Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học vỏ quả măng cụt xanh (Studying the compositon of Green fruit hulls of Garcinia Mangostana L.)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.58 MB, 88 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­
ĐỖ VĂN ĐĂNG

NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN HÓA HỌC VỎ QUẢ MĂNG CỤT XANH

(Garcinia Mangostana L.)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

i


Hà Nội – 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­
Đỗ Văn Đăng
NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN HÓA HỌC VỎ QUẢ MĂNG CỤT XANH

(Garcinia Mangostana L.)
Chuyên ngành
Mã số

:

Hóa học hữu cơ
:
60 44 27


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN VĂN ĐẬU

ii


Hà Nội – 2011

Lời cảm ơn
Tôi vô cùng cám ơn PGS. TS. Nguyễn Văn Đậu đã giao
đề tài hay và hướng dẫn tôi tận tình trong suốt thời gian làm
luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong phòng
Hóa học các hợp chất thiên nhiên, trong Khoa Hóa học cũng
như các anh chị bạn bè trong khoa Hóa học đã giúp đỡ tôi
rất nhiều trong thời gian làm luận văn.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn các thành viên trong phòng
Hóa học các hợp chất thiên nhiên đã giúp đỡ tôi nhiều trong
quá trình hoàn thành luận văn.

iii


DANH MỤC BẢNG BIỂU

TÊN BẢNG BIỂU

STT
1


2

3

4

5

Bảng 1.1
Bảng 4.  
1
Bảng 4.  
2
Bảng 4.  
3

Bảng 4.4

Các xanthon được tách từ vỏ quả măng 
cụt
Hiệu suất các phần chiết từ vỏ quả măng  
cụt
Kết quả phân tích cặn chiết điclometan 
bằng TLC
Quá trình phân tách cặn chiết điclometan 
(GMD) bằng CC
Kết quả phân tích cặn chiết n­ BuOH 
bằng TLC

iv


TRANG

09

36

38

39

41


6

7

8

9

Bảng 4.  
5
Bảng 4.  
6
Bảng 4.  
7
Bảng 4.  
8


Quá trình phân tách cặn chiết n­ butanol 
(GMB) bằng CC
Các dữ liệu phổ 1H­ và 13C NMR của các 
hợp chất (D1­4)
Kết quả thử hoạt tính chống oxy hóa 
DPPH
Kết quả thử hoạt tính kháng sinh

41

50

52

52

DANH MỤC HÌNH VẼ

STT

TÊN HÌNH VẼ

1

Hình 1.1

2

Hình 1.2


3

Hình 1. 3

Hình ảnh cây măng cụt ( Garcinia 
Mangostana L.)

Hình ảnh quả măng cụt ( Garcinia 
Mangostana L.)

Khung cơ bản của xanthon

v

TRANG

05

06

08


4

Hình 2. 1

Sắc ký lớp mỏng


24

5

Hình 2. 2

Sắc ký cột

25

6

Hình 4. 1

Phổ  H­ NMR của D1

7

Hình 4. 2

Phổ  H­ NMR của D3

8

Hình 4. 3

Phổ  H­ NMR của D4

1


1

1

44

47

49

DANH MỤC SƠ ĐỒ

ST

TÊN SƠ ĐỒ

T

1

Sơ đồ 4. 1

2

Sơ đồ 4. 2

Quy trình chiết các lớp chất trong vỏ quả 
măng cụt xanh

Quá trình phân tách cặn GMD


vi

TRANG

37

40


3

Sơ đồ 4. 3

Quá trình phân tách cặn GMB

vii

42


LỜI MỞ ĐẦU

Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, mức sống  
của con người ngày càng được nâng cao hơn. Đặc biệt, trong lĩnh vực y – dược 
học, từ  những năm đầu của thế  kỉ  XIX, việc kết hợp giữa các phương pháp 
khoa học kỹ  thuật và các loại thực vật xuất phát từ  thiên nhiên đã đưa con 
người tiến một bước lớn trong việc phát minh ra nhiều loại thuốc, có khả năng 
chữa nhiều căn bệnh được cho là nan y ở các thế kỉ trước đó.
Xanthon là một trong những khám phá mang tính tích cực của con người.  

Giới khoa học đang tiếp tục nghiên cứu sâu về các xanthon vì những lợi ích bất 
ngờ  cho cơ thể  con người và khả  năng tham gia vào nhiều vấn đề  sức khỏe.  
Trong công nghệ  thực phẩm thì xanthon là thành phần tốt nhất từ  trước đến  
nay mà chúng ta có được. Nó được ví như  một dưỡng chất thực vật đa năng 
trong lĩnh vực dinh dưỡng. Bên cạnh đó, xanthon còn mang lại nhiều hoạt tính 
sinh học, nổi bật là hoạt tính chống oxy hóa.
Theo như  nhiều nguồn thông tin thu thập trên thế  giới cũng như  trong 
nước, thì măng cụt là một trong “mười siêu trái cây”, mệnh danh là ‘’ nữ hoàng 
trái cây’’, được xếp vào nhóm thực phẩm chức năng, chứa một lượng lớn các  
loại xanthon. Điều này giải thích vì sao từ  hàng nghìn năm nay, các chất pha  
chế  từ  quả  măng cụt được sử  dụng rộng khắp trên toàn thế  giới như  một  
phương thuốc chữa bệnh hay một loại thuốc bổ, có tính chống oxy hóa, kháng  

1


khuẩn, kháng viêm, giảm đau, kháng nấm, giúp hệ  tiêu hóa tốt...vv. Gần đây, 
người ta còn khám phá ra khả năng chữa bệnh tim, tác dụng bảo vệ gan, mật,  
hay hơn nữa là chống được các bệnh như ung thư, HIV... Tuy nhiên, điều đặc 
biệt  ở  chỗ, các hoạt tính đó của trái măng cụt xuất phát chủ  yếu từ  vỏ  quả 
măng cụt – phần mà chúng ta thường loại bỏ sau khi lấy phần thịt quả.
Cùng với yếu tố Việt Nam là một trong những nước có nguồn măng cụt 
với số lượng lớn, phong phú trên thế giới, việc tập trung nghiên cứu, tìm hiểu 
hóa dược của trái măng cụt là cần thiết, có lợi, tận dụng được nguồn nguyên 
liệu sẵn có. Xuất pháp từ những lý do đó chúng tôi tiến hành nhiên cứu đề tài: 
“Nghiên cứu thành phần hóa học vỏ  quả  măng cụt xanh (Studying  
the compositon of Green fruit hulls of Garcinia Mangostana L.)”
Để góp phần nghiên cứu thành phần hóa học của vỏ quả măng cụt xanh 
các nhiệm vụ được đặt ra:
­ Xây dựng phương pháp chiết hiệu quả với vỏ quả măng cụt xanh.

­ Khảo sát định tính và phân tách các chất từ vỏ quả măng cụt xanh.
­ Xác định cấu trúc các chất phân lập được từ vỏ quả măng cụt xanh
­ Thử  hoạt tính chống oxi hóa và kháng sinh đối với một số chất phân  
lập được.

2


CH ƯƠNG 1. TỔNG QUAN

1.1. Vài nét về họ bứa (Clusiaceae) .
1.1.1. Đặc điểm thực vật
Họ Bứa hay họ măng cụt có danh pháp khoa học: Clusiaceae (còn gọi là 
Guttiferae, được Antoine Laurent de Jussieu đưa ra năm 1789), là một họ  thực 
vật có hoa bao gồm khoảng 27­28 chi và 1050 loài các cây thân gỗ hay cây bụi, 
thông thường có nhựa trắng như sữa và quả hay quả nang để lấy hạt[3].
Đặc điểm thực vật: cây gỗ hay cây bụi thường xanh, cành thường mọc  
ngang.   Trong  thân và  lá   có   ống  tiết  nhựa   mủ   màu vàng.   Lá   mọc   đối  đơn,  
nguyên, không có lá kèm. Gân cấp hai thường gần thẳng góc với gân chính. Hoa 
đều, nhỏ, thường đơn tính hoặc vừa đực vừa hoa lưỡng tính trên cùng một cây. 
Mọc đơn độc hay họp thành cụm hoa. Đài 2­6 tồn tại dưới quả. Tràng 2­6 cánh 

3


dễ rụng nhị nhiều, tự do hay dính lại thành bó. Bộ nhụy gồm 3­5 lá, noãn tạo 
thành bầu trên. Quả khô mở vách hay quả thịt.
Họ  bứa được phân bố  đều trên toàn thế  giới, tập trung chủ  yếu  ở  các 
vùng có khí hậu nhiệt đới, ngoại trừ 2 chi  Hypericum và Triadenum phân bố ở 
Trung Quốc. Nhiều loài trong số đó đã mang lại nhiều lợi ích cho các quốc gia.  

Ví dụ  như làm vật liệu xây dựng, dược phẩm, thuốc nhuộm, nhựa, mỹ phẩm  
(lấy tinh dầu), đặc biệt có những loài là trái cây bổ dưỡng cho con người (măng 
cụt, táo mammey) và được coi là một loại thuốc cổ truyền.
1.1.2. Một số chi trong họ bứa (Clusiaceae)
Họ Bứa có 4 chi quan trọng sau:
Thứ  nhất, chi bứa  (Garcinia) có nguồn gốc  ở  Châu Á,  Australia, vùng 
nhiệt đới và miền nam Châu Phi và Polynesia. Chi này có khoảng 50–300 loài 
cây thân gỗ hay cây bụi thường xanh, hoa khác gốc và một vài loài có thể sinh  
sản vô tính. Tên gọi garcinia lấy theo tên của nhà thực vật học Laurence Garcia, 
người đã sưu tập các mẫu cây cỏ và sống tại Ấn Độ vào thế kỷ 18.
Thứ hai, chi Calophyllum (theo tiếng Hy Lạp nghĩa là lá đẹp) có khoảng 
180–200 loài. Chi này có nguồn gốc từ  Madagascar, Đông Phi, phía Nam và 
Đông Nam Á (từ hướng Đông Pakistan cho tới Việt Nam và Indonesia), những  
hòn đảo Thái Bình Dương và Mỹ La Tinh. 
Thứ ba, chi Clusia gồm có khoảng 140–150 loài, phân bố chủ yếu ở các  
vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, thường là các cây bụi hay cây leo (bò), có 
chiều cao từ trung bình lên tới 20m, với tán lá xanh. Một số loài bắt đầu cuộc  
sống như  những thực vật biểu sinh, rồi phát triển những gốc dài mà đi xuống 
tới nền, dần dần làm nghẹt và giết chết cây chủ, rất giống với cây đa. 
Thứ tư, chi Mammea gồm khoảng 50 loài, được phân bố rải rác trên thế 
giới. Chúng được tìm thấy ở vùng nhiệt đới của Mỹ và Tây Ấn Độ, Châu Phi, 

4


Madagascar; Indonexia, Malaysia và Thái Bình Dương. Quả  chỉ có một hạt, ăn  
được. 
1.2. Cây măng cụt (Garcinia mangostana L.) 
Măng  cụt có  tên  tiếng Anh,   Mỹ   là  mangosteen;  Pháp:  Mangoustanier; 
Trung Quốc: Sơn trúc tử; Thái Lan: Mankhut[2­ 4].

1.2.1. Đặc điểm thực vật
Cây cao 6­25m, thân lớn, đường kính có thể  lên đến 25­35cm, có nhựa 
vàng. Lá dày cứng, mọc đối, không lông, mặt dưới có màu nhạt hơn mặt trên.  
Hoa đa tính, thường có hoa cái và hoa lưỡng tính. Hoa lưỡng tính có cuống có 
đốt, 4 lá đài, 4 cánh hoa màu trắng, 16­17 nhị và bầu 5­8 ô. Quả tròn mang đài  
tồn tại có vỏ quả rất dai, xốp, màu đỏ như rượu vang chứa 5­8 hạt, quanh hạt  
có lớp áo hạt trắng, ngọt ngon. [4]
1.2.2. Nguồn gốc và phân bố
Măng cụt được khai hóa đầu tiên ở Thái Lan hoặc My­an­mar, cách đây 
ít nhất 2000 năm, và sau đó được mở  rộng sang những vùng nhiệt đới khác. 
Hiện có khoảng 10 loài khác nhau được trồng để lấy quả. Cây măng cụt ưa khí 
hậu nóng  ấm.  Ở  Việt Nam loài cây này được trồng phổ  biến  ở  đồng bằng 
Sông Cửu Long và Đông Nam Bộ, nhiều nhất  ở Lái Thiêu, Thủ­Dầu­Một.  Ở 
các nước Đông Nam Á, măng cụt được trồng nhiều tại Thái Lan, Cam­pu­chia, 
My­an­mar, Sri Lanka và Phi­lip­pin.
Măng cụt cho trái sau 10–15  năm trồng nhưng cây có thể  sống trên 50  
năm. Cây tốt có thể cho trái sau 7–8 năm trồng (vùng Lái Thiêu, Thủ­Dầu­Một, 
Việt Nam). Tại miền nam nước ta, măng cụt trổ hoa vào tháng 1 – 2 dương lịch 
và bắt đầu thu trái từ tháng 5 đến tháng 8 dương lịch[4].

5


Hình 1.1  Hình ảnh cây măng cụt ( Garcinia Mangostana L.)

Hình 1.2  Hình ảnh quả măng cụt ( Garcinia Mangostana L.)

6



1.2.3. Hóa thực vật của cây măng cụt
1.2.3.1. Tinh dầu [2, 3]
Hương thơm của trái măng cụt có được là do nó có chứa một số lớn các  
chất dễ bay hơi. Điều này được xác định thông qua GC­MS sử dụng EI­MS.
Sắc ký lỏng hiệu năng cao(HPLC) phát hiện trong tinh dầu măng cụt có 
52 chất chính, trong đó khoảng 28 chất đã được xác định. Thành phần thơm  
quan trọng nhất là hexyl acetate (7,80 %), cis­hex­3­enyl acetate (1,40%) và cis­
hex­3­en­1­ol (27,27 %). Các chất còn lại tuy chiếm thành phần ít hơn nhưng 
cũng đóng góp tạo nên hương vị của trái măng cụt, phức tạp và thoảng qua: mùi 
trái   cây  (hexenal,   hexanol,   ­bisabolen),   mùi   xoài  ( ­copaen),   mùi   hoa   nhài 
(furfuryl methylceton), mùi huệ dạ hương (phenyl axetaldehit), mùi cỏ (hexenol, 
hexanal), mùi cỏ  héo  (pyridin), mùi lá  ướt  (xylen), mùi hoa khô  (benzaldehit), 
mùi hồ đào ( ­cadinen)... Axeton, ethyl xyclohexan đóng góp tính chất dịu ngọt 
trong lúc toluen,   ­terpinol đem lại mùi đường thắng, methyl butenol, guaien 
mùi dầu, valenxen đặc biệt mùi mứt cam.
1.2.3.2. Các axit phenolic được tách ra từ quả măng cụt  
Theo các nghiên cứu trước đây, đã có khoảng 10 axit phenolic (chủ yếu là 
các dẫn xuất của axit hydroxybenzoic) được xác định trong cây măng cụt thông qua 
GC­MS. Ngoài một số axit như vanillic, veratric, caffeic, p­coumaric, ferulic, p­
hydroxyphenylaxetic, benzoic, cinnamic, mandelic... thì nổi trội lên là một số axit 
phenolic có hàm lượng lớn hơn hẳn ở các bộ phận khác nhau của cây măng cụt 
như: axit protocatechuic (vỏ quả và vỏ cây); axit p­hydroxybenzoic (áo hạt); axit m­
hydroxybenzoic (vỏ quả); 3,4–dihydroxymandelic (vỏ cây) [8, 28,37,49].

7


O

OH


OH
OH

HO

   

OH

O

HO

                           

3,4 – dihydroxymandelic                      
O

 axit protocacheuic  

OH
O

                        

 

OH


OH

                        

OH

                        HO

  axit p­hydroxybenzoic                                  axit m­hydroxybenzoic
1.2.3.3. Các xanthon được tách ra từ vỏ quả măng cụt 
Trái măng cụt đã được chỉ ra là có chứa một lượng lớn các chất chuyển 
hóa thứ cấp như là prenyl xanthon và oxygen xanthon[13,14, 28, 49].
Xanthon hay xanthen­9H­one là chất chuyển hóa thứ cấp được tìm thấy 
trong một số họ thực vật lớn, nấm và địa y. Chúng là một trong những ngành 
quan trọng của hợp chất dị  vòng được oxy hóa. Khung cơ  bản của xanthon  
được biết đến như  9­xanthenone hay dibenzo­γ­pyron và được sắp xếp một 
cách cân đối (hình 3). Các nguyên tử  cacbon được đánh số  theo sự  thuận tiện  
của tổng hợp sinh học. Các nguyên tử cacbon ở vị trí từ 1­4 được đánh số theo 
vòng B có nguồn gốc từ shikimate, và cacbon từ 5­8 được đánh số theo vòng A  
có nguồn gốc từ axetat. [15, 27].
O

8
7
6
5

9a

8a


10a

O

8

4a

1
2
3
4


Hình 1.3  Khung cơ bản của xanthon
Xanthon được phân thành năm nhóm: xanthon oxy hóa đơn giản, xanthon 
glycosid, prenyl xanthon, xanthonolignoid và xanthon miscellaneous. Trong đó, 
các xanthon oxy hóa đơn giản lại được chia nhỏ thành 6 nhóm theo mức độ oxy 
hóa[9, 15, 23, 30, 38].
Năm mươi xanthon đã được tách ra từ  vỏ quả  măng cụt. Hợp chất đầu  
tiên   trong   số   chúng   được   đặt   tên   là   mangostin  (1)  (sau   được   đổi   thành   α­
mangostin), được tách ra vào năm 1855 (Schmid, 1855). Chất này mang màu 
vàng, thu được từ vỏ hoặc nhựa khô của cây măng cụt (Dragendorff, 1930).
Sau này, Dragendorff (1930) và Murakami (1932) đã làm sáng tỏ cấu trúc 
của mangostin. Yates và Stout (1958) đã đưa ra công thức phân tử, phân loại và 
vị trí của các nhóm thế của α­mangostin. Hơn thế nữa, Dragendorff (1930) cũng 
đã tách được  β­mangostin (2), cấu trúc của hợp chất này vẫn chưa được làm 
sáng   tỏ   cho   đến   năm   1968   (Yates   và   Bhat,   1968).   Jefferson   (1970)   và 
Govindachari và Muthukumar­aswamy (1971) cũng tách được α và β­mangostin. 

OH O
O

OH

O
HO

  

OH

O
O

1

OH

OH

                                         

OH

2

Một số  xanthon khác được tách ra từ  vỏ  quả  măng cụt được trình bày  
trong bảng 1.
Bảng 1.1 Các xanthon được tách từ vỏ quả măng cụt.


9


STT

Tên hợp chất

Công thức cấu  Tài   liệu   tham 
tạo

khảo

1

γ­mangostin

(3)

[5]

2

Gartanin

(4)

[16]

3


8­deoxy gartanin

(5)

[16]

4

garcinone A

(6)

[17]

5

garcinone B

(7)

[17]

6

garcinone C

(8)

[17]


7

garcinone D

( 9)

[19]

8

garcinone E

( 10)

[19]

9

BR­xanthon A

(11)

[25]

10

BR­xanthon B

(12)


[25]

11

Mangostingone

(13)

[32]

12

garcimangosones B

(14)

[39]

13

tovophyllin A

(15)

[39]

14

Mangostenone C


(16)

[40]

15

Mangostenone D

(17)

[40]

16

Mangostenone E

(18)

[40]

17

Thwaitesixanthon

(19)

[40]

18


Demethylcalabaxanthon

(20)

[40]

19

Mangostanol

(21)

[40]

20

Mangostanin

(22)

[40]

21

11­hydroxy­1­isomangostin

(23)

[40]


22

tovophyllin B

(24)

[42]

23

Trapezifolixanthon

(25)

[42]

24

cudraxanthon G

(26)

[47]

25

8­hydroxycudraxanthon G

(27)


[47]

26

1­isomangostin

(28)

[47]

27

Smeathxanthon A

(29)

[47]

10


Theo   nhiều   báo   cáo,   α,   β   và   γ­mangostin,   gartanin,   8­deoxy   gartanin,  
garcinone E là những xanthon được nghiên cứu nhiều nhất do mang nhiều hoạt  
tính sinh học. 
OH
O

O


OH

OH

HO

O

HO

O

OH

3
O

                                                  

OH

4

O

OH

OH

O

OH

OH

HO

OH

O

OH

6

5

HO
O

O

OH

OH

HO

O
HO


O

HO

OH

7

O

OH

8

OH
O
O

HO

OH

O
HO

HO
O

OH


O

10

OH

9

11

OH


O
O

O

OH

OH

O
O
HO

O

O


OH

11

12

                    

OH

O

OH

O

OH

O
O

O
HO

O

O

OH


13

              

OH

O

O

14

   

O
O

HO

O

O

OH

OH

O

OH


OH

15

HO

O

O

16
OH

OH

OH

O

O

OH
O

O

OH

O

HO

O

HO

OH

18

17

OH

O

O
O

O

OH

HO

O

O

19


20

12

O


O

OH

O

O

OH

O

HO

OH

O

HO

21


O

22

OH
O

O

OH

O

O

O

O

HO

O

O

O

OH

24


OH

23

O

OH
O

25

OH

OH

O

O
OH

26

    

 

O
O


O

OH

O
O

O

OH

OH

OH

O

HO

OH

O

OH

28

    

OH


O

O

27

O

OH

29

1.3. Công dụng và các hoạt chất sinh học
1.3.1. Ứng dụng trong y học dân gian 
Trái măng cụt thơm ngon cũng còn cống hiến nhiều môn thuốc.  Từ lâu, 
ở  Á châu, bên  Ấn Độ, hệ  thống y học ayurvedic đã kê nó vào nhiều thang  

13


thuốc cổ truyền, đặc biệt chống viêm, chữa tiêu chảy, ức chế dị ứng, làm giãn 
phế  quản trong cuộc  điều trị  hen suyễn.  Nó cũng được xem như  là thuốc 
chống  dịch tả,  bệnh  lỵ, kháng vi khuẩn, kháng vi sinh vật, chống suy giảm 
miễn   dịch.   Người   Thái   dùng   nó   để   chữa   vết   thương   ngoài   da.   Người  
Malaysia, Philipin dùng nước sắc vỏ  chữa lỵ, đau bụng, đi tiêu lỏng, bệnh  
vàng da. Ngoài ra, người ta còn dùng lá và vỏ cây măng cụt sắc lấy nước làm 
thuốc hạ nhiệt, điều trị bệnh tưa miệng ở trẻ em, nấm candida ở phụ nữ và rối 
loạn đường tiết niệu. Rễ cây măng cụt sắc lấy nước uống giúp điều hòa kinh 
nguyệt. Nước sắc vỏ quả cũng được dùng làm nước rửa âm đạo trong trường  

hợp bị bệnh bạch đới, khí hư[3].
Tinh dầu trích từ  vỏ  măng cụt được dùng để  chữa bệnh eczema (chàm 
bội nhiễm) và các rối loạn về da khác. 
Vỏ măng cụt đem sắc lấy nước uống còn chữa được viêm bàng quang, 
và dùng ngoài da để chữa bệnh lậu, ung nhọt. 
Theo Đông y, vỏ quả măng cụt có vị chua chát, tính bình, đi vào hai kinh 
phế  và đại tràng, có công năng thu liễn, sáp trường, chi huyết, dùng trị  tiêu 
chảy, ngộ  độc chất ăn, khi bệnh thuyên giảm thì thôi, dùng lâu sinh táo bón.  
Sau đây là một số bài thuốc từ quả măng cụt: chữa tiêu chảy, kiết lỵ, tiêu độc, 
chữa rối loạn tiêu hóa.
­  Lấy khoảng mười cái vỏ cho vào một nồi đất, đậy thật kín bằng một  
tàu lá chuối. Sau đó đun sôi cho đến khi nước có màu thật sẫm, uống mỗi ngày 
3­4 chén. 
­  Ở  vùng nóng người ta còn phối hợp với các vị  thuốc khác; bài 1: vỏ 
Măng cụt khô 60g, hạt Mùi 5g hạt  thìa là 5g đem sắc với 1200ml nước. Ðun sôi  
kỹ, còn lại 600ml chiết ra để uống, ngày hai lần, mỗi lần 120ml. Nếu  là người 
lớn, đau bụng, có thể  thêm thuốc phiện; bài 2: vỏ quả măng cụt (1 quả), rau 

14


sam, rau má, cỏ mực mỗi thứ 20 gam, cỏ sữa lá nhỏ (hoặc lớn), rễ cây mua mỗi  
thứ 8 g, cam thảo đất, vỏ quýt, gừng tươi mỗi vị 4 g, thêm 1 lít nước, sắc còn 
phân nửa, uống trong ngày.
­ Lấy một nắm vỏ khoảng 50g, đem cắt ra từng khoanh, cho vào nồi đất 
với hai bát nước, sắc như sắc thuốc, đun nhỏ lửa cho sôi từ 15­30 phút. Sau đó  
để  nước âm  ấm, chiết lấy nước uống làm nhiều lần, mỗi lần độ  1 ly nhỏ. 
Thuốc sắc ngày nào thì uống trong ngày đó, có thể thêm đường để uống và đỡ 
khát.
­ Lấy vỏ  quả măng cụt thái nhỏ, phơi khô, tẩm rượu, sao thơm rồi tán 

thành bột mịn. Khi ăn phải những thức ăn ôi thiu gây rối loạn tiêu hóa, ăn không 
tiêu, đi tả, nôn mửa... nên lấy ngay một thìa bột thuốc nói trên hòa với nước đun 
sôi, cho thêm ít muối trắng, uống ngay lúc nước còn nóng sẽ thấy đỡ.
1.3.2. Các hoạt tính sinh học của cây măng cụt (Garcinia mangostana L.) 
1.3.2.1. Hoạt tính chống oxy hóa [13,22,24, 26, 41]
Năm 1994, Yoshikawa và các cộng sự  thực hiện phương pháp dọn gốc  
2,2­diphenyl­1­picrylhydrazyl (DPPH) đối với phần chiết metanol từ  vỏ  quả 
măng cụt.  α  và  β  mangostin đã chỉ  ra hoạt tính chống oxy hóa thông qua sử 
dụng phương pháp sắt thiocyanat. Năm 1995, Williams và các cộng sự đã phát 
hiện ra α­mangostin làm giảm quá trình oxy hóa LDL (low density lipoproteins)  
đối với con người, được cảm ứng bởi đồng hay gốc peroxyl. Họ cũng phát hiện  
ra rằng α­mangostin, thứ  nhất là kéo dài thời gian chậm trế  của các đien liên 
hợp ở 234 nm theo liều lượng, thứ hai là giảm bớt quá trình sản xuất TBARS  
(thiobarbituric reactive substances), và thứ ba là làm giảm khả  năng tiêu thụ   α­
tocopherol,   được   cảm   ứng   bởi   sự   oxi   hóa   LDL.   Sau   đấy,   năm   2000,  
Mahabusarakam và các cộng sự  cũng nhận ra rằng α­mangostin và những dẫn 
xuất tổng hợp từ đó ngăn cản quá trình giảm mức tiêu thụ  α­tocopherol, được 

15


cảm ứng bởi sự oxy hóa LDL. Những tác giả này cũng nhận ra rằng sự thay đổi  
cấu trúc của α­mangostin cũng làm thay đổi hoạt tính chống oxy hóa. Cụ  thể,  
sự thay thế giữa C­3 và C­6 với dẫn xuất aminoethyl làm tăng hoạt tính; bất kỳ 
sự thay thế nào cùng với các nhóm metyl, axetat, propanediol hay nitrile đều khử 
hoạt tính chống oxy hóa.
Mặt khác, Leong và Shui (2002) đã so sánh toàn bộ khả năng chống oxy  
hóa của 27 loại trái cây có giá trị trên thị trường Singapo, bao gồm cả măng cụt,  
có sử dụng phép phân tích ABTS và DPPH; và họ chỉ ra rằng  các chất tách ra từ 
trái măng cụt có vị trí thứ 8 về hiệu quả chống oxy hóa.

Năm 2006, Weecharangsan và các cộng sự đã nghiên cứu hoạt tính chống 
oxy hóa và bảo vệ thần kinh của bốn phần chiết thu được từ vỏ trái măng cụt  
(bao gồm: nước, 50 % etanol, 95 % etanol, và etyl axetat). Khả năng chống oxy  
hóa được đánh giá dựa vào phương pháp DPPH sử dụng 1, 10, 50 và 100  μg/mL 
ở mỗi phần chiết. Phần chiết từ nước và etanol (50 %) chỉ ra khả năng chống 
oxy hóa cao (nồng độ ức chế theo thứ tự định sẵn ở 50 % (IC 50) là 34,98 ± 2,24 
và 30,76 ± 1,66  μg/mL). Khả  năng chống oxy hóa của những phần chiết này 
được kiểm nghiệm trên dòng tế bào ung thư ngoài sọ (neuroblastoma – NG108­
15) thông qua H2O2; cả 2 phần chiết đều bộc lộ tính bảo vệ thần kinh khi được  
sử dụng ở nồng độ 50 μg/mL. Phần chiết chứa 50 % etanol có tính bảo vệ thần 
kinh cao hơn phần chiết nước. Gần đây hơn, năm 2007, Chomnawang và các 
cộng sự đã chỉ  ra là cặn chiết etanol từ  măng cụt sở hữu hoạt tính chống oxy  
hóa đáng kể, được xác định thông qua sự   ức chế  về  thông tin của các gốc  
DPPH là 50 %. Phần tách ra này đã thể hiện chỉ số IC50 ở 6,13 μg/mL bằng cách 
so sánh với các cặn etanol của  Houttuynia cordata,  Eupatorium odoratum  và 
Senna alata  (theo thứ  tự  IC50  là 32,53, 67,55 và 112,46  μg/mL). Thêm vào đó, 
phần chiết từ trái măng cụt khử được đáng kể sản phẩm ROS (reactive oxygen  
species)   của   PML   (polymorphonuclear   leucocytes)   với   77,8   %   tỉ   lệ   ức   chế 

16


superoxide anion, theo thứ  tự  là 62,6 %, 44,9 % và 35,18 %. Cũng trong năm  
2007, Haruenkit và các cộng sự đã chỉ ra tính chống oxy hóa của măng cụt dựa 
vào phân tích DPPH và ABTS. Họ đã tìm ra chỉ tiêu của các chất tương đương 
trolox trên 100 g tính theo khối lượng tươi, theo các phân tích DPPH và ABTS 
lần lượt là 79,1 và 1268,6 μM. Bên cạnh đó, với các loài chuột được cho ăn theo 
khẩu phần ăn kiêng cơ bản bổ sung thêm 1% cholesterol cộng với 5%  măng cụt 
thì sự  tăng thể  huyết tương và sự  giảm tính chống oxy hóa được thấy rõ với  
việc ngăn cản mỗi cholesterol.

Năm 2004, Moongkarndi và các cộng sự  đã chỉ  ra rằng phần chiết từ 
măng   cụt   làm   giảm   hiệu   quả   quá   trình   sản   xuất   ROS   nội   bào,   thông   qua 
phương pháp DCFH­DA (2,7­dichlorofluorescein diacetate) trong dòng tế  bào 
SKBR3.
Năm 2008, Chin và các cộng sự đã nghiên cứu khả năng hoạt động loại  
bỏ  HO. của các xanthon tách ra từ  măng cụt. Trong số 16 xanthon được kiểm  
nghiệm chỉ có duy nhất γ­mangostin có khả năng này (IC50 0,2 μg/mL). Sau đó, 
họ  cũng kiểm tra các xanthon tương tự  thông qua quá trình cảm  ứng của khử 
quinone ( QR, phase II drug­metabolizing enzyme), thử nghiệm trên các tế  bào 
murine hepatoma. Tất cả các xanthon, ngoại trừ α­mangostin đều gây cảm ứng 
với hoạt động khử  QR. Nồng độ  làm gấp đôi giá trị  hoạt động cảm  ứng QR  
của các hợp chất trên lần lượt là: 1,3 μg/mL ( 1,2­dihydro­1,8,10­trihydroxy­2­
(2­hydroxypropan­2­yl)­9­(3­methylbut­2­enyl)furo[3,2­a]xanthen­11­one),   2,2 
μg/mL   (6­deoxy­7­demethylmangostanin),   0,68  μg/mL   (1,3,7­trihydroxy­2,8­di­
(3­methylbut­2­enyl)xanthon, 0,95 μg/mL (mangostanin).
1.3.2.2. Hoạt tính kháng ung thư 
 Rất nhiều nghiên cứu cho thấy xanthon trong vỏ măng cụt có hoạt tính 
chống ung thư[13,31]. Các loại dòng tế bào như: Dòng tế bào ung thư biểu mô 

17


gan, dòng tế bào ung thư vú ở người SKBR3 và dòng tế bào bạch cầu ở người 
được sử dụng.
Năm 2002, Ho và các cộng sự đã nhận ra rằng garcinone E gây hiệu quả 
độc tố tế bào rất mạnh mẽ trên dòng tế bào ung thư biểu mô gan. Họ đã nghiên  
cứu hiệu quả độc tố tế bào của 6 xanthon được tách ra từ vỏ quả măng cụt và  
nhận thấy rằng garcinone E là độc tố tốt nhất. Chính vì vậy, garcinone E được 
thử  nghiệm chống lại   các dòng tế  bào ung thư  gan HCC36, TONG, HA22T,  
Hep3B, HepG2 và SK­Hep­1; dòng tế bào ung thư phổi NCI­Hut 125, CH27 LC­

1, H2891 và Calu­1; dòng tế bào ung thư dạ dày AZ521, NUGC­3, KATO­III và  
AGS. Garcinone E đã tỏ rõ sự phân bố lớn về hiệu quả phụ thuộc liều lượng và 
thời gian độc tố tế bào chống lại các dòng tế bào ung thư khác nhau;  ngoại trừ 
tế bào ung thư phổi CH27 LC­1, tất cả các dòng tế bào được kiểm nghiệm đều 
bị tiêu diệt. Chỉ số về liều lượng gây chết người ở garcinone 50% (LD50) chống 
lại các dòng tế bào trên là khoảng từ 0,1–5,4 μM. Hiệu quả chống ung thư của  
garcinone E theo thứ  tự  là như  sau: SK­hep­1 > HA22T > HepG2 > Hep3B >  
HCC36.
Năm 2003, Matsumoto và các cộng sự  đã nghiên cứu  ảnh hưởng của 6 
xanthon (α,  β  và  γ­mangostin, mangostinone, garcinone E và 2­isoprenyl­1,7­
dihydroxyl­3­methoxy xanthon) được tách ra từ vỏ quả măng cụt  với khả năng  
ức chế sự phát triển tế bào của dòng tế bào mắc bệnh bạch cầu ở người HL60.  
Họ  đã khảo sát hiệu quả  độc tố  tế  bào 72h tính từ  sau khi  ủ  bệnh với các 
xanthon ở 5 hay 40 μM. Tất cả các xanthon đã chỉ ra hiệu quả ức chế hoàn toàn,  
nhưng  α,  β  và  γ­mangostin hiệu quả  hoàn toàn từ  10 μM trở  đi. Hợp chất có  
hàm lượng lớn nhất trong cặn là α­mangostin, đó cũng là chất có hoạt tính ức  
chế  cao nhất (IC50 10 μM). Sau này,  α­ mangostin được phát hiện ra là có cả 
hiệu quả  đối với các dòng tế  bào mắc bệnh bạch cầu khác: K562, NB4 và  
U937. Những dòng tế bào này thường bị α­ mangostin ức chế ở 5–10 μM.

18


×