Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Văn học: Một số đặc điểm thi pháp kịch Tagore

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (546.96 KB, 28 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XàHỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN PHƯƠNG LIÊN

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM 
THI PHÁP KỊCH TAGORE

Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 62 22 32 01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

Hà Nội ­ 2013
1


Công trình khoa học được hoàn thành tại:
Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN

Người hướng dẫn khoa học:  GS.TS. Nguyễn Đức Ninh
PGS. TS. Lý Hoài Thu
Phản biện1: 
Phản biện 2:
 Phản biện 3:

Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tiến sĩ cấp cơ sở
họp tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn ­ ĐHQGHN
Vµo håi
giê
ngµy


th¸ng
n¨m

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài:
Với 52 tập thơ, khoảng 12 tiểu thuyết, trên 100 truyện 
ngắn, khoảng 60 vở  kịch, hơn 20 tiểu luận, rất nhiều thư  t ừ, t ự 
truyện và các bài ca... Tagore đã để  lại một sự nghiệp văn học đồ 
sộ  bên cạnh những tác phẩm thuộc về  các ngành nghệ  thuật khác 
như   hội   họa,   âm   nhạc...   Giải   Nobel   văn  học   1913   cho   tập  thơ 
Gitanjali (Thơ  Dâng)  thực sự  đóng vai trò là mốc đánh dấu thời 
điểm Tagore trở  thành nhà văn nổi tiếng trên khắp thế  giới, đặc 
biệt là đối với văn đàn phương Tây. Cho đến nay, trong giới nghiên 
cứu văn học  Ấn Độ   ở  nước ta vẫn chưa có một công trình hay  
chuyên khảo nào tìm hiểu một cách thật sự cặn kẽ và có hệ thống  
về kịch của Tagore. Mặc dù kịch của Tagore là một mảng sáng tác 
khá đặc biệt khi tích hợp được những vấn đề  mang tính hàn lâm 
của thi pháp cổ điển Ấn Độ đồng thời lại có cả những tinh hoa của  
sân khấu phương Tây, hiện nay chúng ta mới dịch được 08/60 vở 
kịch của Tagore và số  lượng các vở kịch đã được công chúng biết  
đến mới chỉ  khoảng 10 tác phẩm. Không những thế, kịch còn là 
phương thức sáng tác tập trung tất cả  những tinh hoa của các bộ 
môn nghệ thuật khác nhau, do đó sân khấu trở thành nơi thích hợp  
để  Tagore bộc lộ  tài năng nghệ  thuật đa dạng. Vậy mà thi pháp 
kịch của Tagore là vấn đề còn ít được bàn tới ở Việt Nam nên cần 
khai thác sâu hơn để  có được cái nhìn toàn diện hơn, phong phú  
hơn về  sự  nghiệp văn học của Tagore, nhằm góp phần thiết thực  

vào công việc nghiên cứu và giảng dạy về Tagore ở Việt Nam.  

3


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án đi  sâu vào nghiên cứu những tính chất  đặc  
trưng trong kịch của Tagore bằng cách áp dụng những khái niệm  
của thi pháp Ấn Độ cổ điển. Từ  đó có thể hiểu kỹ hơn về một tài  
năng văn chương, thành công trong nhiều thể  loại khác nhau của 
văn học nghệ thuật, đồng thời chứng minh được tính hiệu quả của  
hệ  thống thi pháp  Ấn Độ, một bộ  phận đặc sắc và có giá trị  cao 
của mỹ học phương Đông. Để  đạt được mục đích trên, nhiệm vụ 
của luận án là phân tích các tác phẩm kịch của Tagore, phân loại và  
chỉ   ra   những   thủ   pháp   khác   nhau   mà   Tagore   vận   dụng   trong  
phương thức sáng tác này dưới góc nhìn của thi pháp Ấn Độ. 
3. Phạm vi nghiên cứu
Luận án của chúng tôi khảo sát, nghiên cứu về một số đặc 
điểm thi pháp của khoảng 60 vở kịch của Tagore. Một số vở kịch  
có chút ít thay đổi khi đưa ra công diễn hay khi dịch sang tiếng  
Anh, hay có thêm tên khác bằng tiếng Bengali, chúng tôi có nêu cả 
hai tên gọi và tính là một tác phẩm.
 4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp chính: phương pháp tiếp cận thi pháp học, 
phương pháp loại hình, phương pháp tiểu sử,
Các phương pháp khác: phương pháp liên ngành, phương  
pháp văn hóa học, phương pháp nghiên cứu trường hợp 
5. Đóng góp của luận án
Đây là công trình đầu tiên  ở  Việt Nam nghiên cứu về  thi 
pháp kịch của Tagore, khảo sát tất cả các vở kịch đã được công bố 

4


của Tagore (bao gồm cả tiếng Anh và tiếng Beganli), phân loại và 
hệ  thống hóa mảng sáng tác này của Tagore theo chủ  đề, đề  tài, 
khảo sát đặc trưng của các kiểu nhân vật, tình huống kịch và ngôn  
ngữ kịch Tagore.  
Luận án là công trình mà chúng tôi đã áp dụng những khái  
niệm căn bản nhất của thi pháp Ấn Độ cổ điển và có đối chiếu, so  
sánh với thi pháp kịch phương Tây cổ đại để khám phá để thấy sự 
đa dạng, toàn diện trong sáng tác của một thiên tài văn học nghệ 
thuật. Đồng thời cũng góp phần chứng minh tính hợp lý, hữu hiệu  
của thi pháp  Ấn Độ  cổ  điển trong việc sử dụng như  một công cụ 
để   nghiên   cứu   văn   học   Ấn   Độ   nói   riêng   và   phương   Đông   nói 
chung.Luận án góp phần bổ sung thêm nguồn tài liệu chuyên đề về 
kịch và Tagore, một tác gia quan trọng trong nghiên cứu và giảng  
dạy ở nhà trường Việt Nam.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài mở  đầu, kết luận tài liệu tham khảo và phụ  lục,  
luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Dhvani trong đề tài và chủ đề­ tư tưởng kịch Tagore
Chương 3: Rasa trong hệ thống nhân vật và tình huống tạo nên  
xung đột kịch Tagore
Chương 4: Alankara trong ngôn ngữ kịch Tagore

5


CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN 

CỨU
1.1. Khái quát về tình hình nghiên cứu thi pháp học và thi pháp  
kịch Ấn Độ
Sau 1947, nghiên cứu thi pháp cổ  điển để  phục hưng văn 
hóa truyền thống  Ấn Độ  song song với nhu cầu khẳng định chủ 
quyền quốc gia, quá trình này bao gồm 3 khuynh hướng.
1.1.1. Hoàn thiện các khái niệm thi pháp cổ điển
Các công trình thuộc nhóm này đều tập trung vào các tác  
phẩm và tác giả  kinh điển của thời cổ điển để  lý giải và sắp xếp 
lại, đánh giá và đưa ra những giải pháp trong việc áp dụng những  
khái niệm vào nghiên cứu văn học Ấn Độ đang trong quá trình hiện  
đại hóa cũng như khẳng định thêm giá trị của những tác phẩm lớn  
trong nền văn học truyền thống Ấn Độ.   
1.1.2. Áp dụng thi pháp cổ điển để khảo sát tác phẩm và các giai  
đoạn của văn học sử
Những khái niệm và hệ  thống thi pháp kịch cổ  điển được  
áp  dụng  để  phân tích  bao gồm   cả  những   tác  phẩm   cổ   điển và 
những tác phẩm hiện đại.  Khuynh hướng nghiên cứu này đã đạt 
được những thành tựu đáng kể  khi lý giải được những vấn  đề 
riêng   biệt   trong   tác   phẩm   Ấn   Độ.   Vì   vậy,   các   nhà   nghiên   cứu 
phương Tây cũng áp dụng phương pháp này khi tìm hiểu nền văn 
hóa Ấn Độ.
1.1.3. So sánh với các công trình thi pháp học của phương Tây

6


Từ  việc khái quát hóa và phân loại cụ  thể  các khái niệm  
của thi pháp  Ấn Độ  cổ  điển, một loạt các công trình đặt ra nhiều 
góc độ tương quan giữa phương Đông và phương Tây trên phương  

diện lý luận.  Nghiên cứu  văn  học  Ấn   Độ  bằng cách  ứng   dụng 
những lý thuyết truyền thống của  Ấn Độ  hiện nay đang là một xu  
hướng ngày càng trở nên rõ ràng.
1.2. Khái quát về các khái niệm căn bản trong thi pháp kịch Ấn  
Độ cổ điển
1.2.1. Khái niệm Rasa  là cảm xúc và nhận thức của người tiếp  
nhận tác phẩm văn học, phụ  thuộc vào định hướng sáng tạo của 
tác giả cũng như đặc điểm riêng của người tiếp nhận. Rasa tồn tại  
ở nhiều cấp độ, từ cấp độ nhỏ nhất (từ hoặc câu văn) cho đến cấp  
độ lớn (toàn bộ tác phẩm hoặc nhóm tác phẩm).
1.2.2. Khái niệm Dhvan  thường được bàn đến khi bàn về  Rasa,  
đặc biệt là những tác giả chú trọng đến vai trò của khán giả trong  
nghệ   thuật  kịch.  Dhvani  có nghĩa từ   nguyên  là  “giọng  điệu”  và 
được sử dụng như một thuật ngữ với nghĩa “sự khơi gợi”. 
1.2.3. Khái niệm Alankara có  nghĩa từ  nguyên là “sự  trang sức, 
trang điểm”, Alankara về sau được dùng như từ đồng nghĩa với vẻ 
đẹp, cái đẹp (saundaryan) để  xác định tất cả  những gì đóng góp  
cho vẻ đẹp của thơ ca. Alankara trong nghĩa hẹp chỉ các biện pháp 
tu sức ngôn từ, trong nghĩa rộng bao hàm tất cả  những thủ  pháp  
nghệ thuật, phong cách văn chương, một hệ giá trị để đo lường các  
tác gia, tác phẩm với những phẩm chất cần phấn đấu hay những 
khuyết điểm cần loại bỏ.

7


1.3. Khái quát về quá trình nghiên cứu sự nghiệp văn học của 
Tagore
1.3.1. Nghiên cứu về Tagore ở Ấn Độ và trên thế giới
 Những công trình nghiên cứu về Tagore nối tiếp nhau xuất  

hiện ngay từ  sinh thời của nhà văn. Ban đầu là những công trình 
mang tính tổng thuật, khái quát về mọi phương diện trong tài năng 
của Tagore. Các nhà phê bình đã nghiên cứu sâu tiểu sử của Tagore  
như  một định hướng nghiên cứu có quy mô lớn, chỉ  rõ tầm  ảnh 
hưởng và vai trò của Tagore đối với văn học Ấn Độ  và đối với thế 
giới. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu cũng chú trọng đến việc sử dụng  
lý thuyết so sánh để  xác lập thêm rõ ràng những đặc trưng trong 
sáng tác của Tagore. 
1.3.2. Nghiên cứu về Tagore ở Việt Nam
Trước   Cách   mạng   tháng   Tám,   trong   thời   điểm   văn   hoá 
phương   Tây   đang   có   ảnh   hưởng   rất   mạnh,   việc   giới   thiệu   và 
nghiên cứu về R.Tagore chưa có nhiều thành tựu đáng kể. Chỉ đến 
sau năm 1945, tình hình nghiên cứu về  R.Tagore  ở Việt Nam mới  
có những bước chuyển biến rõ rệt.
 1.3.3. Nghiên cứu kịch Tagore: 
Riêng đối với kịch Tagore, các nhà nghiên cứu  Ấn Độ  đã 
bắt đầu bằng việc sử  dụng các lý thuyết của phương Tây như  là 
như  công cụ  đắc lực để  tiếp cận tác phẩm. Các nhà nghiên cứu  
cũng chú trọng đến nét đặc biệt của từng vở kịch và đưa ra được 
những nhận xét chuyên sâu, sắc sảo về từng chi tiết nhỏ trong mỗi 
tác phẩm khi đi sâu vào những tác phẩm cụ  thể. Còn  ở  nước ta, 
việc nghiên cứu kịch Tagore mới chỉ bắt đầu.
8


CHƯƠNG II: DHVANI TRONG ĐỀ TÀI VÀ CHỦ ĐỀ­ TƯ 
TƯỞNG KỊCH TAGORE
2.1. Khái niệm Dhvani và quan niệm của Tagore về Dhvani
2.1.1. Một số đặc điểm cơ bản của khái niệm Dhvani
Anandavardhana đã định nghĩa chung về  Dhvani trong thơ 

ca và phân chia các lớp nghĩa của một tác phẩm văn học thành hai  
định hướng: nghĩa tường minh (explicit meaning) và nghĩa hàm ẩn 
(implicit meaning) trong cuốn Dhvanyaloka.
 Abhinavagupta thì chỉ  ra rằng người đọc có thể  vấp phải 
bảy dạng chướng ngại vật trong khi nỗ lực để  cảm nhận một tác  
phẩm văn học và phân chia Dhvani thành cách khơi gợi dựa vào từ 
ngữ   (word­   portrait/sabda)   và   cách   khơi   gợi   dựa   vào   ý   nghĩa 
(meaning­ portrait/artha) trong cuốn Dhvanyalokana.
2.1.2. Quan niệm của Tagore về Dhvani
Tuy không trực tiếp nhắc đến tên khái niệm Dhvani, nhưng 
nội dung những lời phát biểu của ông không nằm ngoài nội hàm  
của khái niệm, Tagore còn tạo nên sự đối lập rõ rệt giữa cảm xúc  
ban sơ  tinh khiết và tư  duy phân tích của lý trí trong truyện ngắn 
Ngày xửa ngày xưa có một ông vua. Khi giải quyết những vấn đề 
của Dhvani vào thời điểm nền văn học đang hiện đại hóa,Tagore  
thể hiện quan điểm trong truyện ngắn Hoàng tử.
2.2. Dhvani trong các kiểu loại đề tài kịch Tagore
2.2.1. Tôn giáo là đề  tài truyền thống của văn học  Ấn Độ, Tagore  
lựa chọn những nét tích cực và đấu tranh để  loại bỏ  những điều 
tiêu cực ở những tôn giáo khác nhau trên quê hương mình theo tiêu 
9


chí là tính nhân bản, nhân văn của từng yếu tố nhỏ nhất đến những 
quan điểm bao trùm cả giáo lý.
 2.2.2. Văn học sử  và lịch sử là đề  tài thể  hiện tính liên tục của 
văn học  Ấn Độ  bằng cảm hứng phục cổ. Nhưng Tagore  đã phê  
phán việc dựng lên những giá trị cao quý của quá khứ để biện minh 
cho sự cực đoan trong hiện tại. 
2.2.3. Tình yêu được Tagore đề cập đến qua vấn đề hôn nhân ở Ấn  

Độ, không phải chỉ  để  trả  lời những câu hỏi tò mò của phương 
Tây mà còn là để  chính thức tuyên bố  quan điểm của ông là tôn 
vinh cuộc sống lứa đôi, kết quả tốt đẹp nhất của tình yêu.
2.2.4.  Đời sống sinh hoạt thường nhật  là nhóm đề  tài có tính 
hiện đại hơn cả, bởi lẽ  Tagore đã sử  dụng nhiều góc nhìn khác 
nhau, nhiều cách thức khác nhau để  tái hiện lại hiện thực cuộc  
sống đương đại. 
2.2.5.  Triết học  là đề  tài quen thuộc trong nền văn học  Ấn Độ,  
triết học xuất hiện trong kịch Tagore là sự tổng hợp của những tư 
tưởng cổ  xưa trên quê hương ông và những quan điểm nhân văn 
mới mẻ của phương Tây.
2.2.6. Tự nhiên là đề tài đặc biệt tỏa sáng trong kịch Tagore. Nhan  
đề thường đơn giản mà khái quát, hứa hẹn mở ra nhiều hướng cho  
sự  tưởng tượng, nơi Tagore đề  cao sự hòa hợp của con người với 
thiên nhiên.
  2.2.7.  Nghệ  thuật và cái đẹp  là đề  tài thể  hiện quan điểm về 
nghệ thuật của ông. Tagore thường lựa chọn cách sử  dụng những 
10


ngẫu nhiên của số phận kết hợp với những biến chuyển của xúc 
cảm ở đề tài này.
 2.3. Dhvani trong các kiểu loại chủ đề­ tư tưởng kịch Tagore
2.3.1.  Ca ngợi vẻ  đẹp cuộc đời trần thế  được thể  hiện 
bằng những vở kịch giàu tính chất luận đề. Các lớp nghĩa hàm ẩn  
mang đến những dáng vẻ  phong phú của vẻ   đẹp cuộc đời, lớp 
nghĩa hàm ẩn sâu nhất thường ở phần kết thúc.
2.3.2.  Khẳng   định   chân   lý  là   cách   để   Tagore   phê   phán   thái   độ 
bướng bỉnh, cao ngạo của những con người muốn dùng sức mạnh 
của mình để  chống lại quy luật tự  nhiên một cách mù quáng và  

thể hiện thiện cảm đối với những gì thuận theo lẽ tự nhiên. 
2.3.3. Tôn vinh phẩm chất tốt đẹp của con người là cách Tagore 
thể  hiện nhân sinh quan của một nhà nhân đạo chủ  nghĩa. Thủ 
pháp phóng đại thường được dùng trong chủ  đề  này để  gây  ấn 
tượng mạnh mẽ  trong việc “thanh lọc tâm hồn” của người đọc, 
người xem.
2.3.4. Phê phán thói hư  tật xấu là chủ  đề  chính Tagore sử  dụng 
trong   hài kịch, ông phê phán bằng sự  ngắn gọn, nhẹ  nhàng, sử 
dụng sự  hài hước, hóm hỉnh để  châm biếm.  Ông đã chạm  đến 
nhiều tầng lớp khác nhau, chỉ  ra những thói hư  tật xấu, tái hiện  
cuộc sống muôn màu. 
2.3.5.  Khát vọng cải tạo thực tại  trong kịch của Tagore chính là 
phương pháp ông lựa chọn để  thể  hiện những  ước mơ về  xã hội  

11


tương lai, những khát vọng cải tạo thực tại của một nhà cải cách  
xã hội.
 2.3.6. Đấu tranh giữa bổn phận và tình cảm  vấn đề quen thuộc 
trong văn hóa Ấn Độ, thường được kết thúc bằng chiến thắng của  
bổn phận trước tình cảm trong kịch Tagore, đó cũng là một cách  
thể  hiện bản lĩnh cá nhân trong tương quan darma­ kama, nhưng  
ông  đưa  ra  những  cách  giải  quyết   hợp  với  tình  người   hơn  cho  
chiến thắng của bổn phận.
CHƯƠNG III: RASA TRONG HỆ THỐNG NHÂN VẬT VÀ 
TÌNH HUỐNG TẠO NÊN XUNG ĐỘT KỊCH TAGORE
3.1. Khái niệm Rasa và quan niệm của Tagore về Rasa
3.1.1. Một số đặc điểm cơ bản của khái niệm Rasa 
Là công trình lý luận hoàn thiện đầu tiên về  kịch  Ấn Độ,  

Natyasastra  của   Bharati­   Muni   đã   đưa   ra   tám   loại   cảm   thức   ở 
chương 6, phân chia nhân vật  ở chương 32, đưa ra những đặc tính 
cụ thể cho từng kiểu nhân vật đã liệt kê để làm tiêu chí phân loại. 
Bharati còn phân loại kịch thành mười kiểu  ở  chương 20 và lần  
lượt lý giải đặc điểm cụ thể của từng kiểu kịch.
3.1.2. Quan niệm của Tagore về Rasa
Chịu ảnh hưởng của truyền thống lý luận văn học Ấn Độ, 
Tagore cũng rất coi trọng yếu tố cảm thức trong nghệ thuật,  coi đó 
là linh hồn của tác phẩm văn học. Ông còn sử dụng truyền tải đến 
người đọc quan điểm coi trọng tự do sáng tạo do cảm xúc đến với 
người nghệ  sĩ trong truyện ngắn  Chiến thắng  và  trong  cuộc trò 
chuyện nổi tiếng với Anhxtanh.
12


3.2. Rasa trong các kiểu nhân vật của kịch Tagore
3.2.1. Nhân vật nam giới
3.2.1.1. Kiểu nhân vật anh hùng là kiểu nhân vật có truyền thống.  
Khi Tagore sáng tác nhiều vở  kịch xoay quanh các nhân vật anh 
hùng nổi tiếng trong văn học Ấn Độ, Rasa Hào hùng bị lu mờ, ông 
pha trộn và làm nổi bật những kiểu Rasa khác để "giải thiêng" các  
nhân vật anh hùng đó.
3.2.1.2. Kiểu nhân vật tu sĩ chiếm một vị trí quan trong trong kịch  
cổ điển  Ấn Độ. Trong kịch của Tagore cũng xuất hiện những tu sĩ 
Bà la môn theo truyền thống đóng vai trò nhân vật phụ hoặc người  
dẫn truyện trong khi những nhân vật tu sĩ Bà la môn không chính 
thống lại là nhân vật chính, trong khi đó các tu sĩ Phật giáo lại 
được ông đề cao bằng Tagore Rasa Ái tình và Rasa Thán phục.
3.2.1.3. Kiểu nhân vật trí thức thực tế chỉ bắt đầu xuất hiện  ở  Ấn 
Độ vào thời kỳ Ấn Độ là thuộc địa của thực dân Anh. Nhân vật trí 

thức thường đóng vai trò là nhân vật trung tâm ở những vở hài kịch  
sinh hoạt ngắn gọn với Rasa Hài hước và là những nhân vật phụ ở 
những vở kịch dài, phức tạp.
3.2.2. Nhân vật phụ nữ
3.2.2.2. Kiểu nhân vật phụ nữ trong vai trò truyền thống ở gia đình 
chiếm số lượng đông đảo hơn cả  trong kịch Tagore. Họ  chứng tỏ 
vai trò của mình trong gia đình  ở nhiều mức độ khác nhau và cũng  
không đứng ngoài những vấn đề mang tính thời đại. 

13


3.2.2.3. Kiểu nhân vật phụ nữ là nạn nhân của xã hội là nạn nhân 
của chế  độ  đẳng cấp, của sự  bất bình đẳng giới, của tôn giáo và  
những hủ  tục trong xã hội...Tuy số  lượng  ít  ỏi song họ   đều là  
những người phụ  nữ  có cá tính mạnh mẽ, can đảm và tự  tin bên 
cạnh những phẩm chất tốt đẹp truyền thống. Đây cũng là cách ông 
đấu tranh cho bình đẳng giới.  

3.2.3. Nhân vật trẻ em
3.2.3.1. Kiểu nhân vật có sức mạnh cải tạo hiện thực  là các nhân 
vật trẻ  em đóng vai trò nhân vật trung tâm. Tagore đã sử  dụng sự 
tăng cấp của của cảm thức theo tuyến đường từ Rasa Cảm thương  
đến Rasa Thán phục. Bằng cách đó, ông đã ca ngợi tôn vinh trẻ em. 
3.2.3.2. Kiểu nhân vật phụ  trợ  là những  nhân vật trẻ  em làm các 
nhân vật phụ và do đó, thường đóng vai trò phụ trợ trong diễn tiến  
của cốt truyện cũng như trong việc chuyển tải những chủ đề chính 
của tác phẩm do đó cũng không dùng những Rasa chính của vở 
kịch.
3.3.   Rasa   trong   các   kiểu   tình   huống   tạo   nên   xung   đột   kịch  

Tagore
3.3.1. Tình huống tạo nên xung đột trong mỗi hình thức kịch
Có thể dựa trên bộ môn nghệ  thuật kết hợp trong từng vở 
kịch để  phân loại kịch Tagore thành ba nhóm: kịch văn xuôi (bao  
gồm chính kịch và hài kịch); kịch thơ; nhạc kịch và vũ kịch. 

14


3.3.1.1. Kịch văn xuôi  có thể  phân chia thành hai dạng khác biệt  
nhau khá rõ rệt: chính kịch và hài kịch. Đây cũng là nhóm kịch có số 
lượng lớn hơn cả  và cũng phong phú, toàn diện hơn cả  về  cấu  
trúc, nhân vật cũng như  những mảng hiện thực cuộc sống được  
phản ánh. Tất cả  các vở  kịch thuộc nhóm chính kịch được triển  
khai theo lối bố cục nối tiếp hoặc lối bố cục song song. Hài kịch  
lại chủ  yếu được xây dựng trên một tình huống, có dung lượng  
nhỏ  hơn chính kịch, và được triển khai cốt truyện trong một thời  
gian cũng ngắn hơn, đòi hỏi số  lượng nhân vật thấp và tác giả  có 
cơ hội để xoáy sâu những xung đột để tạo nên tiếng cười của tình  
huống.
3.3.1.2. Kịch thơ  bao gồm những vở kịch được tác giả  miêu tả  lại 
bằng ngôi thứ  ba hoặc ngôi thứ  nhất trong kết cấu chặt chẽ  của  
một bài thơ và những vở kịch được cấu thành từ các câu đối thoại  
giữa các nhân vật, trong đó mỗi câu thoại được viết bằng văn vần.  
Kịch thơ Tagore thường xây dựng từ cốt truyện chỉ có từ một đến 
hai tình huống không quá phức tạp, xung đột cũng bớt gay gắt, số 
lượng nhân vật trong mỗi vở cũng ít hơn.
3.3.1.3. Nhạc kịch và vũ kịch  là nhóm kịch giúp Tagore bộc lộ  rõ 
ràng tài năng trong biên soạn nhạc và biên đạo múa. Bởi thế  nên  
trong tất cả những vở kịch thuộc nhóm này, Tagore đều đơn giản  

hóa tối đa cốt truyện, do đó dẫn đến giảm thiểu số lượng nhân vật  
và tình huống.
3.3.2. Tình huống tạo nên xung đột trong các kiểu kịch bản

15


3.3.2.1. Prakana là những vở kịch dựa trên một cốt truyện sơ thảo  
hay những chi tiết đơn lẻ  về  nhân vật anh hùng, được tác giả  hệ 
thống hóa và sáng tạo thành một câu chuyện hoàn chỉnh. Những 
nhân vật này không còn nguyên vẹn những đặc điểm truyền thống 
và cũng không còn được xây dựng trên cơ  sở  của Rasa Hào hùng 
mà chủ  yếu là Rasa Thán phục. Điểm khác biệt này cũng là một  
cách hiện đại hóa kiểu kịch Prakana.  
3.3.2.2. Anka là kiểu kịch tập trung vào con người chứ không phải  
thánh  thần,   đồng   thời   khắc   họa  nỗi   buồn   hay  những   nỗi   tuyệt  
vọng của con người sau một biến cố lớn lao, đã được Tagore bảo 
toàn nguyên vẹn. Đây là nhóm kịch được tác giả  khai thác sâu  ở 
nhiều góc độ, Rasa Cảm thương là dòng cảm thức chủ đạo.
3.3.2.3. Vyayoga  là những vở  kịch được xây dựng trên quá trình 
phát triển câu chuyện cơ bản về một anh hùng nổi tiếng, kiểu kịch  
Vyayoga trong kịch Tagore đều không có nhiều nhân vật nữ và tình  
huống kịch chỉ kéo dài trong một ngày và đều là những cuộc thi tài  
hay những cuộc đối đáp mang tính tranh cãi. 
3.3.2.4. Bhana là kiểu kịch thuộc dạng mỗi vở chỉ có một nhân vật 
duy nhất. Tagore đã tuân thủ  đầy đủ  các đặc trưng của kiểu kịch  
Bhana mà Bharati đã liệt kê. Có lẽ  vì bản thân kiểu kịch này đã là  
một dạng độc đáo, phù hợp với tính cách  ưa tìm tòi, thể  nghiệm  
trong sáng tạo nghệ thuật của Tagore với Rasa Hài hước. 
3.3.2.5. Vithi cũng là một kiểu kịch có nhiều yếu tố  mở  và không 

quá chặt chẽ trong quy định về  các đặc trưng. Số  lượng tác phẩm  
kịch Tagore thuộc kiểu này nhiều hơn cả, dường như ông đang tận  
16


dụng độ  mở  của kiểu kịch Vithi để  phản ánh sự  phong phú của 
hiện thực, do đó quy định “một đến hai nhân vật” trong một vở 
kịch chỉ duy trì trong nhóm vũ kịch và nhạc kịch về tự nhiên.
3.3.2.6. Prahasanalà kiểu kịch gần nhất với hài kịch, khai thác yếu  
tố  kệch cỡm và những chi tiết gây cười do những thói hư  tật xấu 
của con người, kịch Tagore thuộc về  dạng nguyên gốc của kiểu  
Prahasana nhưng số  lượng nhân vật không nhiều. Ngoài Rasa Hài  
hước, các vở kịch pha trộn Rasa Cảm thương hoặc Rasa Tức giận.
3.3.2.7. Dima cũng là những vở kịch về các anh hùng, xây dựng trên 
cơ  sở  của những kịch bản nổi tiếng nhưng chú trọng những biến  
cố  hoặc sự  bất hạnh, kiểu Dima trong kịch của Tagore dùng đặc 
điểm của tình huống trong kiểu kịch này để “giải thiêng” cho kiểu  
nhân vật anh hùng nên sử dụng Rasa Ái tình và Hài hước.
CHƯƠNG IV: ALANKARA TRONG
 NGÔN NGỮ KỊCH TAGORE
4.1. Khái niệm Alankara và quan niệm của Tagore về 
Alankara
4.1.1. Một số đặc điểm cơ bản của khái niệm Alankara
Ngay từ  cuốn Natyasastra, Bharati đã đề  cập đến Alakara 
của kịch  ở  chương XVII, nhưng chuyên sâu về  alankara là cuốn  
Kavyalankara của Bhamaha, phân chia các alankara thành hai loại là  
artha­ alankara (tu sức về ngữ nghĩa) và sabda­ alankara (tu sức về 
cấu trúc), và ông cho rằng mỗi tác phẩm  đều gắn kết hai loại  
alankara này. Theo ông, Alankara còn bao gồm các kiểu kịch. 


17


4.1.2. Quan niệm của Tagore về Alankara
Tagore đã hiểu rõ vai trò của hình thức trong thơ ca và cũng  
rất có ý thức đề cao sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tư tưởng, nội  
dung và hình thức của một tác phẩm­ cũng là sự hài hoà giữa Rasa­ 
Dhvani­ Alankara trong một Kavya. Ông nhận thấy sự kết hợp các  
yếu tố của những nền văn hóa khác nhau là một quy luật phổ quát 
và thể hiện trong truyện Những con búp bê mới và cũ.
4.2. Alankara trong ngôn ngữ nhân vật
Ngôn ngữ nhân vật của Tagore có sự khác biệt, thay đổi cả 
về mật độ alankara và tổng lượng lời thoại và lần lượt tỷ lệ thuận 
với bốn yếu tố sau: vai trò của nhân vật trong tác phẩm; vị trí của 
nhân vật trong xã hội; mức cổ  điển của kiểu nhân vật; độ  dài và 
độ  phức tạp của tác phẩm. Sự  kết hợp của bốn yếu tố  này tạo  
thành những quy luật khá ổn định, tạo nên đặc trưng ngôn ngữ kịch  
Tagore.   
4.2.1. Ngôn ngữ của nhân vật nam giới
4.2.1.1. Nhân vật tu sĩ và anh hùng  là hai kiểu nhân vật vừa có vị trí  
cao trong xã hội lại vừa có tính truyền thống nên khi xây dựng họ 
với tư cách là nhân vật chính, nhà văn đã rất hào phóng trong việc  
bố trí các alankara cũng như kiến tạo độ dài cho đối thoại của nhân 
vật.
4.2.1.2. Nhân vật trí thức và người lao động  là những kiểu nhân 
vật hiện đại hơn nên Tagore sử dụng ít alankara trong các câu nói  
hơn và tổng lượng đối thoại của mỗi nhân vật cũng ít hơn hẳn,  
cũng là do họ chỉ  đóng vai trò nhân vật chính  ở  những vở  kịch có 
18



thời lượng ngắn hoặc đóng vai trò nhân vật phụ trong các vở kịch 
dài và phức tạp.
4.2.2. Ngôn ngữ của nhân vật phụ nữ
4.2.2.1. Nhân vật nữ anh hùng và quý tộc là hai kiểu nhân vật có vị 
trí cao trong xã hội và cũng là kiểu nhân vật truyền thống, Tagore 
cũng sử dụng mật độ alankara dày để tạo nên đặc trưng trong ngôn 
ngữ nhân vật, còn tổng lượng đối thoại thì phụ thuộc chặt chẽ hơn  
vào vai trò của nhân vật trong tác phẩm. Nhạc điệu trong ngôn ngữ 
nhân vật nữ quý tộc cũng được chú trọng.
4.2.2.2. Nhân vật phụ  nữ  bình dân  có vị  trí xã hội không cao nên 
Tagore cũng không bố  trí nhiều alankara trong các câu đối thoại. 
Tuy cũng phụ  thuộc vào vai trò trong tác phẩm và độ  dài của tác 
phẩm song thông thường, những nhân này không đóng vai trò nhân 
vật chính trong các vở  kịch dài và phức tạp của Tagore nên tổng 
lượng đối thoại cũng không lớn.
4.2.3. Ngôn ngữ của nhân vật trