẤT     LƯỢNG   CÔNG   TÁC   QUY   HOẠCH



CÁN   BỘ   DIỆN   BAN   THƯỜNG   VỤ   ĐẢNG   UỶ
 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI QUẢN LÝ                                             
 
............................................
    
 67
3.1.   Mục   tiêu   và   phương   hướng   quy   hoạch   cán   bộ   diện   Ban  
 Thường vụ Đảng uỷ Đại học Quốc gia Hà Nội quản lý          
 
........
    
 67
3.2.   Những   giải   pháp   chủ   yếu   nhằm   nâng   cao   chất   lượng   quy  
hoạch cán bộ diện Ban Thường vụ Đảng ủy Đại học Quốc gia 
 Hà Nội quản lý                                                                             
 
...........................................................................
    
 71
 KẾT LUẬN                                                                                                
 
...............................................................................................
    
 99
 TÀI LIỆU THAM KHẢO                                                                        
 
.......................................................................
    
 102


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 
CBVC

Cán bộ, viên chức

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

ĐHQGHN

Đại học Quốc gia Hà Nội

GDĐH

Giáo dục đại học

KH&CN

Khoa học và công nghệ

KT­ XH

Kinh tế ­ xã hội

NCKH

Nghiên cứu khoa học

NNL


Nguồn nhân lực

QHCB

Quy hoạch cán bộ

XHCN

Xã hội chủ nghĩa



1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thực tiễn hơn 80 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng 
ta đã khẳng định: sau khi có đường lối chính trị  đúng đắn, sáng tạo thì 
cán bộ và công tác cán bộ  là nhân tố  quyết định thành bại của sự nghiệp  
cách mạng, gắn liền với  vận mệnh c ủa Đảng, của nhà nướ c và chế  độ. 
Vì   vậy,   Nghị   quyết   Hội   ngh ị   l ần   th ứ   3,   Ban   Ch ấp   hành   Trung   ương  
Đảng Khoá VIII về  Chiến lược cán bộ  thời kỳ  đẩy mạnh CNH, HĐH  
đất nước đã chỉ rõ: “Cán bộ  là nhân tố  quyết định sự  thành bại của cách 
mạng, gắn liền với vận mệnh của  Đảng, của đất nướ c và chế  độ, là 
khâu then chốt trong công tác xây dựng đảng”. Quan tâm xây dựng đội 
ngũ cán bộ, coi trọng toàn bộ  các khâu của công tác cán bộ  như  chăm lo  
tạo nguồn, lựa chọn, đào tạo bồi dưỡng, quản lý, sử  dụng và xây dựng 
chính sách đãi ngộ, đảm bảo cho đội ngũ cán bộ  của Đảng luôn có sự 
phát triển và nối tiếp vững chắc, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng  

trong từng thời kỳ, t ừng giai đoạn. Trong công tác cán bộ, “Quy hoạch  
cán bộ  là một nội dung trọng y ếu …., b ảo đảm cho công tác cán bộ  đi 
vào nền nếp, chủ động, có tầm nhìn xa, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt  
và lâu dài”.
  Thực tế  cho thấy có làm tốt công tác quy hoạch cán bộ  mới từng  
bước nâng cao được chất lượng, bảo đảm được số  lượng, bảo đảm tính 
liên tục, kế thừa và phát triển, tránh tình trạng hẫng hụt, bị động, chắp vá,  
không đồng bộ trong công tác cán bộ. Làm tốt công tác quy hoạch cán bộ sẽ 
tạo cơ  sở, điều kiện, tiền đề  làm tốt các khâu khác trong công tác cán bộ 
như: đào tạo, bồi dưỡng, điều động, luân chuyển, đề  bạt, bổ  nhiệm, giới  


2

thiệu cán bộ  ứng cử và thực hiện chính sách cán bộ; khắc phục tình trạng 
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ  tràn lan, không có trọng tâm, trọng điểm; lúng 
túng trong lựa chọn, phân công, bố trí, sử dụng cán bộ.
Để đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao 
nhằm   tăng cường năng lực cạnh tranh quốc gia và để  phù hợp với thị 
trường lao động của nền kinh tế  thị  trường định hướng XHCN, Đảng và  
Nhà nước chủ  trương thành lập Đại học Quốc gia Hà Nội với tư  cách là 
trung tâm đào tạo đại học đa ngành, đa lĩnh vực chất lượng cao là một  
quyết định có tầm chiến lược. Sau 20 năm xây dựng và phát triển, hiện nay  
đội ngũ cán bộ của ĐHQGHN đông về số lượng và mạnh về chất lượng so 
với các Trường Đại học trong cả nước. Phần lớn cán bộ  được đào tạo cơ 
bản, có kiến thức chuyên sâu, có năng lực và kinh nghiệm công tác. Nhưng 
bên cạnh đó do đa phần cán bộ  quản lý ở ĐHQGHN đều xuất thân từ  cán  
bộ  giảng dạy, chưa được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý nên năng 
lực, tư  duy và kinh nghiệm quản lý còn nhiều hạn chế. Đội ngũ cán bộ 
quản lý còn thiếu đồng bộ, không mang tính chuyên nghiệp, thường xuyên 

bị động. Việc sử dụng, bố trí cán bộ quản lý nhìn chung chưa hợp lý, chính  
sách đãi ngộ  chưa phù hợp do vậy phần đông cán bộ  quản lý chưa an tâm 
công tác. Tình trạng trên đòi hỏi Ban Thường vụ  Đảng uỷ  ĐHQGHN có 
những bước đi đúng đắn trong công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý 
để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ  trước mắt và lâu dài trong công tác cán bộ ở 
ĐHQGHN.
Quán   triệt   những   quan   điểm   của   Đảng,   từ   nhiều   năm   nay,   Ban  
Thường vụ Đảng uỷ ĐHQGHN đã rất quan tâm đến công tác QHCB, tập 
trung lãnh đạo, chỉ  đạo xây dựng QHCB lãnh đạo  ở  các đơn vị, nhất là 
đội ngũ cán bộ  diện Ban Thường vụ  Đảng uỷ  quản lý. Bởi đây là đội  


