Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu đa dạng sinh học của côn trùng nước ở Vườn Quốc gia Ba Vì, Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (979.76 KB, 81 trang )

MỞ ĐẦU
Côn trùng nước giữ  vai trò quan trọng trong hệ sinh thái các thủy vực cả 
nước đứng cũng như  nước chảy. Mỗi một môi trường thủy vực, nhóm sinh vật 
này đều có những đặc tính thích nghi phù hợp. So với nhiều nhóm sinh vật khác, 
côn trùng nước có nhiều đặc tính nổi trội như  số  lượng loài, số  lượng cá thể 
lớn…đặc biệt chúng là những mắt xích không thể thiếu trong chuỗi và lưới thức  
ăn. Các loài côn trùng nước là những sinh vật tiêu thụ bậc 1, bậc 2 đồng thời lại 
là nguồn thức ăn của nhiều loài động vật có xương sống. Nhiều loài côn trùng  
nước có quan hệ  mật thiết đối với con người. Một số  loài côn trùng nước gây 
hại là tác nhân truyền bệnh, tác nhân gây bệnh, tác nhân phá hoại sản phẩm công 
nghiệp,   nông   nghiệp…   Chính   vì   vậy   côn   trùng   nước   là   đối   tượng   quan   tâm 
nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trên thế giới. Ở Việt Nam, trong những năm 
gần đây côn trùng nước cũng đã được quan tâm nghiên cứu đặc biệt là  ở  các  
Vườn Quốc gia và các Khu bảo tồn thiên nhiên của Việt Nam, những nơi có hệ 
thống sông, suối phong phú, tiềm  ẩn tính đa dạng côn trùng nước. Vườn Quốc 
gia Ba Vì với hệ  động thực vật phong phú và đa dạng đã thu hút nhiều nghiên 
cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước, nhưng chưa có nhiều nghiên cứu 
về  côn trùng nước. Chính vì thế  chúng tôi tiến hành thực hiện đề  tài  “Nghiên 
cứu đa dạng sinh học của côn trùng nước ở Vườn Quốc gia Ba Vì, Hà Nội”, 
nhằm mục đích:
Xác định thành phần loài của côn trùng nước tại một số  hệ  thống suối 
thuộc Vườn Quốc gia Ba Vì, Hà Nội
Nghiên cứu đặc điểm của quần xã côn trùng nước: thành phần loài, mật  
độ cá thể, mức độ đa dạng dựa vào một số chỉ  số  đa dạng sinh học theo  
các dạng sinh cảnh.
.

1


CHƯƠNG 1­TỔNG QUAN TÀI LIỆU


1.1. Tình hình nghiên cứu côn trùng nước trên thế giới
Côn trùng nước bao gồm những loài côn trùng mà có một phần hoặc cả 
vòng đời sống trọng môi trường nước. Chính vì sự  đa dạng về  thành phần loài, 
hình thái cấu tạo và các đặc điểm thích nghi cùng với vai trò quan trong của  
chúng đối với hệ  sinh thái và đời sống con người mà côn trùng nước đã sớm  
được quan tâm nghiên cứu ở các nước phát triển. Đã có rất nhiều các công trình 
nghiên cứu liên quan đến từng bộ  của nhóm này, từ  những nghiên cứu về  phân 
loại học, tiến hoá, đến những nghiên cứu về  ứng dụng. Trong đó phân loại học 
côn trùng nước là vấn đề đã được nghiên cứu nhiều hơn cả.
Những nghiên cứu sớm nhất về  côn trùng nước  thường tập trung vào  
nhóm côn trùng gây hại, truyền bệnh như ruồi, muỗi (Resh và Rosenberg, 1979; 
Merritt và Cummins, 1984; Merritt và Newson, 1978; Kim và Merritt, 1987) [50].
Bên cạnh các nhóm côn trùng nước gây hại, vai trò của nhóm côn trùng  
nước với các hệ sinh thái cũng thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà khoa 
học. Phạm vi nghiên cứu côn trùng  nước ngày càng được mở  rộng, các hướng  
nghiên cứu không chỉ dừng lại ở việc mô tả, phân loại mà còn đi sâu nghiên cứu  
các đặc điểm sinh học, sinh thái như: biến động  quần thể  côn trùng, các mối 
quan hệ  dinh dưỡng, đáp  ứng yêu cầu của sinh thái học (Resh và Rosenberg,  
1984; Cummins, 1994) [50, 67]. Đặc biệt một hướng nghiên cứu mới về  côn 
trùng nước được mở  ra đó là sử  dụng côn trùng nước làm sinh vật chỉ  thị  chất 
lượng nước bắt đầu với các công trình nghiên cứu của Kuehne (1962), Bartsch và  
Ingram (1966), Wilhm và Dorris (1968) [86].
Đến cuối thế kỷ XX và đầu thế  kỷ  XXI, nhiều nhà khoa học đã công bố 
hàng loạt các công trình nghiên cứu về  côn trùng nước như: McCafferty W.P. 
(1983),   John   C.M.,   Yang   Lianfang   and   Tian   Lixin   (1994),   Merritt   R.   W.   and 

2


Cummins K. W. (1996),… Các nghiên cứu này đã đưa ra khóa định loại tới giống,  

thậm chí tới loài côn trùng nước dựa vào hình thái con trưởng thành và ấu trùng.  
Bên cạnh đó các tác giả  còn đề  cập đến một số  ứng dụng của chúng trong sinh 
thái học [50].
Qua các công trình nghiên cứu đã được công bố  từ  trước đến nay đã xác 
định được 9 bộ  côn trùng nước thường gặp là  Phù du (Ephemeroptera), Chuồn 
chuồn   (Odonata),   Cánh   úp   (Plecoptera),   Cánh   nửa   (Hemiptera),   Cánh   lông  
(Tricoptera),   Cánh   cứng   (Coleoptera),   Hai   cánh   (Diptera),   Cánh   rộng  
(Meganoptera) và Cánh vảy (Lepidoptera).
 Nghiên cứu về bộ Phù du (Ephemeroptera)
Bộ  Phù du (Ephemeroptera)  là  bộ  côn trùng có cánh cổ  sinh  tương đối 
nguyên thủy, thậm chí còn được xem như một trong những tổ tiên của côn trùng. 
Dựa vào những bằng chứng hóa thạch, chúng có thể  đã phát sinh vào giai đoạn 
cuối của kỷ  Cacbon và đầu kỷ  Pecmơ  trong đại Cổ  sinh, cách đây khoảng 290 
triệu năm (Edmund, 1972) [25]. Các loài thuộc bộ Phù du được mô tả từ rất sớm.  
Công trình nghiên cứu đầu tiên về phân loại học Phù du là của n hà tự nhiên học 
nổi tiếng Lineaus (1758). Ông đã mô tả 6 loài Phù du tìm thấy ở châu Âu và xếp  
chúng vào một nhóm là Ephemera [56].
Vào thế  kỷ  XIX, Eaton (1871, 1881, 1883­1888, 1892) đã công bố  hàng 
loạt các công trình nghiên cứu   Phù du của mình, các c ông trình đã cung cấp 
những kiến thức cơ  bản về  Phù du như: mô tả  các đặc điểm về  mặt hình thái 
của cả giai đoạn ấu trùng và trưởng thành, những kiến thức này rất hữu ích cho  
việc xây dựng khóa định loại đến các họ và giống của bộ Phù du [56]. 
Nghiên cứu về  Phù du thực sự  phát triển mạnh mẽ  vào thế  kỷ  XX, điển 
hình  là  các  công  trình nghiên cứu  của Ulmer  (1920,  1924,  1925,  1932,  1933),  
Navás   (1920,   1930),   Lestage   (1921,   1924,   1927,   1930),   Needham   và   cộng   sự 
(1935). Edmunds (1963) đã xây dựng hệ thống phân loại đến họ thuộc bộ Phù du 
trên toàn thế  giới. Ông đã đưa ra một bức tranh tổng thể về khóa phân loại bậc 

3



cao cũng như  nguồn gốc phát sinh của Phù du [24]. Tuy nhiên, cùng với sự  phát 
triển của các nghiên cứu về Phù du, hệ thống phân loại của ông ngày càng tỏ ra 
hạn chế. Mc Cafferty và Edmunds (1979), đã bổ  sung những dẫn liệu mới   và 
chỉnh lý khóa phân loại cho phù hợp với thực tế nghiên cứu đòi hỏi. Trong khóa  
định loại của Mc Cafferty và Edmunds ngoài việc mô tả  đặc điểm hình thái thì  
mối quan hệ họ hàng giữa các loài trong qúa trình tiến hóa cũng được các tác giả 
đề cập đến. Tiếp sau công trình nghiên cứu mang tính bước ngoặt này hệ thống 
phân loại Phù du ngày càng được hoàn chỉnh bởi các nghiên cứu của Kluge (1995,  
1998, 2004), Mc Cafferty (1991, 1997) và nhiều nhà nghiên cứu về  Phù du khác  
[50]. 
Trong   một   nghiên   cứu  gần   đây  Odgen   và   Whiting   (2005)   đã  tổng  hợp 
những nghiên cứu về phân loại học của Mc Cafferty và Edmunds đồng thời  đưa 
ra giả thuyết mới về nguồn gốc phát sinh của Phù du dựa trên những nghiên cứu 
về sinh học phân tử. [63]
Đến năm 2008, toàn thế  giới đã xác định được khoảng 3000 loài Phù du  
thuộc 375 giống và 37 họ trong đó ở  Châu Âu có khoảng 350 loài và Bắc Mỹ  là  
670 loài (Hubbard, 2008) [29]. Thành phần loài hay nói cách khác sự đa dạng về 
mức độ  loài của Phù du ở các họ thể hiện rất khác nhau, có những họ chỉ có một  
vài loài như  Teloganiella, Teloganidae... hay có những họ  có tới hàng trăm loài 
như Heptageniidae, Leptophlebiidae... Tuy nhiên những con số này chưa phản ánh 
hết mức độ  đa dạng của Phù du vì còn nhiều khu vực trên thế  giới vẫn chưa  
được khám  phá hết, nhất là các khu vực nhiệt đới.
Ở  với khu vực châu Á, những nghiên cứu đầu tiên về  Phù du được thực  
hiện bởi các nhà côn trùng học đến từ châu Âu như: Navás (1922, 1925), Lestage 
(1921, 1924)  [56].  Những  nghiên cứu này là cơ  sở  và nền tảng thúc đẩy việc  
nghiên cứu về Phù du ở khu vực. Các kết quả nghiên cứu đã cho thấy, ở châu Á  
có khoảng 128 giống thuộc 18 họ  của bộ  Phù du (Hubbard, 1990; McCaffrty, 
1991; McCaffrty & Wang, 1997, 2000; Dudgeon, 1999) [56]. 


4


Tại khu vực Đông Nam Á, các nghiên cứu về Phù du đã được khởi xướng 
bởi Ueno (1931, 1969) và Ulmer (1939). Các nhà nghiên cứu của Việt Nam và 
Thái Lan cũng đã công bố  khá nhiều công trình nghiên cứu về Phù du trong thời  
gian gần đây (Nguyen, 2003,  Nguyen and Bae, 2003, 2004,  Tungpairojwong và 
Bae, 2006; Tungpairojwong, 2007; Braasch Boonsoong, 2009) [56, 57, 58, 59, 60]. 
Cho đến nay, những nghiên cứu liên quan đến phân loại và hệ  thống học 
Phù du khá tỉ mỉ, các nhà khoa học đã xây dựng khoá phân loại chi tiết tới loài kể 
cả giai đoạn ấu trùng và trưởng thành. Hiện nay, hướng nghiên cứu tập trung vào  
các vấn đề sinh thái, phục hồi và bảo tồn các loài cũng như  các nghiên cứu ứng  
dụng của Phù du vào thực tiễn.
Neddham và cộng sự (1935), đã công bố các số liệu về vòng đời, quá trình  
lột xác chuyển từ đời sống dưới nước lên cạn, tập tính dinh dưỡng, tập tính sinh 
sản, biến động số lượng theo mùa... của nhiều loài Phù du. Các kết quả  nghiên 
cứu về  Địa động vật của Lestage (1930) cho thấy các loài thuộc bộ  Phù du  ưa  
sống  ở  những nơi nước chảy với hàm lượng oxy hòa tan trong nước cao,   bên  
cạnh đó cấu trúc nền đáy của các thủy vực giữ  vai trò quan trọng, quyết định 
đến thành phần loài Phù du. Nghiên cưu đã ch
́
ỉ ra rằng nhưng thuy v
̃
̉ ực nươc chay
́
̉  
ma ̀ở đo câu truc nên đay la cac khôi đa v
́ ́
́ ̀ ́ ̀ ́
́ ́ ới nhiêu kich th

̀ ́
ước khac nhau va co ch
́
̀ ́ ứa  
mun ba h
̀ ̃ ưu c
̃ ơ  thi thanh phân loai Phù du rât đa dang. Ngoai ra, cac yêu tô t
̀ ̀
̀
̀
́
̣
̀
́ ́ ́ ự 
nhiên khac nh
́ ư đô cao, đô che phu cua r
̣
̣
̉ ̉ ưng t
̀ ự nhiên, … cung anh h
̃ ̉
ưởng  đên s
́ ự  
phân bô cua Phù du [52].
́ ̉
 Brittain (2008) đã cung cấp những nghiên cứu bước đầu 
về  ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đối với sự  phân bố  và đa dạng của bộ  Phù 
du [37]. 
Vê khia canh 
̀ ́ ̣ ưng dung, cac nghiên c

́
̣
́
ứu  ưng dung cua Phù du hiên nay tâp
́
̣
̉
̣
̣  
trung vao viêc s
̀
̣ ử  dụng Phù du lam sinh vât chi thi môi tr
̀
̣
̉ ̣
ương n
̀
ước. Landa và  
Soldan (1991), Bufagni (1997) khi nghiên cưu khia canh nay, cho r
́
́ ̣
̀
ằng việc sử 
dụng Phù du làm sinh vật chỉ thị dễ thực hiện và có nhiều ưu điểm. Hai ưu điêm
̉  
nôi bât la: th
̉
̣ ̀ ứ nhât có nhi
́
ều công trình nghiên cứu phân loại đã được thực hiện,  


5


nên việc định loại tới loài dễ  dàng hơn. Thứ  hai là hầu hết các loài Phù du rất  
nhạy cảm với sự  biến đổi của môi trường nên sự  việc sử  dụng chúng làm sinh 
vật chỉ thị sẽ cho những kết quả đáng tin cậy [56]. 

 

 Nghiên cứu về bộ Chuồn chuồn (Odonata)
Các nghiên cứu về Chuồn chuồn được bắt đầu từ  khoảng cuối thế kỉ 19,  
nhưng phải sang thế  kỉ 20 Chuồn chuồn mới ngày càng nhận được chú ý nhiều  
hơn của các nhà nghiên cứu phân loại học và sinh thái học. Ở giai đoạn đầu , các 
công trình nghiên cứu về  Chuồn chuồn chủ  yếu tập trung mô tả  hình dạng và 
đặc điểm ngoài các loài Chuồn chuồn thu thập được ở châu Á và châu Âu nhằm 
xây   dựng   khóa   định   loại.   Điển   hình   cho   các   công   trình   nghiên   cứu   này   là: 
Needham (1930), Fraser (1933, 1934, 1936), Askew (1988), Zhao (1990), Hisore & 
Itoh (1993), Wilson (1955). Merritt và Cummins (1996), xây dựng khóa định loại 
tới giống ở cả giai đoạn thiếu trùng và trưởng thành bộ Chuồn chuồn thuộc khu 
vực Bắc Mỹ [50].
Bộ chuồn chuồn được chia thành 3 phân bộ: phân bộ Anisozygoptera, phân 
bộ  Zygoptera  (Chuồn chuồn kim) và phân bộ  Anisoptera (Chuồn chuồn ngô).  
Phân bộ  Anisozygoptera chỉ có 1 giống là Epiophlebia, giống này có một số  loài 
chỉ phân bố ở độ cao khoảng 2.000m ở những con suối thuộc Nhật Bản và vùng  
núi cao Himalaya (Tani & Miyatake, 1979; Kumar & Khanna, 1983). Hai phân bộ 
còn lại phân bố rộng cả ở nơi nước đứng cũng như nước chảy với số lượng loài 
phong phú [52]. Đến năm 2008 trên thế giới đã xác định được hơn khoảng 6000  
loài thuộc hơn 600 giống của bộ Chuồn chuồn (Trueman and Rowe, 2008) [85]. 
Khu hệ Chuồn chuồn Bắc Mỹ đã xác định được  khoảng 462 loài. Những 

nghiên cứu đầu tiên về phân loại học Chuồn chuồn Bắc Mỹ được thực hiện bởi  
Muttkowski (1910), Needham và Heywood (1929),   phần lớn các loài gần đây 
được mô tả đều thuộc họ Gomphidae là họ có số lượng loài lớn và đa dạng nhất 
trong bộ Chuồn chuồn [50].

6


Ở  khu vực châu Á, Chowdhury và Akhteruzzaman (1981) là những người 
đầu tiên công bố  công trình nghiên cứu về  Chuồn chuồn  ở Bangladesh . Hai ông 
đã mô tả chi tiết các ấu trùng của 13 loài Chuồn chuồn thuộc bộ phụ Anisoptera.  
Ngoài ra còn một số công trình điển hình khác như: Nasiruddin và Begum (1985), 
Asahina (1993), Subramanian (2005).  Ở  Việt Nam phải kể   đến các công trình 
nghiên cứu  về  Chuồn  chuồn  của  Asahina   (1969,  1996),  Karube  (1999,   2002),  
Hoàng Đức Huy (2001), Đỗ Mạnh Cương (2003) [1, 4]. 
Ngoài các công trình nghiên cứu về phân loại học còn có những công trình 
nghiên cứu về  sinh học, sinh thái học và tập tính của  Chuồn chuồn. Một trong  
những nghiên cứu tiêu biểu là của Corbet (1999) về  tập tính và sinh thái của 
Chuồn chuồn trên thế  giới, trong đó tác giả  đã trình bày rất đầy đủ  về  các đặc 
điểm sinh học của Chuồn chuồn như chu kỳ sống, tập tính bắt cặp giao phối, săn 
mồi, lựa chọn môi trường sống…Silsby (2001) đã tổng hợp rất nhiều nghiên cứu 
trước đây để  tạo nên một công trình khá hoàn chỉnh về  các đặc điểm sinh học  
của Chuồn chuồn đặc biệt là về  chu trình sống, tập tính sinh sản hay sự  di cư 
của loài [4]. 
Nghiên cứu về bộ Cánh úp (Plecoptera)
Cho đến năm 2007 trên thế giới đã xác định được khoảng 3500 loài Cánh  
úp, trong đó : khu vực Bắc Mỹ có khoảng 650 loài (Stark & Baumann, 2005), khu  
vực Trung Mỹ 95 loài, khu vực Nam Mỹ 378 loài (Heckman, 2003), khu vực Châu 
Âu 426 loài (Fochetti & Tierno de Figueroa, 2004), khu vực Châu phi 126 loài ;  
Châu Á là khu vực có số lượng loài phong phú nhất với số loài đã xác định được  

lên tới 1527 loài trong đó: khu vực Đông Á và Nam Á có khoảng 784 loài, Trung 
Quốc đứng đầu với 350 loài (Yuzhou & Junhua, 2001), tiếp đó là Nhật Bản với 
306 loài (Sivec & Yang 2001); Tây Á có 114 loài và Bắc Á với 279 loài. Khu vực  
Australia  có 191 loài (Michaelis & Yule, 1988) và New Zealand với 104 loài [68].

7


Khi so sánh với nghiên cứu của Hynes (1976) và Zwick (1980) (nghiên cứu 
đã cung cấp thông tin về 2000 loài Cánh úp trên thế giới) có thể  thấy là tổng số 
loài Cánh úp đã tăng lên đáng kể trong vòng 25 năm trở lại đây [68].
Khu vực Bắc Mỹ  và Châu Âu là hai khu vực đã được nghiên cứu nhiều 
hơn cả. Tuy nhiên tỷ lệ loài mới được mô tả ở 2 khu vực này vẫn khá cao: trung 
bình mỗi năm có 2,6 loài Cánh úp mới được mô tả ở khu vực Châu Âu (Fochetti  
&   Tierno   de   Figueroa,   2005).   Ngoài   ra   khu   hệ   Cánh   úp   ở   Australia   và   New  
Zealand cũng đã được nghiên cứu khá đầy đủ, trong khi đó những dẫn liệu về 
Cánh úp ở Trung và Nam Mỹ còn rất nghèo nàn và chưa đủ để đại diện cho mức  
độ đa dạng thật sự ở các khu vực này. Châu Á được đánh giá là có mức độ phong  
phú của bộ  Cánh úp cao hơn nhiều so với khu vực Bắc Mỹ  và Châu Âu. Tuy 
nhiên trên thực tế ngoại trừ Nhật Bản và Nga, những dẫn liệu về Cánh úp ở khu 
vực này còn rất sơ sài, thậm chí có những nước chưa hề  có bất cứ  một nghiên  
cứu nào về bộ này [68]. 
Khu hệ Cánh úp ở châu Á được nghiên cứu bởi những  nhà khoa học châu 
Á và châu Âu. Trong suốt những thập niên 30 của thế  kỷ  XX, Wu và Claassen  
(1934, 1935, 1937, 1938) đã mô tả  khóa định loại Cánh úp  ở  miền Nam Trung  
Quốc. Kawai (1961 ­ 1975) nghiên cứu một vài loài  ở   Ấn Độ, Bangladesh đến 
phía Nam châu Á. Zwick và Sivec (1980) mô tả một số loài Cánh úp ở Himalaya.  
Vào thập niên 80 của thế  kỷ  XX, Zwick (1980, 1983, 1985, 1988) cũng đưa ra  
những nghiên cứu về khu hệ Cánh úp ở Đông Nam Á. Uchida và cộng sự (1988, 
1989) mô tả một vài loài thuộc Perlinae (Perlidae) ở Malaysia, Thái Lan và mô tả 

2 giống  thuộc Peltoperlidae (Cryptoperla và Yoraperla) ở Nhật Bản và Đài Loan. 
Stark   (1979,   1987,   1983,   1991,   1999)   đã   ghi   nhận   nhiều   loài   mới   trong   họ 
Peltoperlidae và Perlidae  ở  châu Á. Gần đây, Du (1998, 1999, 2000) đã công bố 
những tài liệu liên quan đến Perlidae ở miền Nam Trung Quốc [17].
Morse   J.   C.,   Yang   Lianfang   &   Tian   Lixin   (1994);   Merritt   &   Cummins 
(1996) khi nghiên cứu khu hệ Cánh úp ở Trung Quốc và Bắc Mỹ, các tác giả đã 

8


xây dựng khóa định loại tới giống ấu trùng của bộ này, đó là cơ sở cho việc định 
loại các loài thuộc bộ Cánh úp ở Trung Quốc và Bắc Mỹ sau này [50,52]. 
Cánh úp đóng vai trò quan trọng đối với hệ sinh thái suối, chúng đóng vai 
trò là sinh vật tiêu thụ bậc 1, 2 đồng thời cũng là thức ăn của nhiều loài động vật 
không xương sống và cá; thiếu trùng bộ Cánh úp còn được sử dụng như là những 
chỉ thị sinh học để đánh giá chất lượng môi trường nước, thêm vào đó côn trùng  
của bộ  Cánh úp hầu như  không gây hại đối với đời sống con người. Tuy nhiên  
do sự  suy giảm chất lượng nguồn nước và sự  thay đổi về  mặt vật lý của sông 
suối đặc biệt là ở các nước công nghiệp phát triển  hay các nước có mật độ  dân 
số cao đã và đang làm giảm số lượng loài Cánh úp [68]. 
 Nghiên cứu về bộ Cánh nửa (Hemiptera)
Côn trùng nước bộ  Cánh nửa phân bố  rộng rãi  ở  hầu hết các lục địa trừ 
Nam Cực, chúng bao gồm 2 nhóm chính là: Gerromorpha (nhóm sống trên màng 
nước) và Nepomorpha (nhóm sống dưới nước). Ngoài ra còn có một nhóm nữa là 
Leptopodomorpha, tuy không sống ở môi trường nước nhưng kiếm ăn, bắt mồi ở 
gần bờ  nước. Một số  tác giả  cũng tính nhóm này vào nhóm sống  ở  nước [65]. 
Năm 2008, thế giới xác định được 4.810 loài, 343 giống và 23 họ thuộc bộ Cánh  
nửa trong đó bao gồm 4.656 loài, 326 giống, 20 họ sống ở nước ngọt [65]. 
Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu bộ  Hemiptera  ở nước về 
hình thái, sinh học, sinh thái, phân loại và chủng loại phát sinh như: Cheng và  

Fernando   (1969),   Menke   (1979),   Andersen   (1985),   Schuh   và   Slater   (1995), 
Hilsenwoff (1991) [87]. 
Ở Châu Á, các công trình nghiên cứu về bộ Hemiptera được bắt đầu khá  
sớm bằng các nghiên cứu của Lundblad (1933), La Rivers (1970), Lansbury (1972,  
1973) [47]. Bộ  Hemiptera cũng được quan tâm nghiên cứu  ở  nhiều nước như 
Trung   Quốc,   Thái   Lan,   Malaysia,   Singapore…  Ở   Trung   Quốc,   từ   những   năm 
1920­1930,   Hoffmann   đã   công   bố   nhiều   nghiên   cứu   phân   loại,   sinh   học   của 
Hemiptera ở nước [47]. Ở Đông Á và Đông Nam Á, Esaki (trong giai đoạn 1923­

9


1930) đã mô tả nhiều loài thuộc bộ Hemiptera ở khu vực này và các vùng lân cận, 
đưa thêm vào bậc phân loại cao hơn mà ngày nay vẫn được tiếp tục nghiên cứu.  
Lundblad (1933) đưa ra tổng quan chung về bộ Hemiptera  ở nước, với danh lục  
những loài từ   Ấn Độ  đến New Guinea và Nhật Bản [65].  Ở  bán đảo Malaysia,  
Fernando và Cheng (1974) đã lập một danh lục gồm 102 loài thuộc 12 họ. Sau đó, 
nhiều loài khác vẫn được miêu tả hoặc ghi nhận. Hiện tại, bán đảo Malaysia và 
Singapore có 167 loài nước ngọt thuộc 64 giống, 18 họ được biết đến. Bộ Cánh  
nửa ở Borneo bao gồm khoảng 80 loài đặc hữu [87]. Gần đây Tran và Polhemus 
D. A. (2012), đã mô tả 1 loài mới thuộc giống Ranatra (Nepidae) ở khu vực Đông 
Nam Á [83].
Cùng với việc nghiên cứu về phân loại học, nhiều nhà khoa học cũng quan  
tâm đến việc nghiên cứu các lĩnh vực sinh thái học, địa lý sinh vật, chủng loại  
phát sinh, tập tính hay sự  thích nghi của Cánh nửa  ở  nước. Có thể  kể  đến công 
trình nghiên cứu của Cobben (1968, 1978), Andersen (1982), Damgaard (2008).  
Cheng (1965,1966,1976) đã công bố một số bài báo về sinh thái và địa lý sinh vật 
của giống  Halobates. Những nghiên cứu về  vai trò của bộ  Cánh nửa trong hệ 
sinh thái cũng được quan tâm bởi các nhà khoa học như Keffer (2000), Spence và  
Andersen (2000), Sites (2000), Yang et al. (2004), Chen et al. (2005)...[87]. 


Nghiên cứu về bộ Cánh lông (Trichoptera)
Cánh lông là  một trong những bộ  có số  lượng  loài phong phú.  Những  
nghiên cứu về hệ thống phân loại bậc cao của bộ Cánh lông được thực hiện bởi 
Ross (1956, 1967) và sau đó tiếp tục được bổ  sung và hoàn thiện bởi Morse 
(1997) [27]. 

10


Đến năm 2012 ước tính trên thế giới có khoảng  14.548 loài, 616 giống và 
49 họ còn tồn tại và 685 loài thuộc 125 giống và 12 họ đã hóa thạch của bộ Cánh  
lông [31].  
Ở  Đông Nam Á,  bộ  Cánh lông được nghiên cứu từ  rất sớm bởi Ulmer 
(1911, 1915, 1925, 1927, 1930, 1932) và Navás (1913, 1917, 1922, 1930, 1932). 
Trong khi các hướng nghiên cứu chủ  yếu dựa vào giai đoạn trưởng thành thì 
Ulmer đã mở  ra hướng nghiên cứu dựa vào giai đoạn  ấu trùng vào những năm  
1955 và 1957 [27]. Trong giai đoạn này, việc nghiên cứu về  Cánh lông  ở  các 
nước Châu Á cũng bắt đầu được chú trọng, Ulmer (1905 ­ 1951, 1955, 1957), 
Malicky (1955), Morse (2009); Banks (1937) là người đầu tiên nghiên cứu khu hệ 
Cánh lông Philippin. Đặc biệt trong những năm gần đây, có hàng loạt các công 
trình nghiên cứu mới về Cánh lông được công bố: Malicky (2007) đã liệt kê 327  
loài và chứng minh sự  đa dạng của Cánh lông trên đảo Sumatra cao hơn so với 
các khu vực khác xung quanh đại lục Indonesia; Johason và Oláh (2008) đã công  
bố  7 loài mới thuộc giống Tinodes (Psychomyiidae) cho khu hệ Cánh lông Đông 
Nam Á và 1 loài mới từ Hồng Kông [35].
 Năm 2009, Sharma và Chandra đã cung cấp một danh sách gồm 1046 loài, 
94 giống, 27 họ  của khu hệ  Cánh lông  ở   Ấn Độ. Các nghiên cứu về  Cánh lông 
cũng được quan tâm  ở  một số  quốc gia khác như  Nhật Bản với những nghiên  
cứu của Iwata (1927), Tanida (1986, 1987), Ito và Ohkawa (2012); Trung Quốc  

(Martynov,   1930,   1931;  Wang,   1963),   Thái  Lan  (Chantaramongkol  và   Malicky, 
1989,   1991,   1992,   1993a,   1993b,   1995,   1997; Radomsuk,  1999;  Sangpradub  và 
cộng   sự,   1999;   Malicky   và   cộng   sự,   2001,   2002;   Chaiyapa,   2001)   [27]...   Tuy  
nhiên, do còn nhiều hạn chế  về  định loại  ấu trùng tới giống và loài nên các 
nghiên cứu  ở Đông Nam Á mới chỉ dừng lại ở giai đoạn trưởng thành. Các khóa  
định loại của bộ  Cánh lông  ở  Đông Dương (Lào, Campuchia và Việt Nam) dựa  
trên   những   nghiên   cứu   của   tác   giả   Wallace   và   cộng   sự   (1990),   Edington   và 
Hildrew (1995) và Wiggins (1996) [27].

11


Olash và Johanson (2010) đã công bố 19 loài mới thuộc họ Dipseudopsidae 
cho khoa học từ  các mẫu vật thu được tại  Ấn Độ, Malaysia, Lào và Việt Nam.  
Tại Nhật Bản, tác giả  Ito và Ohakawa (2012) đã ghi nhận sự xuất hiện lần đầu 
của   hai   loài   Cánh   lông   thuộc   giống  Ugandatrichia  (Hydroptilidae)   kèm   theo 
những miêu tả chi tiết cho giai đoạn ấu trùng, nhộng và trưởng thành của các loài  
thuộc giống này tại đây [30]. 
Bên cạnh những nghiên cứu về phân loại học, những nghiên cứu về  sinh 
thái và đặc điểm sinh học của bộ Cánh lông cũng được đặc biệt chú ý tiêu biểu  
là các công trình của Haris, Mackay và Wiggins vào những năm 70 của thế  kỉ 
trước. Một số  công trình khá đồ  sộ  liên quan đến giai đoạn  ấu trùng côn trùng 
của Wiggins (1969, 1978, 1985, 1986) trong  đó có  ấu trùng Cánh lông (1977,  
1982, 1984). Năm 2009,  Morse đã công bố  một danh sách đầy đủ  các loài cũng 
như phân bố địa lý sinh vật của bộ Cánh lông trên toàn thế giới và tiếp tục được 
cập nhật cho tới hiện nay [27].
 Nghiên cứu về bộ Cánh cứng (Coleoptera)
Bộ  Cánh cứng (Coleoptera) là bộ  có số  lượng loài lớn nhất trong giới  
Động   vật.   Hiện   nay,   số   loài   thuộc   bộ   côn   trùng   này   vào   khoảng   277.000   ­ 
350.000 loài và khoảng 18.000 loài trong số đó thuộc nhóm côn trùng nước  [32]. 

Hiện nay, các công trình nghiên cứu về  bộ  Cánh cứng tập trung vào phân loại  
học,   sinh   thái   học,   tiến   hóa   như:   các   nghiên   cứu   của   Feng   (1932,   1933),  
Gschwendtner   (1932),   Fernando   (1962,   1969),   Nertrand   (1973),   Jach   (1984). 
Heinrich & Balke (1997), Gentuli (1995), Jach & Ji (1995, 1998, 2003)   đã cung 
cấp khá đầy đủ  những dẫn liệu về  phân loại học của bộ  Cánh cứng  ở  châu Á 
[52].
Wu và cộng sự đã xác định ở Trung Quốc có 601 loài, Sato (1988) đã định  
loại được 311 loài ở Nhật Bản, Britton (1970) xác định ở Úc có khoảng 510 loài  
và White (1984) đã phân loại được 1.143 loài ở khu vực Bắc Mỹ thuộc bộ Cánh  
cứng [50]. 

12


Những nghiên cứu mới đây có thể  kể  đến như  Čiampor Jr và cộng sự 
(2012)  đã   cung  cấp  những  thông  tin  về   các   loài   thuộc   giống   Dryopomorphus 
(Elmidae)  ở  khu vực Malaysia. Short và Jia (2012) đã bổ  sung 2 loài mới của 
giống Oocyclus là Oocyclus fikaceki Short và Jia và O. dinghu Short và Jia cho khu 
hệ Cánh cứng Châu Á từ các mẫu vật thu được ở đông nam Trung Quốc [69]. 
Mặc dù là  nhóm côn trùng nước có số loài rất phong phú tuy nhiên con số 
này chỉ  là một phần nhỏ  tổng số  loài của bộ  cánh cứng vì thế  các công trình  
nghiên cứu về bộ Cánh cứng ở nước thường ít được quan tâm hơn các loài Cánh  
cứng trên cạn. 
Nghiên cứu về bộ Hai cánh (Diptera)
Bộ Hai cánh là một trong những bộ côn trùng có số lượng loài nhiều nhất 
trong giới Động vật với khoảng 120.000 loài sống  ở  nước được biết trên thế 
giới, chúng phân bố  rông rãi  ở  hầu hết các dạng thủy vực. Đây là một trong  
những bộ côn trùng nước thu hút sự  quan tâm đặc biệt của các nhà khoa học do 
mối liên hệ chặt chẽ của chúng với con người.
 Đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về bộ Hai cánh được công bố 

trên toàn thế  giới, trong đó tiêu biểu là các công trình nghiên cứu của Alexander 
(1931), Mayer (1934), Zwich & Hortle (1989). Đối với khu vực châu Á, Delfinado  
& Hardy (1973, 1975, 1977) đã tổng hợp một danh lục khá đầy đủ về thành phần  
loài của bộ  Hai cánh  ở  miền  Ấn Độ  ­ Mã Lai. Khóa định loại tới họ  và giống 
hiện nay chủ yếu thực hiện theo khóa định loại được xây dựng bởi Harris (1990). 
Do nhiều loài thuộc bộ  này là vật chủ  trung gian truyền bệnh cho người và gia  
súc nên những đặc điểm về  sinh thái học của bộ  này đã được quan tâm nghiên 
cứu từ sớm (50). 
Trong những năm gần đây, xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu liên 
quan đến việc sử dụng ấu trùng bộ Hai cánh đặc biệt là họ Chironomidae như là  
sinh vật chỉ thị chất lượng môi trường nước [52].
Nghiên cứu về bộ Cánh rộng (Megaloptera)

13


Bộ  Cánh rộng được xem là nhóm côn trùng nguyên thủy trong nhóm côn 
trùng biến thái hoàn toàn. Hiện nay, bộ Cánh rộng có khoảng 300 loài được biết 
trên thế  giới và chia thành hai họ  là: Corydalidae và Sialidae. Giai đoạn trưởng  
thành  ở  cạn và ăn thịt, thường hoạt động vào ban đêm, tuy nhiên giai đoạn  ấu 
trùng lại sống dưới nước và ăn thịt các loài động vật [50]. 
Ấu trùng của bộ  Cánh rộng thường phân bố   ở  các thủy vực nước ngọt  
như: sông, suối, hồ  nơi có nhiều mùn, các mảnh vụn, cát hoặc sỏi nhỏ. Chúng  
trải qua 5 lần lột xác và sống được khoảng 1 năm trong vòng đời của mình. Ấu  
trùng rời khỏi các thủy vực nước ngọt và hóa nhộng [22]. 
Trong   khi   họ   Corydalidae     có   phân   bố   khá   rộng   thì   các   loài   thuộc   họ 
Sialidae này lại phân bố rất hẹp, ở châu Á, họ này mới chỉ phân bố ở vùng ôn đới  
thuộc Hàn Quốc, Nhật Bản và một số nơi ở Trung Quốc (Bank, 1940) [50].
Nghiên cứu về bộ Cánh vảy (Lepidoptera)
Bộ cánh vảy là một trong những bộ côn trùng có số loài lớn nhất trên thế 

giới, tuy nhiên chỉ  có một số  loài thuộc họ  Pyralidae, Pyraustidae và Crambidae 
sống  ở  nước. Giai đoạn trưởng thành của bộ  này đã được nghiên cứu từ  lâu và  
rất nhiều công trình đã được công bố  cùng với các khóa phân loại  đến loài. 
Nhưng ở giai đoạn ấu trùng, chỉ có một số công trình nghiên cứu, tiêu biểu là của  
Merrit và Cummins (1984), Morse, Yang và Tian (1994) đã đưa ra khóa định loại 
đến giống của ấu trùng bộ Cánh vảy [52].
Ở  châu Á, các nghiên cứu về  Lepidoptera chủ  yếu là về  phân loại học 
trong đó có các nghiên cứu của Rose & Pajni (1987), Habeck & Solis (1994) và 
Munroe (1995). Trong các nghiên cứu này, các tác giả cũng đã thành lập khóa định 
loại cụ thể tới loài [50].
1.2. Tình hình nghiên cứu côn trùng nước ở Việt Nam
Vấn đề nghiên cứu côn trùng nước ở Việt Nam đã được một số tác giả đề 
cập đến, các công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung vào vào lĩnh vực phân loại 

14


học đối với các bộ côn trùng nước phổ biến, bên cạnh đó còn có các nghiên cứu 
về  sử  dụng côn trùng nước làm sinh vật chỉ  thị  chất lượng môi trường nước.  
Dưới đây là một số kết quả nghiên cứu chính về côn trùng nước ở Việt Nam cho  
đến giai đoạn hiện nay. 
Nghiên cứu về bộ Phù du (Ephemeroptera)
Những nghiên cứu đầu tiên về  Phù du  ở  Việt Nam được thực hiện vào 
đầu thế kỉ XX với các nhà khoa học nước ngoài. Mở  đâu là nghiên c
̀
ứu của nhà 
côn trung hoc Lestage (1921, 1924), ông đa mô t
̀
̣
̃

ả một loài mới của bộ Phù du cho  
khoa học, dựa vào mẫu vật được lưu giữ   ở  bảo tàng Pari (mẫu vật thu được ở 
miền Bắc Việt Nam). Tiếp đó, Navas (1922, 1925) đã công bố hai loài Ephemera 
longiventris và Ephemera innotata, cũng dựa trên cac m
́ ẫu vật thu được  ở  miền 
Bắc Việt Nam [56]. 
Đặng Ngọc Thanh (1980), xác định khu hệ  Phù du   ở  Bắc Việt Nam bao 
gồm 54 loài, 29 giống thuộc 13 họ  khác nhau. Tuy nhiên trong số  này chỉ  có 13  
loài là được định tên đầy đủ, số  còn lại chỉ   ở  mức độ  giống. Trong nghiên cứu 
này đã mô tả  hai loài cho khoa học đó là   Thalerosphyrus vietnamensis  Dang và 
Neopheieridae cuaraoensis Dang [56].
Braasch and Soldan (1984, 1986, 1988)  đã mô tả  10 loài mới thuộc họ 
Heptageniidae cho khu hệ  Phù du  ở  Việt Nam, có 2 giống mới là  Asionurus  và 
Trichogeniella [56].
Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự  (2001), khi xây dựng khoá định loại các 
nhóm động vật không xương sống nước ngọt thường gặp ở Việt Nam đã đưa ra 
khoá định loại tới họ ấu trùng Phù du. Kết quả của công trình này là cơ sở khoa  
học cho các nghiên cứu phân loại về  Phù du cũng như  việc sử  dụng đối tượng 
này là sinh vật chỉ thị cho các thuỷ vực nước ngọt ở Việt Nam [5].
Nguyễn Văn Vịnh (2003), đã xác định được 102 loài thuộc 50 giống và 14  
họ  Phù du  ở  Việt Nam. Trong đó, có 23 loài đã được biết đến trong các nghiên  
cứu trước, 30 loài lần đầu tiên được ghi  nhận ở Việt Nam, 37 loài mới cho khoa 

15


học và 12 loài dự  đoán là loài mới cho Việt Nam. Trong nghiên cứu này, tác giả 
đã xây dựng khóa định loại và mô tả  đặc điểm hình dạng ngoài của các loài 
thuộc bộ Phù du ở Việt Nam, nghiên cứu này là cơ sở để phục vụ cho các hướng  
nghiên cứu tiếp theo về bộ Phù du ở nước ta [56].

Những nghiên cứu gần đây về bộ Phù du chủ yếu tập trung nghiên cứu đa 
dạng thành phần loài của bộ này  ở  các Vườn Quốc gia (VQG). Cụ thể   Nguyễn 
Văn Vịnh (2004), khi nghiên cứu về Phù du  ở  VQG Tam Đảo đã xác định được  
32 loài thuộc  24 giống và 8 họ. Trong đó, có 10 loài lần đầu tiên ghi nhận cho  
khu hệ động vật Việt Nam cũng như VQG Tam Đảo, Vĩnh Phúc [9]; 
Nguyễn Văn Vịnh (2005), trong dẫn liệu bước đầu về  Phù du ở  VQG Ba 
Vì, Hà Tây, đã xác định được 27 loài thuộc 22 giống và 9 họ, trong đó, có một 
loài mới cho khoa học là Polyplocia orientalis [10]; Cũng trong thời gian này, khi 
điều tra thành phần loài Phù du ở một số suối tại Sapa, Lào Cai, tác giả cũng đã 
xác định được 53 loài thuộc  31 giống và 11 họ. Kết quả đã công bố được 4 loài  
mới cho khoa học dựa vào các mẫu chuẩn thu được tại Sapa, đó là:  Isca fasica 
Nguyen and Bae, 2003; Rhoenanthus sapa Nguyen and Bae, 2004; Afronurus meo,  
Nguyen and Bae, 2003; Iron longintibius, Nguyen and Bae, 2004. Đồng thời, xác 
định được 10 loài lần đầu tiên ghi nhận cho khu hệ động vật  của Việt Nam [11]. 
Nguyễn Văn Vịnh và cộng sự  (2007), trong kết quả  bước đầu điều tra  
thành phần loài Phù du tại VQG Bi Doup ­ Núi Bà, tỉnh Lâm Đồng, đã xác định  
được 48 loài thuộc  30 giống và 7 họ [54]. 
Nguyễn Văn Vịnh và Nguyễn Thị  Minh Huệ (2008), trong nghiên cứu về 
thành phần loài của  bộ  Phù du (Ephemeroptera)  ở  VQG Bạch Mã, Thừa Thiên 
Huế,  đã xác định được 56 loài thuộc   33 giống và 11 họ  đồng thời các tác giả 
cũng nhận xét về sự phân bố của bộ Phù du theo độ  cao tại khu vực nghiên cứu 
[12]. 
So với nhiều bộ  côn trùng nước khác, bộ  Phù du  ở  Việt Nam đã được  
nghiên cứu một cách có hệ thống với nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả 

16


trong và ngoài nước, đồng thời đây cũng là bộ  có khóa định loại của  ấu trùng 
tương đối hoàn thiện.

Nghiên cứu về bộ Chuồn chuồn (Odonata)
Nhìn chung những nghiên cứu về  khu hệ  Chuồn chuồn  ở  Việt Nam còn 
tản mạn và chưa thành hệ thống, các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào giai đoạn  
trưởng thành của Chuồn chuồn. Bộ Chuồn chuồn  ở Việt Nam được nghiên cứu  
lần đầu tiên vào những năm đầu thập niên 90 của thế  kỷ  XX dưới thời Pháp 
thuộc bởi một số nhà nghiên cứu người Pháp: Martin trong báo cáo được công bố 
năm 1902 khi điều tra khu hệ  động vật Đông Dương. Trong báo cáo này, ông 
công bố  139 loài thuộc 3 họ: Libellulidae, Aeshnidae và Agrionidae. Trong 139  
loài, Martin đã mô tả 9 loài mới và một giống mới là Merogomphus [1].
Asahina ­ thuộc bảo tàng Tự nhiên Tokyo (Nhật Bản) là một trong những 
người tiên phong nghiên cứu khu hệ  Chuồn chuồn  ở  Việt Nam. Asahina (1996)  
đã công bố  84 loài thuộc 12 họ Chuồn chuồn  ở  miền Nam Việt Nam. Trong tài 
liệu này, tác giả  đã công bố  một loài mới:  Chlogomphus vietnamensis  Asahina, 
thuộc họ Cordulegasteridae [4]. 
Karube   (1999)   đã   công   bố   một   loài   mới   trên   tạp   chí   Odonatologica  là 
Planaeschna cucphuongensis thuộc họ  Aeshidae. Mẫu vật của loài này được thu 
thập ở VQG Cúc Phương, tỉnh Ninh Bình [4].
Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự  (2001), khi xây dựng khóa định loại các 
nhóm động vật không xương sống nước ngọt thường gặp  ở  Việt Nam đã xây 
dựng khóa định loại tới họ của bộ Chuồn chuồn [5].
Nguyễn Văn Vịnh và cộng sự  (2001), trong nghiên cứu khu hệ  côn trùng  
nước  ở  VQG Tam Đảo đã xác định được 26 loài thuộc 12 họ  của bộ  Chuồn  
chuồn  ở  khu vực này. Tuy nhiên, do những nghiên cứu về  phân loại thiếu trùng 
chuồn chuồn  ở  Việt Nam còn ít. Do đó, những mẫu vật thu được mới chỉ  phân  
loại đến bậc giống [55].

17


Đỗ  Mạnh Cương (2003) trong công trình nghiên cứu về  khu hệ  chuồn  

chuồn  ở  Khu bảo tồn thiên nhiên Mã Đà và VQG Cát Tiên đã xác định được 55  
loài Chuồn chuồn thuộc 11 họ  đồng thời tác giả  cũng đã xây dựng được khóa 
định loại tới họ của Chuồn chuồn tại khu vực nghiên cứu. Ngoài ra, trong công 
trình chưa có mô tả  chi tiết từng họ, loài [1]. Năm 2005, tác giả  đã có một công 
trình phân loại của loài Dvidius monastyrskii, họ Gomphidae, bộ phụ Anisoptera. 
Đây là một loài Chuồn chuồn mới được ghi nhận ở miền Bắc Việt Nam [4].
Đặng   Quốc   Quân   (2008)   trong   nghiên   cứu   về   đa   dạng   khu   hệ   Chuồn 
chuồn tại VQG Tràm Chim, tỉnh Đồng Tháp đã xác định được 12 loài (thiếu trùng 
) và 25 loài ( trưởng thành) chuồn chuồn, tác giả cũng đưa ra khóa định loại riêng 
cho cả  thiếu trùng và cả  Chuồn chuồn trưởng thành đồng thời cung cấp những  
miêu tả tương đối chi tiết về hình thái ngoài của chúng [4].
Nguyễn Thị  Minh Huệ  (2009) trong nghiên cứu khu hệ  côn trùng nước  
VQG Bạch Mã tỉnh Thừa Thiên Huế  xác định được 15 loài thuộc 11 họ. Cũng  
trong năm đó, Nguyễn Văn Hiếu và cộng sự  khi nghiên cứu đa dạng côn trùng  
nước tại VQG Tam Đảo đã xác định được 32 loài thuộc 12 họ tại khu vực này [2,  
3].
Bên cạnh các công trình nghiên cứu về  phân loại học nghiên cứu về   ứng 
dụng của bộ  Chuồn chuồn  đã được đề  cập đến trong nghiên cứu của Đặng 
Ngọc Thanh và nhóm nghiên cứu (2002), nghiên cứu đã đưa ra những dữ liệu về 
ấu trùng Chuồn chuồn dùng để dánh giá chất lượng môi trường nước.
Nghiên cứu về bộ Cánh úp (Plecoptera)
Ở  Việt Nam, những nghiên cứu và hiểu biết về  bộ  Cánh úp còn ít. Một 
vài loài đã được mô tả  bởi Kawai (1968, 1969), Zwick (1988), Stark và cộng sự 
(1999)], nhưng tất cả các mẫu vật đều ở giai đoạn trưởng thành [17]. 
Nguyễn Văn Vịnh (2001) và cộng sự  khi nghiên cứu về  nhóm côn trùng  
nước  ở  VQG Tam Đảo đã tiến  hành định loại các loài thuộc bộ  Cánh úp. Kết  
quả cho thấy số loài Cánh úp ở VQG Tam Đảo là 12 loài thuộc 3 họ [55].

18



Cao Thị Kim Thu (2002) đã công bố dẫn liệu mô tả 50 loài thuộc 22 giống, 
4 họ ở Việt Nam dựa trên những đặc điểm của cả hai giai đoạn trưởng thành và 
ấu trùng. Tác giả  đã xây dựng khóa định loại cho cả  côn trùng trưởng thành và 
thiếu trùng Cánh úp  ở  Việt Nam đồng thời cung cấp những miêu tả  chi tiết về 
hình thái của thiếu trùng bộ  Cánh úp. Công trình này là cơ  sở  khoa học cho các  
nghiên cứu sau này về bộ Cánh úp ở nước ta [17].
Cao   Thị   Kim   Thu   (2007)   công   bố   hai   loài   mới   thuộc   họ   Cánh   úp   lớn  
(Perlidae) cho khu hệ  Cánh úp Việt Nam là  Agnetina den  Cao & Bae, 2007 và 
Chinoperla rhododendroma Cao & Bae, 2007 [19]. Đến 2009, tác giả trong nghiên 
cứu thành phần loài họ  Perlidae thuộc bộ  Cánh úp  ở  khu vực miền Trung Việt  
Nam đã xác định được 22 loài thuộc 10 giống, trong đó có 4 loài mới là Neoperla 
tamdao,  Tyloperla trui,  Acroneuria bachma,  Chinoperla rhododendrona  và 4 loài 
lần đầu ghi nhận cho khu hệ  Việt Nam. Cũng trong năm này đã mô tả  thêm hai 
loài nữa thuộc giống Acroneuria (Perlidae) và 1 loài thuộc giống Phanoperla [7].
Stark và Sivec (2010) đã công bố một số loài mới cho khu hệ Cánh úp Việt  
Nam với 7 loài được mô tả  từ  VQG Cát Tiên và VQG Yok Đon, 8 loài được mô  
tả  ở  hệ thống suối  ở Sa pa, tỉnh Lào Cai. Cũng nhóm tác giả  này đã phát hiện 2 
mẫu vật thuộc giống Neoperla có kích thước khác thường so với những loài đã 
thu được trước đó tại Cao Bằng vào năm 2011 [71, 72, 74]. 
Từ các mẫu vật thu thập được và tham khảo các tài liệu đã công bố, Cao 
Thị  Kim Thu (2011) đã tổng hợp được danh lục gồm 70 loài Cánh úp lớn thuộc 
13 giống ở Việt Nam. Do đó, hiện nay đã có 48 loài mới cho khoa học được mô 
tả  từ  mẫu vật và có 55 loài mới chỉ  thấy  ở  Việt Nam mà chưa ghi nhận  ở  một 
nơi nào trên thế giới [8]. 
Gần đây nhất, Stark, Sivec và Shimizu (2012) đã ghi nhận 3 loài mới là 
Rhopalopsole azun  (Gia Lai),  R. minima  (Nghệ  An) và  R. sapa  (Lào Cai), đồng 
thời cũng cung cấp một khóa phân loại tới loài của giống này tại Việt Nam [77].  

19



Tuy nhiên, các nghiên cứu mới đây chỉ dừng lại ở giai đoạn trưởng thành của bộ 
Cánh úp. 
Nghiên cứu về bộ cánh nửa (Hemiptera)
             Những nghiên cứu về bộ Cánh nửa ở Việt Nam được biết đến đầu tiên  
là vào khoảng đầu thế  kỷ  20 và chủ  yếu được tiến hành bởi các nhà khoa học  
nước   ngoài   như   Lansbury   (1972,   1973),   Nieser   (2002,   2004),   Polhemus   và 
Polhemus (1995, 1998)… Những loài thuộc họ Gerridae đầu tiên được miêu tả từ 
Việt Nam là Ptilomera hylactor Breddin, 1903. Hai thập kỷ sau, China (1925) mô 
tả loài Gigantometra gigas, là loài có kích thước lớn nhất thuộc họ Gerridae và là 
đặc hữu của Việt Nam và đảo Hải Nam. Năm 1996, Zettel và Chen đã có những 
dẫn liệu về  họ  Gerridae  ở Việt Nam, ghi nhận tổng cộng khoảng 40 loài. Năm 
1997, Hecher công bố  2 loài mới: Pseudovelia intonsa và P. pusilla, hiện chỉ  tìm 
thấy ở Việt Nam [81]. 
                Tran (2008) đã đưa ra khóa định loại đến loài của họ Gerridae, ghi nhận  
64 loài thuộc 26 giống [81]. Sau đó vào năm 2010, tác giả đã bổ sung thêm 3 loài 
cho Việt Nam: Hydrometra albolineata Scott, 1874; H. jaczewskii Lundblad, 1933 
và H. ripicola Andersen, 1992, đồng thời cũng cập nhật dẫn liệu mới về phân bố 
của 9 loài Hydrometra ở Việt Nam [80]. Những nghiên cứu này đã bổ  sung danh 
sách thành phần loài, mô tả  các loài mới, cũng như  xây dựng các khóa định loại 
đến loài của các giống, góp phần làm cơ sở  cho những nghiên cứu tiếp theo về 
bộ  Cánh nửa  ở  nước của Việt Nam. Năm 2011, tác giả  đã cung cấp danh sách  
loài Cánh nửa thuộc khu vực đô thị Hà Nội bao gồm 23 loài, 12 giống, 9 họ [82].  
Đây là nghiên cứu đầu tiên cho khu hệ Cánh nửa tại Hà Nội. 
Mới đây nhất, Tran và Polhemus (2012) đã bổ sung một loài Gerris mới từ 
miền Nam Việt Nam đồng thời ghi nhận sự xuất hiện lần đầu tiên của hai loài  
G. latiabdominis và G. gracilicornis từ khu vực phía tây bắc của đất nước. Trong  
đó cũng đưa ra một khóa phân loại chi tiết cho 4 loài  Gerris có mặt ở Việt Nam 


20


hiện nay [84]. Cho tới nay, thành phần loài Côn trùng nước bộ Cánh nửa ở Việt 
Nam có khoảng trên 170 loài, 18 họ [80, 81, 83, 84].
Nghiên cứu về bộ Cánh lông (Trichoptera)
Ở  Việt Nam, bộ  Cánh lông được nghiên cứu từ  rất sớm. Những tài liệu  
về Cánh lông đã được xuất bản bởi các nhà phân loại học đến từ các nước châu 
Âu như:  Đức (Ulmer, 1907), Tây Ban Nha (Navás, 1913). Những nghiên cứu đầu 
tiên   của   Ulmer   về   2   loài  Hydromanicus   buenningi  và  Paraphlegopteryx 
tonkinensis  đã đặt nền móng cho việc nghiên cứu về  Cánh lông  ở  Việt Nam.  
Navás (1913, 1917, 1921, 1922, 1930, 1932, 1933) đã mô tả một số loài thuộc các 
tổng họ  của Hydropsychoidae, Philopotamoidae (Stenopsychidae), Leptoceroidae,  
Limnephiloidae và Rhyacophiloidae. Banks (1931) và Mosely (1934) nghiên cứu 
về Hydropsychoidae, Limnephiloidae và Rhyacopphiloidae. Oláh (1987 ­ 1989) mô 
tả các loài thuộc Glossosomatoidae, Hydroptiloidae và Rhyacophiloidae [23]. May 
(1998) và Malicky (1994, 1995, 1998), mô tả  các loài thuộc họ Hydropsychoidae,  
Phiolopotamoidae,   Leptoceroidae,   Sericostomatoidae,   Limnephiloidae, 
Glossosomatoidae, Hydroptiloidae và Rhyacopphiloidae từ các mẫu vật thu được 
ở  một số  vùng của Việt Nam. Malicky và Mey (2001), mô tả  2 loài mới thuộc  
giống Ceratopsyche ở miền Bắc Việt Nam. Schefter và Johanson (2001), mô tả 3 
loài thuộc giống  Helicopsyche  [27].  Nguyễn Văn Vịnh   và cộng sự  (2001) định 
loại được 23 loài thuộc 16 họ của bộ Cánh lông ở VQG Tam Đảo khi nghiên cứu  
về nhóm côn trùng nước tại khu vực này [55]. 
Hoàng Đức Huy (2005) trong nghiên cứu về khu hệ Cánh lông ở Việt Nam 
đã xác định được 198 loài (14 loài mới cho Việt Nam và 25 loài mới được ghi 
nhận) thuộc 58 giống và 24 họ. Trong nghiên cứu này, tác giả  đã đưa ra những 
mô tả chi tiết đến hình thái của ấu trùng Cánh lông ở Việt Nam [27].  Công trình  
nghiên cứu này là cơ sở khoa học cho những nghiên cứu sau này về bộ Cánh lông  
ở Việt Nam.


21


Hoàng Đức Huy và Bae Jae Yeon (2006) đã thực hiện nghiên cứu so sánh 
mức độ  đa dạng côn trùng nước giữa suối Đắk Pri  ở  miền Nam Việt Nam với  
suối ở miền Trung của Hàn Quốc, kết quả cho thấy bộ Cánh lông ở  nước ta đa 
dạng hơn nhiều về số lượng loài và họ [28].
Năm 2009, trong nghiên cứu về đa dạng côn trùng nước ở cácVQG một số 
tác giả  có đề  cập tới thành phần loài Cánh lông tại đó như  Hoàng Đức Huy và 
cộng sự nghiên cứu ở VQG Bi Doup­ Núi Bà tỉnh Lâm Đồng, Nguyễn Văn Hiếu 
ở  VQG Tam Đảo tỉnh Vĩnh Phúc, Nguyễn Thị  Minh Huệ  ở  VQG Bạch Mã tỉnh 
Thừa Thiên Huế [2, 3].
Olash và Johanson (2010) đã công bố  14 loài mới được công bố  thuộc  
giống Dipseudopsis, Hyalopsyche và Pseudoneureclipsis từ các mẫu vật thu được 
tại các tỉnh thành của Việt Nam [64]. 
Nghiên cứu về  các bộ  Cánh cứng, bộ  Hai cánh, bộ  Cánh vảy và bộ  
Cánh rộng
Ở  nước ta, các công trình nghiên cứu về  bộ  Cánh cứng (Coleoptera), Hai 
cánh (Diptera), bộ  Cánh vảy (Lepidoptera) và bộ  Cánh rộng (Megaloptera) còn 
tản mạn. Các nghiên cứu thường không tập trung vào một bộ cụ thể mà thường  
đi cùng với các công trình nghiên cứu về khu hệ côn trùng nước nói chung như:  
Nguyễn   Văn   Vịnh   (2001)   nghiên   cứu   ở   VQG   Tam   Đảo;   Cao   Thị   Kim   Thu,  
Nguyễn Văn Vịnh và Yeon Jae Bae (2008) nghiên cứu ở VQG Bạch Mã, Nguyễn 
Xuân Quýnh và cộng sự  (2001) khi định loại các nhóm động vật không xương 
sống nước ngọt thường gặp ở Việt Nam [2, 3].
1.3. Điều kiện tự nhiên và đa dạng sinh học VQG Ba Vì
1.3.1. Điều kiện tự nhiên của VQG Ba Vì
Vị trí địa lý
Vị  trí: VQG Ba Vì nằm trên địa bàn 16 xã thuộc 5 huyện là Ba Vì, Thạch 

Thất, Quốc Oai thuộc Thành phố  Hà Nội và huyện Lương Sơn, Kỳ  Sơn thuộc  

22


tỉnh Hòa Bình, cách Thủ  đô 50 km về  phía tây theo trục đường Láng­Hòa Lạc, 
qua Thị xã Sơn Tây. Hệ thống giao thông đi lại thuận tiện.
Tọa độ địa lý: Từ 20o 55' ­ 21o07' vĩ độ Bắc.
 Từ 105o18' – 105o30' Kinh độ Đông.
Tổng diện tích tự nhiên: 10.782,7 ha.
Địa hình
Ba vì là một vùng núi trung bình, núi thấp và đồi núi trung du tiếp giáp với  
vùng bán sơn địa. Vùng núi gồm các dãy núi liên tiếp, nổi lên rõ nét là các đỉnh  
như:   Đỉnh   Vua   cao   1296m,   Đỉnh   Tản   Viên   cao   1227m,   Đỉnh   Ngọc   Hoa   cao 
1131m, Đỉnh Viên Nam cao 1012m. Địa hình bị  chia cắt bởi những khe và thung 
lũng sông suối hẹp.
Hướng của cả hai khối núi theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, độ cao của  
hai khối núi giảm dần ra xa xung quanh tạo nên một số  bậc địa hình đặc trưng 
với các đỉnh, dải đồi lượn sóng nối liền khối núi với nhau.
Sườn của hai khối núi Ba Vì và Viên Nam có dạng bất đối xứng, sườn 
Tây dốc hơn sườn Đông. Hướng dốc chính thoải dần theo hướng Đông Bắc­ Tây 
Nam, độ dốc bình quân trên 25o. Nhiều nơi có độ dốc lớn > 35o [90].

Địa chất
Nền địa chất khu vực có phân vị  địa tầng cổ nhất thuộc các đá biến chất  
tuổi Proterozoi, có thể tổng hợp theo các nhóm đá điển hình sau:
­ Nhóm đá macma kiềm và trung tính: điển hình có đá Diorit, poocphiarit 
tương đối mềm. Nhóm đá này khi đã phong hóa cho mẫu chất tương đối mịn và 
tương đối giàu dinh dưỡng.
­ Nhóm đá trầm tích: Cát kêt, phiến thạch sét, cuội kết hình thành từ  đá  

gốc macma kiềm và trung tính. Nhóm đá này khi phong hóa khá triệt để tạo thành  
loại đất khá màu mỡ.

23


­ Nhóm đá biến chất phân bố  thành dải từ  khu vực Đá Chông đến Ngòi 
Lát, chiếm gần toàn bộ  diện tích sườn phía Đông và khu vực Đồng Vọng, xóm  
Sảng. Thành phần chính của nhóm này gồm đá Diệp thạch kết tinh, đá Gnai,  
Diệp thạch xerit lẫn các lớp quaczit.
­ Nhóm đá vôi phân bố khu vực núi Chẹ, xóm Mít, suối Ma, xóm Quýt.
­ Nhóm đá trầm tích phun trào nằm rải rác trong vùng.
Với thành phần đá mẹ phong phú và đa dạng đã hình thành nên nhiều loại  
đất khác nhau:
­ Đất Feralit mùn vàng nhạt: Phân bố ở độ cao trên 700m, phát triển trên đá 
macma kiềm và trung tính. Đất có màu vàng nhạt, tầng mùn khá dày, tầng đất 
mỏng đến trung bình. Quá trình Feralit kém điển hình đồng thời quá trình mùn 
hóa tương đối mạnh.
­ Đất Feralit đỏ  vàng: Phân bố   ở  độ  cao dưới 700m, phát triển trên đá  
macma kiêm, trung tính và nhiều loại đá khác. Đất có màu vàng, đỏ, nâu, màu sắc  
tương đối rực rỡ, tầng mùn mỏng. Đất  ở  đây có khả  năng phù hợp với nhiều  
loại cây trồng lâm nghiệp.
­ Tổ  hợp đất thung lũng gồm nhiều đất phù sa mới, phù sa cũ, đất sườn  
tích, lũ tích, sản phẩm hỗn hợp. Đất có tầng dày, màu vàng sẫm, đất có sự phân 
lớp và thành phần cơ giới khác nhau, phù hợp với canh tác nông nghiệp [90].

Khí hậu thủy văn
Khí hậu: Khu vực Ba Vì có nhiệt độ  trunh bình năm là 23,4 oC.  Ở  độ  cao 
400m nhiệt độ  trung bình năm là 20,6oC; Từ  độ  cao 1000m trở  lên nhiệt độ  chỉ 
còn 16oC. Lượng mưa trung bình 2500mm/năm, lương mưa phân bố  không đều 

trong năm tập chung vào các tháng 7, 8. Độ   ẩm không khí vào khoảng 86,1%. 
Vùng thấp thường khô hanh vào tháng 1, 12. 

24


Thủy văn và tài nguyên nước: Hệ thống sông suối trong khu vực chủ yếu  
bắt nguồn từ  thượng nguồn Núi Ba Vì và Núi Viên Nam. Các suối lớn và dòng 
nhánh chảy theo hướng Bắc, Đông Bắc và đều là phụ  lưu của sông Hồng.  Ở 
phía Tây của khu vực, các suối ngắn và dốc hơn so với các suối  ở  phía Bắc và 
phía Đông, đều là phụ  lưu của sông Đà. Mật độ  1,2­2km/ 1km2. Các suối này 
thường gây lũ vào mùa mưa. Vào mùa khô các suối nhỏ  thường cạn kiệt. Các  
suối chính trong khu vực gồm có: Suối Cái, suối Mít, suối Ninh, ngòi Lạt, suối 
Yên cư, suối Bơn, suối Quanh, suối Cầu Rổng, suối Đô, Chằm Me, Chằm Sỏi.
Sông Đà chảy  ở  phía Nam núi Ba Vì, sông rộng cùng hệ  thống suối khá  
dày như: suối  Ổi, suối Ca, suối Mít, suối Ba Gò, suối Xoan, suối Yên Cư, suối  
Củi… thường xuyên cung cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt của người dân  
trong vùng. Bên cạnh còn có các hồ  chứa nước nhân tạo như  Hồ  Suối Hai, hồ 
Đồng Mô­Ngải Sơn, hồ Cóc Cua… Nguồn nước ngầm trong khu vực tương đối  
dồi dào,  ở  phía sườn Đông cũng dồi dào hơn bên sườn Tây do lượng mưa lớn  
hơn và địa hình đỡ dốc hơn.
1.3.2. Đa dạng sinh học VQG Ba Vì 
Hệ thực vật VQG Ba Vì
Theo danh mục thực vật đã được thu thập mẫu và kết quả  điều tra bổ 
sung năm 2008, cho tới nay VQG Ba Vì có 1201 loài thực vật bậc cao có mạch  
thuộc 649 chi và 160 họ. như  vậy, qua kết quả  nghiên cứu mới nhất đã khẳng 
định sự phong phú đa dạng loài thực vật của vườn. So với kết quả điều tra năm  
1998, số họ thực vật phát hiện mới tăng 61 họ, số chi tăng 177 chi và số loài tăng  
389 loài.
Nét riêng của vùng cao Ba Vì là tuy cùng nằm trong vùng có hệ  thực vật 

bản địa của Việt Nam ­ Nam Trung Hoa như một số nơi khác nhưng ảnh hưởng 
của độ cao, số loài thuộc các họ phân bố chủ yếu ở á nhiệt đới và ôn đới nhiều 
hơn . Đáng chú ý là ở đây đã có tới 5 chi 5 loài thuộc họ Đỗ  quyên (Ercaceae), 6  
loài thuộc họ Chè (Theacae), 3 chi   19 loài thuộc họ Dẻ (Fagaceae) nhiều hơn số 

25


×