3

ngũ cán bộ  chủ  chốt trong ĐHQGHN, là lực lượng chủ  yếu lãnh đạo và 
tổ  chức thực hiện các Chỉ  thị, Nghị  quyết, Quyết định của Đảng; chính 
sách pháp luật của Nhà nước  ở  mỗi đơn vị  trong ĐHQGHN. QHCB nhìn  
chung đã được các đơn vị  trong ĐHQGHN thực hiện theo đúng nguyên 
tắc tập trung dân chủ, khách quan, công khai, thực hiện theo  đúng quy 
trình, phương châm, tạo được nguồn cán bộ, góp phần khắc phục dần  
tình trạng bị động, lúng túng trong công tác cán bộ.
Tuy   nhiên,   công   tác   quy   hoạch   cán   bộ   lãnh   đạo,   quản   lý   của  
ĐHQGHN cũng còn bộc lộ không ít thiếu sót, khuyết điểm, một số cán bộ 
đảng viên trong đó có cả cấp uỷ viên vẫn chưa nhận thức đầy đủ vị trí, vai 
trò và ý nghĩa của công tác QHCB. Vẫn còn hiện tượng làm QHCB một 
cách hình thức, chiếu lệ, khép kín  ở  nhiều đơn vị. Một số  đơn vị  còn có  
biểu hiện chủ nghĩa cá nhân, bệnh hẹp hòi, ích kỷ, tư tưởng lạc hậu trong 
QHCB. Bên cạnh đó thì nguồn cán bộ để đưa vào quy hoạch các chức danh 
diện Ban Thường vụ Đảng uỷ ĐHQGHN quản lý còn nhiều khó khăn, nhất 
là cán bộ trẻ, có trình độ... 

Từ thực tiễn công tác quy hoạch cán bộ ở ĐHQGHN nói chung và quy 
hoạch cán bộ diện Ban Thường vụ Đảng uỷ ĐHQGHN quản lý nói riêng đã 
chỉ  ra những tồn tại, hạn chế, khuyết  điểm đòi hỏi phải nâng cao chất 
lượng quy hoạch cán bộ, đáp ứng được yêu cầu trước mắt và lâu dài cho sự 
nghiệp phát triển của ĐHQGHN, góp phần thúc đẩy sự  nghiệp CNH, HĐH 
đất nước. 
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: “Công tác quy  
hoạch cán bộ diện Ban Thường vụ Đảng uỷ Đại học Quốc gia Hà Nội  
quản lý hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài


4

Nhận thức rõ vị trí, vai trò quan trọng của cán bộ  và công tác cán bộ 
nói chung, công tác quy hoạch cán bộ nói riêng nên đã có nhiều công trình,  
đề  tài, luận  văn, luận án liên quan đến vấn đề  này được công bố. Có thể 
nêu một số công  trình nghiên cứu tiêu biểu có liên quan đến đề tài như:
­ Đề  tài khoa học cấp Nhà nước¸  mã số  KHXH.05 ­03: “Luận cứ  
khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ  trong thời kỳ  đẩy  
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” do PGS, TS Nguyễn Phú 
Trọng và PGS, TS Trần Xuân Sầm chủ biên.
­ “Bệnh quan liêu trong công tác cán bộ  ở nước ta  hiện nay ­ Thực  
trạng, nguyên nhân và giải pháp” (2008) do PGS, TS Trương Thị Thông  và 
TS. Lê Kim Việt (đồng chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
­ “Đánh giá, quy hoạch, luân chuyển cán bộ  lãnh đạo, quản lý thời  
kỳ  công nghiệp hoḠhiện đại hoá đất nước” (2008) của Trần Đình Hoan, 
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
­ “Xác định cơ cấu  và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ  
thống chính trị  thời kỳ  đổi mới”, (1998) do PGS, TS Trần Xuân Sầm chủ 

biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
­  “Công tác quy hoạch cán bộ  thuộc diện Ban Thường vụ  Tỉnh uỷ  
quản lý  ở  các tỉnh miền núi phía Bắc giai đoạn hiện nay”, (2012) do Thân 
Minh Quế chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia.
  ­ “Tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ  lãnh đạo chính trị  hiện  
nay” (2003) của Trần Văn Phòng đăng trên Tạp chí lý luận chính trị số 05.
­ “Quan niệm khoa học  về Quy hoạch cán bộ ­ lịch sử vấn đề và quá  
trình tiếp cận vấn đề” (1999) của PGS, TS Lê  Văn Lý đăng trên Tạp chí 
Thông tin lý luận tháng 6.


5

­  “Quy   hoạch   cán   bộ   lãnh   đạo,   quản   lý   thời   kỳ   đẩy   mạnh   công  
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” (2003) của PGS, TS Trần Đình Hoan 
đăng trên Tạp chí Cộng sản số 33.
­“ Đánh giá đúng, quy hoạch tốt, luân chuyển đúng mục tiêu” (2004) 
của Lê  Quang Hoan đăng trên Tạp chí Xây dựng Đảng số 12.
­“Về công tác  QHCB lãnh đạo, quản lý” (2005) của Nguyễn Phương 
Hồng đăng trên Tạp chí  Cộng sản tháng 4.
­“Quy hoạch, đào tạo cán bộ  trẻ   ở  thành phố  Hồ  Chí Minh” (2009) 
của Phúc Sơn, đăng trên Tạp chí Xây dựng Đảng số 4.
­ “Xây dựng đội ngũ cán bộ  lãnh đạo chủ  chốt cấp tỉnh  vùng đồng  
bằng sông Hồng trong thời kỳ  đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá  
đất nước” (2002), Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thái Sơn, Học viện Chính 
trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
­ “Công tác quy hoạch và đào tạo cán bộ  chủ  chốt cấp tỉnh  ở Đồng  
Nai trong giai đoạn hiện nay”  (2000), Luận văn thạc sĩ của Trần Minh 
Thấu, Học viện Chính trị ­ Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
­ “Công tác quy hoạch  cán bộ  thuộc diện Ban Thường vụ  Tỉnh uỷ  

quản lý ở các tỉnh miền núi phía Bắc giai đoạn hiện nay” (2012), Luận án 
Tiến sĩ của Thân Minh Quế, Học viện Chính trị ­ Hành chính Quốc gia Hồ 
Chí Minh.
­ “Chất lượng quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh  
vùng Đông Bắc bộ  nước  ta giai đoạn hiện nay”( 2007)¸ Luận văn thạc sĩ 
của Hoàng Nguyên Hoà, Học viện Chính trị ­ Hành chính Quốc gia Hồ Chí 
Minh.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đều đề cập đến nhiều góc 
độ khác nhau về công tác cán bộ  và quy hoạch cán bộ. Tuy nhiên, đến nay 


6

chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu có tính hệ thống dưới góc độ 
một luận văn thạc sĩ về công tác quy hoạch cán bộ thuộc diện BanThường 
vụ Đảng uỷ Đại học Quốc gia Hà Nội quản lý.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.Mục đích nghiên cứu
Trên cơ  sở  làm rõ những vấn đề  lý luận liên quan đến công tác Quy 
hoạch cán bộ; đánh giá đúng thực trạng công tác quy hoạch cán bộ diện Ban 
Thường vụ  Đảng uỷ  ĐHQGHN quản lý, luận văn đề  xuất phương hướng,  
giải pháp chủ yếu, khả thi thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ trong thời  
gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
­ Làm rõ một số vấn đề lý luận về sự lãnh đạo của Đảng nói chung,  
Ban Thường vụ  Đảng uỷ  ĐHQGHN nói riêng đối với công tác quy hoạch 
cán bộ lãnh đạo, quản lý.
­ Khảo sát, đánh giá thực trạng công tác quy hoạch cán bộ  diện Ban 
Thường vụ  Đảng uỷ  ĐHQGHN quản lý từ  năm 2004 đến nay, xác định 
nguyên nhân và rút ra kinh nghiệm.

­  Đề  xuất phương hướng và một số giải pháp nhằm thực  hiện tốt  
công tác quy hoạch cán bộ diện Ban Thường vụ Đảng uỷ ĐHQGHN quản  
lý.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác quy hoạch cán bộ diện Ban Thường vụ Đảng uỷ ĐHQGHN  
quản lý. 
4.2. Phạm vi nghiên cứu


7

Khảo sát công tác quy hoạch cán bộ  diện Ban Thường vụ  Đảng uỷ 
ĐHQGHN quản lý từ  năm 2004 đến nay và định hướng giải pháp đến năm 
2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
­ Luận văn dựa trên cơ  sở  lý luận của chủ  nghĩa Mác ­Lênin, tư 
tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt nam về cán 
bộ  và công tác quy hoạch cán bộ; có kế  thừa kết quả  nghiên cứu của các  
công trình khoa học đã được công bố liên quan đến đề tài.
­ Cơ sở  thực tiễn là thực trạng công tác quy hoạch cán bộ  diện Ban  
Thường vụ Đảng uỷ ĐHQGHN quản lý từ năm 2004 đến nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
  Luận văn được thực hiện   trên cơ  sở  phương pháp luận của chủ 
nghĩa Mác ­Lênin; sử  dụng các phương pháp lịch sử­lôgic, điều tra, khảo 
sát, phân tích­ tổng hợp, thống kê, so sánh, tổng kết thực tiễn…
6. Những đóng góp về mặt khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận 
văn
­ Đóng góp về  mặt khoa học: Luận văn đề  xuất một số  giải pháp  

nhằm thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ diện Ban Thường vụ Đảng 
ủy ĐHQGHN quản lý trong giai đoạn hiện nay.
­ Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho  
việc nghiên cứu, học tập cho bộ môn Xây dựng Đảng về tổ chức và những 
ai quan tâm đến đề tài này.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn có cấu 
trúc gồm 3 chương, 6 tiết.


8

Chương 1
CÔNG TÁC QUY HOẠCH CÁN BỘ DIỆN BAN THƯỜNG VỤ 
ĐẢNG UỶ ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI QUẢN LÝ ­ 
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 
1.1. Quan niệm, vai trò quy hoạch cán bộ  diện Ban Thường vụ 
Đảng uỷ  Đại học Quốc gia Hà Nội quản lý ­ Những vấn đề lý luận
1.1.1.   Quan   niệm   về   quy   hoạch   cán   bộ   diện   Ban   Thường   vụ  
Đảng uỷ ĐHQGHN quản lý
1.1.1.1. Khái niệm về cán bộ; quy hoạch cán bộ
Khái niệm cán bộ
Cán bộ là một danh xưng rất đẹp, đầy niềm tự hào và vinh dự trong  
nhân dân ta. Nó xuất hiện trong đời sống xã hội nước ta khoảng mấy chục 
năm gần đây để chỉ một lớp người là những chiến sĩ cách mạng, lớp người  
mới, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh, gắn bó với nhân dân, phục vụ 
cho sự  nghiệp cao cả giành độc lập, tự  do cho dân tộc. Tên gọi cán bộ  đã  
từng để  lại dấu  ấn đẹp trong lịch sử  cách mạng nước ta từ  khi có Đảng 
lãnh đạo.
Trong Từ điển tiếng Việt, cán bộ được định nghĩa là:

­ Người làm công tác nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước, 
đảng và đoàn thể.
­ Người làm công tác có chức vụ  trong một cơ  quan, một tổ  chức,  
phân  biệt với người không có chức vụ [48, tr.17].
Cho đến nay, từ cán bộ đã được dùng với rất nhiều nghĩa khác nhau:


9

­ Trong tổ chức đảng và đoàn thể, từ cán bộ được dùng với hai nghĩa 
khác nhau: một là, để chỉ những người được bầu vào các cấp lãnh đạo, chỉ 
huy từ cơ sở đến Trung ương (cán bộ lãnh đạo) để phân biệt với đảng viên  
thường, đoàn viên, hội viên; hai là, những người làm công tác chuyên trách 
có hưởng lương trong các tổ chức đảng và đoàn thể.
­ Trong hệ thống nhà nước, từ cán bộ được hiểu cơ bản là chung với 
từ  công chức,   chỉ  những người làm việc trong cơ  quan nhà nước thuộc 
ngành hành chính, tư  pháp, kinh tế, văn hóa và xã hội. Đồng thời,  cán bộ 
cũng được hiểu là những người có chức vụ  chỉ  huy, phụ  trách, lãnh đạo  
(trưởng, phó phòng, vụ, cục…).
Dù cách dùng, cách hiểu trong các trường hợp, các lĩnh vực cụ thể có  
khác nhau, nhưng về  cơ  bản, từ  cán bộ  bao hàm nghĩa chính của nó là bộ 
khung, là nòng cốt, là chỉ huy. Như vậy, có thể quan niệm một cách chung 
nhất, cán bộ là khái niệm chỉ  những người có chức vụ, vai trò và cương vị  
nòng cốt trong một tổ chức, có tác động, ảnh hưởng đến hoạt động của tổ  
chức và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần  
định hướng sự phát triển của tổ chức.
Do trong nghĩa gốc của từ cán bộ có yếu tố là bộ khung, là nòng cốt, 
là  chỉ  huy,  cho nên khi bàn về  chất lượng đội ngũ cán bộ  phải tính đến  
những yếu tố “cần” và “đủ” để cán bộ thể hiện vai trò và chức trác h là cái  
khung, nòng cốt, là người chỉ huy, điều khiển, người quản lý.

Với nghĩa là chỉ huy, cán bộ phải có giác ngộ chính trị, đạo đức, năng 
lực chuyên môn giỏi, có trình độ  học vấn, trình độ  văn hoá nhất định, tinh 
thông nghiệp vụ, có tâm lý và văn hoá của người chỉ huy, người lãnh đạo, để 
đáp ứng vai trò điều hành quản lý xã hội ở cả cấp độ  cơ  sở cho đến tầm ở 
quốc gia.


10

Với nghĩa là khung, là nòng cốt của chế độ mới, của hệ thống chính 
trị, kinh tế, văn hoá của một đất nước phát triển theo định hướng xã hội 
chủ  nghĩa, trong sự  nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá…, cán bộ  nước  
ta phải có những phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực, trí tuệ đủ để làm 
nòng cốt trong thời kỳ mới.
Vai trò  nòng cốt  của người cán bộ  trong tổ  chức xã hội được thể 
hiện ở năng lực duy trì, tiếp nối cái bản chất của một tổ chức xã hội, đồng  
thời lại phải có khả năng quy tụ, tập hợp được lực lượng bảo đảm cho sự  
phát triển của tổ  chức. Những yếu tố  văn hoá và vật chất nào cần và đủ 
cho sự vững vàng của nòng cốt, góp phần thúc đẩy quá trình phát triển đều  
là những yếu tố có ý nghĩa phương pháp luận về mặt chất lượng mới, phù 
hợp với thời đại của đội ngũ cán bộ. Những yếu tố kém về chính trị và đạo  
đức, về  trí tuệ  và nghiệp vụ  của từng người cũng như  những sai lầm và  
thiếu sót trong cấu trúc đội ngũ, trong chính sách sử dụng, chính sách quản 
lý, đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ…, đều có thể gây hại tới năng lực nòng cốt  
và vai trò chỉ  huy, điều khiển của cán bộ. Không có đủ  phẩm chất, năng 
lực thì cán bộ không thể đảm nhiệm vai trò nòng cốt, điều khiển của mình;  
đồng thời không có chính sách đãi ngộ đúng, thì đội ngũ cán bộ cũng không 
được hình thành tương xứng với vị trí, vai trò của nó.
Khái niệm Quy hoạch cán bộ  diện Ban Thường vụ  ĐHQGHN quản  


Trong Từ điển Hán ­ Việt của Nguyễn Lân có nêu: “Quy hoạch là việc 
lập kế hoạch dài hạn căn cứ vào các phép tắc, quy chế và quy cách đã có” [37,  
tr.519]
Trong Đại Từ  điển Tiếng Việt, Nguyễn Như  Ý (Chủ  biên), hai từ 
“quy hoạch” được định nghĩa như sau:


11

“1. Bố trí sắp xếp kế hoạch dài hạn;
  2. Kế hoạch tổng thể trong thời gian dài” [51, tr.1380]
Từ  điển tiếng Việt nêu: Quy hoạch là “bố  trí, sắp xếp toàn bộ  theo 
một trình tự hợp lý trong từng thời gian, làm cơ  sở  cho việc lập kế  hoạch  
dài hạn. Quy hoạch các vùng kinh tế. Quy hoạch trị thủy một con sông. Quy  
hoạch đào tạo cán bộ”.
Từ đây có thể hiểu quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý (gọi tắt là quy 
hoạch cán bộ) là việc bố  trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các  
ngành, các cấp, các lĩnh vực của hệ  thống chính trị  theo một mục tiêu kế 
hoạch dài hạn (trong một giai đoạn cách mạng, hoặc một nhiệm kỳ Đại hội 
Đảng, Quốc hội…) sao cho mỗi cán bộ  đều phát huy cao nhất năng lực, 
phẩm chất của mình, nhằm hoàn thành có hiệu quả  nhất những nhiệm vụ 
đảm nhận và chuẩn bị những điều kiện tốt nhất cho thời kỳ, giai đoạn cách 
mạng tiếp theo.
Trước hết, cần phải hiểu quy hoạch cán bộ  là một hoạt động có ý 
thức, mang tính tích cực, chủ động của cơ quan có thẩm quyền quản lý cán  
bộ nhằm xây dựng một cách có kế hoạch đội ngũ cán bộ đều về số lượng, 
ngày càng nâng cao về chất lượng, phù hợp về cơ cấu, phát triển một cách 
bền vững, đáp ứng được các yêu cầu cho cả trước mặt và lâu dài.
Quy hoạch cán bộ hiện nay, theo Nghị quyết 42 của Bộ Chính trị, là 
một hoạt động tổng thể  ở cả tầm vĩ mô và vi mô, bao hàm nhiều loại quy 

hoạch cán bộ khác nhau. Vì vậy, tính chất hệ thống, đồng bộ, cơ bản, liên 
thông, toàn diện phải có  ở  trong tất cả các loại quy hoạch cán bộ. Theo ý 
nghĩa đó, quy hoạch cán bộ  là nền tảng cho cán bộ. Bản chất của quy  
hoạch cán bộ là chú trọng tới việc phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo, sử dụng  


12

nhân tài cho đất nước, có ở tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế ­ xã hội, an 
ninh, quốc phòng, khoa học ­ công nghệ, văn hoá ­ nghệ thuật….
Quy hoạch cán bộ  là quá trình tạo nguồn cán bộ  cho cả  hiện tại và  
tương lai, cho nên đây là công việc thường xuyên trong đời sống chính trị 
của đảng quyền. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy, chính cơ  cấu 
kinh tế  quyết định cơ  cấu cán bộ. Chẳng hạn như, tỷ  lệ  cán bộ  trên đại 
học ­ kỹ sư ­ công nhân kỹ thuật được hình thành tự nhiên từ sự phụ thuộc  
vào cơ  cấu kinh tế. Sự  khủng hoảng cơ  cấu kinh tế  dẫn tới sự  khủng  
hoảng cơ cấu nguồn nhân lực. Ngược lại, nếu biết chủ động tạo ra một cơ 
cấu nguồn nhân lực hợp lý sẽ  kéo theo sự  hình thành một cơ  cấu kinh tế 
phù hợp. Nếu chúng ta có một đội ngũ cán bộ công nghệ thông tin giỏi, sẽ 
kéo theo ngành công nghệ  thông tin phát triển. Như  vậy, có thể  có khủng 
hoảng về cơ cấu cán bộ  nếu không làm tốt công tác quy hoạch cán bộ, và  
xã hội có sự phát triển bền vững khi chủ động được vấn đề cán bộ. Ngược 
lại, khủng hoảng cán bộ có thể dẫn tới khủng hoảng xã hội.
Khác với các loại quy hoạch khác như  quy hoạch đô thị, quy hoạch  
hệ  thống giao thông, thuỷ  lợi là những quy hoạch  ở  trạng thái tĩnh, quy  
hoạch cán bộ là quy hoạch về nhân sự, về con người, nên  nó luôn luôn tồn  
tại ở trạng thái động, luôn được điều chỉnh, bổ sung, nâng cao cho phù hợp 
với sự phát triển của xã hội. Hiện nay, cơ cấu cán bộ của chúng ta còn mất  
cân đối giữa các khối ngành, lĩnh vực và còn bất hợp lý. Điều đó cho thấy  
tính bức thiết, tính quyết liệt, tính phức tạp và có nhiều  ẩn số  của quy 

hoạch cán bộ, vì nó liên quan đến giá trị, động cơ, lợi ích của con người. 
Nếu đánh giá cán bộ tạo ra cơ sở, thì quy hoạch cán bộ là định hướng phát 
triển đối với cán bộ. Tức là, quy hoạch cán bộ  tạo ra khuôn khổ  pháp lý 
cho sự bình đẳng phấn đấu, tạo ra khuôn mẫu sàng lọc theo cơ chế khách  


13

quan, tạo ra môi trường dân chủ, phấn đấu, thi đua rèn luyện giữa các cán 
bộ. Trong quy hoạch cán bộ  cần đặc biệt chú ý tới phương châm “ động” 
và “mở”, tính công khai và sự  gắn kết giữa tính đảng, tính khoa học, tính  
thực tiễn.
Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý liên quan đến nhiều khâu, nhiều  
quá trình gắn kết hữu cơ  với nhau, từ  phát hiện đào tạo, bồi dưỡng đến  
sắp xếp, bố trí, đánh giá và luân chuyển cán bộ. Đối với những cán bộ lãnh  
đạo, quản lý ở  một số  lĩnh vực thì sắp xếp, bố  trí vào các cương vị  được 
thực hiện trong bộ máy theo thẩm quyền quản lý của Đảng, nhưng đối với 
những cán bộ do bầu cử thì việc sắp xếp còn tuỳ thuộc vào quyết định bầu 
cử của cử tri và các đại biểu.
Công tác quy hoạch khác với công tác làm nhân sự. Công tác quy 
hoạch nhằm mục đích chính là tạo nguồn cán bộ trẻ có triển vọng để có kế 
hoạch đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách và dự kiến bố trí họ vào các 
vị trí lãnh đạo, quản lý trong nhiệm kỳ  tới hoặc những nhiệm kỳ sau. Còn 
công tác nhân sự  chủ  yếu thực hiện việc lựa chọn, bố  trí, sắp xếp, bổ 
nhiệm cán bộ đã đủ tiêu chuẩn, được đào tạo, bồi dưỡng vào các vị trí lãnh 
đạo, quản lý trong thời điểm hiện tại để  cán bộ  thực hiện được ngay các  
chức trách, nhiệm vụ được giao.
Nghị  quyết Hội nghị  lần thứ  ba Ban Chấp hành Trung  ương khoá 
VIII về  chiến lược cán bộ  thời kỳ  đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại 
hoá đất nước đã chỉ rõ: “Quy hoạch cán bộ là một nội dung trọng yếu của  

công tác cán bộ, bảo đảm cho công tác cán bộ đi vào nền nếp, chủ động, có 
tầm nhìn xa, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài” [9, 82]. 
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, lãnh đạo đất nước và toàn bộ hệ 
thống chính trị, Đảng phải lo cán bộ  cho toàn xã hội trên tất cả  các lĩnh 


14

vực. Vào thời điểm quan trọng chuyển giao thế hệ cán bộ  giữa hai thế kỷ 
của cách mạng như hiện nay, chỉ có chủ động xây dựng, kiện toàn đội ngũ  
cán bộ  vững mạnh, Đảng mới có thể  đủ  khả  năng lãnh đạo, tổ  chức toàn  
dân thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Từ cách đặt vấn đề  như  trên, có thể  hiểu thế  nào là một quy hoạch 
đúng và thế  nào là một quy hoạch tốt? Quy hoạch đúng là quy hoạch thể 
hiện được mục đích, yêu cầu, các quan điểm, nguyên tắc, phương châm, 
nội dung, phương pháp quy hoạch trên cơ  sở  đánh giá đúng cán bộ  và phù 
hợp với thực tế của địa phương, đơn vị  mình. Quy hoạch tốt (xét về  chất  
lượng, hiệu quả): phải thoả mãn các tiêu chí như  có cơ  cấu hợp lý về  độ 
tuổi, học vấn, thành phần, giới, dân tộc; có nguồn dồi dào, đáp  ứng được  
nhiều phương án, kế hoạch nhân sự khác nhau; bảo đảm tính kế thừa, tính 
phát triển, tính sàng lọc và ý chí phấn đấu cao; chọn lọc và phát hiện, nuôi 
dưỡng được người giỏi, người tài; có tính thiết thực, tính khả  thi; vừa là  
kết quả vừa là nguyên nhân của các khâu khác trong công tác cán bộ.
Giữa quy hoạch đúng và quy hoạch tốt có mối quan hệ chặt chẽ với 
nhau, quy hoạch đúng tạo tiền đề, điều kiện cho một quy hoạch tốt. Nó 
cho thấy vai trò rất quan trọng của việc tuân thủ  các quy trình  ở  mỗi giai 
đoạn, trong các bước tiến hành có liên quan như thế nào, bước nào là quan 
trọng nhất và trong mỗi bước có tính đến những nhân tố  khách quan, chủ 
quan nào tác động dễ  gây ra những lệch lạc, phá vỡ  tính quy hoạch và sự 
cần thiết phải có cơ  chế  như  thế  nào để  làm cho nguyên tắc công khai, 

khách quan, dân chủ thấm sâu và điều chỉnh tới toàn bộ công tác quy hoạch  
cán bộ cán bộ.
1.1.1.2. Quy hoạch cán bộ diện Ban Thường vụ Đảng uỷ  ĐHQGHN  
quản lý


15

Có đội ngũ cán bộ  tất yếu phải có công tác quản lý cán bộ, Ban 
Thường vụ Đảng uỷ ĐHQGHN là cấp có thẩm quyền quyết định cán bộ ở 
ĐHQGHN cụ thể: các đơn vị thành viên và trực thuộc xây dựng, đề xuất và 
báo cáo Thường vụ Đảng uỷ  ĐHQGHN quy hoạch các chức danh cấp uỷ, 
ban thường vụ cấp uỷ, bí thư, phó bí thư cấp uỷ cơ sở trực thuộc Đảng uỷ 
ĐHQGHN; Chánh, phó chánh văn phòng, Trưởng, phó các ban chức năng 
của ĐHQGHN; Thủ trưởng, phó thủ trưởng đơn vị thành viên, đơn vị  trực  
thuộc. 
Như   vậy   có   thể   khái   niệm:   Cán   bộ   thuộc   diện   Ban   Thường   vụ 
ĐHQGHN quản lý là những người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu 
cấp uỷ  đảng và chính quyền các Trường Đại học, Viện nghiên cứu khoa  
học thành viên và các đơn vị trực thuộc Đảng bộ ĐHQGHN.
Về công tác quy hoạch bộ diện Ban Thường vụ Đảng uỷ ĐHQGHN 
quản lý, ta có thể  khái niệm: Đó là hệ  thống, tổng thể  các công việc của 
Ban Thường vụ  Đảng uỷ  và tập thể  Đảng bộ, tập thể  lãnh đạo, cán bộ 
công chức các đơn vị  có liên quan nhằm lập dự  án thiết kế  xây dựng đội  
ngũ cán bộ; dự kiến bố trí, sắp xếp tổng thể đội ngũ cán bộ các chức danh 
diện Ban Thường vụ Đảng uỷ ĐHQGHN quản lý, theo một mục tiêu nhất 
định, trong một thời gian nhất định, làm cơ  sở  cho việc lập các kế  hoạch 
xây dựng đội ngũ cán bộ, đảm bảo cho công tác cán bộ đi vào nền nếp, chủ 
động về  nguồn cán bộ  lãnh đạo, quản lý, các cấp uỷ  đảng, chính quyền  
trong toàn Đảng bộ  ĐHQGHN, đáp  ứng nhiệm vụ  trước mắt, lâu dài của  

quá trình phát triển ĐHQGHN và từng đơn vị, bảo đảm tính kế  thừa,  ổn 
định và phát triển giữa các thế hệ cán bộ; làm cơ sở dự báo nhu cầu cán bộ 
để chuẩn bị xây dựng quy hoạch cho những năm tiếp theo; khắc phục tình  


16

trạng hẫng hụt trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, giữ  vững đoàn kết 
nội bộ và sự ổn định chính trị.
1.1.2. Vai trò của công tác quy hoạch cán bộ diện Ban Thường vụ  
Đảng uỷ ĐHQGHN quản lý
­ Quy hoạch cán bộ  diện Ban Thường vụ  Đảng uỷ  ĐHQGHN quản  
lý sẽ tạo ra nguồn cán bộ dồi dào, đáp ứng nhu cầu trước mắt và lâu dài
Công tác quy hoạch cán bộ nhằm chuẩn bị từ xa, tạo ra nguồn cán bộ 
dồi dào để  từ  đó xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ  lãnh đạo, quản lý  ở 
ĐHQGHN một cách cơ  bản và lâu dài; sớm phát hiện và đào tạo có định 
hướng đối với những cán bộ trẻ có triển vọng xuất hiện từ trong thực tiễn  
công tác; tạo môi trường bình đẳng về  điều kiện và cơ  hội để  đông đảo  
cán bộ  rèn luyện, phấn đấu và trưởng thành. Chủ  động tìm nguồn cán bộ 
tài năng và có kế hoạch đào tạo họ, đồng thời thực hiện sự sàng lọc những  
cán bộ đã thoái hoá, biến chất, không đáp ứng được nhu cầu.
­ Quy hoạch cán bộ  diện Ban Thường vụ  Đảng uỷ  ĐHQGHN quản  
lý đảm bảo cho công tác cán bộ đi vào nền nếp, theo quy trình chặt chẽ, có  
tính khoa học, chất lượng ngày càng nâng cao. Làm tốt công tác quy hoạch 
sẽ tạo cơ sở, điều kiện vững chắc để làm tốt các khâu khác trong công tác 
cán bộ, giúp cho công tác cán bộ  đi vào nền nếp, theo đúng quy trình, có 
tính   khoa   học   từ   khâu   đánh   giá,   quy   hoạch,   đào   tạo­   bồi   dưỡng,   luân 
chuyển, bố  trí­sắp xếp và quản lý cán bộ. Các khâu này có mối quan hệ 
chặt chẽ, khăng khít với nhau, làm tiền đề  cho nhau cho nhau và thúc đẩy  
nhau cùng phát triển. Từ thực tế những thành tựu và hạn chế  của công tác 

tổ  chức cán bộ  trong nhưng năm qua và trước yêu cầu mới, cần xác định  
đánh giá cán bộ là khâu tiền đề, quy hoạch cán bộ là nền tảng, luân chuyển  


17

cán bộ là đột phá, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là yêu cầu cấp bách và lâu dài  
và bố  trí, sắp xếp, sắp xếp, sử  dụng cán bộ  là nhiệm vụ  thường xuyên 
quyết định hiệu quả chất lượng sự phát triển của đội ngũ cán bộ.
­ Quy hoạch cán bộ  diện Ban Thường vụ  Đảng uỷ  ĐHQGHN quản  
lý góp phần phát huy dân chủ, đề cao trí tuệ của tập thể trong công tác cán  
bộ.
Theo nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản 
lý đội ngũ cán bộ, quy hoạch cán bộ  là một khâu trong công tác cán bộ, do 
đó công tác quy hoạch cán bộ phải chịu sự chỉ đạo trực tiếp của các cấp uỷ 
đảng. Trong khi bảo đảm sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của các cấp uỷ 
đảng, quy hoạch cán bộ phải được tiến hành công khai và dân chủ, từ khâu 
tuyển chọn nguồn cán bộ  đưa vào quy hoạch đến quá trình đào tạo, bồi 
dưỡng, rèn luyện thực tiễn và bố  trí sử  dụng cán bộ. Dân chủ  trong quy 
hoạch là thực hiện dân chủ ngay từ quy trình thăm dò ý kiến đề cử cán bộ 
vào quy hoạch, công khai quy hoạch (trong điều kiện cho phép) và công 
khai kết quả đánh giá quá trình phấn đấu của từng cán bộ trong quy hoạch  
để  cho cán bộ  công chức, viên chức và người lao động trong đơn vị  được 
biết. Bên cạnh đó, cấp uỷ đảng phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát  
thường xuyên cán bộ  trong quy hoạch, chú ý lắng nghe ý kiến đánh giá, 
nhận xét của cán bộ  công chức, viên chức và người lao động để  giúp cho 
cán bộ khắc phục những hạn chế, khuyết điểm và qua đó để đánh giá đúng  
cán bộ.
­ Quy hoạch cán bộ  diện Ban Thường vụ Đảng uỷ ĐHQGHN quản  
lý là động lực mạnh mẽ, thúc đẩy đội ngũ lãnh đạo, quản lý nói chung và  

cán bộ  dự  nguồn trong quy hoạch nói riêng không ngừng phấn đấu vươn  
lên về  mọi mặt. Thông qua công tác quy hoạch cán bộ, mọi cán bộ, công 


18

chức, viên chức có dịp nhìn nhận lại mình mà có hướng phấn đấu, phát  
huy những ưu điểm, sửa chữa những khuyết điểm, thấy rõ tiêu chuẩn cán 
bộ  đưa vào quy hoạch, tiêu chuẩn cán bộ  chức danh được quy hoạch, từ 
đó tích cực tu dưỡng, rèn luyện về  phẩm chất chính trị, đạo đức, giữ  gìn 
lối sống lành mạnh, giản dị. Tích cực học tập, công tác, phấn đấu hoàn 
thành tốt các nhiệm vụ  được giao, để  sớm được xem xét đưa vào quy  
hoạch,   từng   bước   đáp   ứng   yêu   cầu   tiêu   chuẩn   chức   danh   cán   bộ   quy 
hoạch.
1.2. Quan điểm, nguyên tắc, phương châm, quy trình quy hoạch  
cán bộ diện Ban Thường vụ Đảng uỷ Đại học Quốc gia Hà Nội quản  
lý 
1.2.1. Quan điểm về công tác quy hoạch cán bộ diện Ban Thường  
vụ Đảng uỷ ĐHQGHN quản lý 
Tiến hành công tác quy hoạch cán bộ diện Ban Thường vụ Đảng uỷ 
ĐHQGHN quản lý phải trên cơ sở quán triệt đầy đủ, chấp hành nghiêm túc 
và vận dụng sáng tạo các quan điểm, nguyên tắc xây dựng đội ngũ cán bộ 
của Đảng do Nghị  quyết Trung  ương 3 (Khoá VIII); Kết luận Hội nghị 
Trung ương 6 (khoá IX) và Nghị quyết số 42 của Bộ Chính trị; Hướng dẫn  
số  47 và Hướng dẫn số  22 của Ban Tổ chức Trung  ương về công tác quy 
hoạch cán bộ.
­ Quy hoạch cán bộ phải trên cơ sở đổi mới đồng bộ công tác cán bộ. 
Công tác cán bộ  là nhiệm vụ  hệ  trọng, bao gồm nhiều khâu, mỗi khâu có  
nội dung, tính chất đặc thù khác nhau. Chất lượng, hiệu quả của mỗi khâu 
chịu sự  quy định chặt chẽ  của các khâu khác và đến lượt nó, quá trình đổi 

mới  ở  từng khâu có tác dụng,  ảnh hưởng trực tiếp đến các khâu còn lại.  


19

Để  làm tốt công tác quy hoạch cán bộ  phải đánh giá đúng cán bộ, hay nói  
cách khác, đánh giá cán bộ là tiền đề của quy hoạch cán bộ. Quy hoạch cán 
bộ  phải gắn bó chặt chẽ  với đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển cán bộ…
Đánh giá, quy hoạch, đào tạo, luân chuyển gắn bó chặt chẽ với bố trí, sắp  
xếp, sử dụng, quản lý cán bộ.
Đổi mới, nâng cao chất lượng quy hoạch cán bộ  không phải được  
nhìn nhận như  những nội dung tách rời với các khâu còn lại của công tác 
cán bộ. Thực chất, đây là quá trình giải quyết đồng bộ tất cả các khâu, các  
nội dung của công tác cán bộ trong mối liên hệ tổng thể với nhiệm vụ của 
công tác tổ  chức và nhiệm vụ  xây dựng chỉnh đốn đảng. Đổi mới phải 
được hiểu và được đặt  ở  các khâu của công tác cán bộ: đánh giá, quy 
hoạch, đào tạo­bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí ­ sắp xếp và quản lý cán bộ.  
Các khâu đó có mối quan hệ chặt chẽ, khăng khít với nhau, làm tiền đề cho 
nhau và thúc đẩy nhau cùng phát triển. Cần phải thực hiện đồng bộ cả năm 
khâu này, trên cơ  sở  đó, nhận thức rõ hơn vị  trí của từng khâu, xác định 
được khâu nào là tiền đề, khâu nào là đột phá trong công tác cán bộ. Từ 
thực tế  những thành tựu và hạn chế  của công tác cán bộ  trong những năm  
qua và trước yêu cầu mới, cần xác định đánh giá cán bộ  là khâu tiền đề, 
quy hoạch cán bộ là nền tảng, luân chuyển cán bộ là đột phá, đào tạo, bồi  
dưỡng cán bộ  là yêu cầu vừa cấp bách vừa lâu dài và bố  trí, sắp xếp, sử 
dụng cán bộ  là nhiệm vụ  thường xuyên, quyết định hiệu quả  chất lượng 
sự phát triển của đội ngũ cán bộ.
Công tác cán bộ là nhiệm vụ then chốt trong công tác xây dựng Đảng. 
Đổi mới công tác quy hoạch cán bộ trên cơ sở đồng bộ, toàn diện, triệt để 
công tác cán bộ, gắn với xây dựng, chỉnh đốn Đảng sẽ  góp phần tạo xung 

lực mạnh mẽ  cho quá trình đổi mới công tác tổ  chức của Đảng, đóng vai 


×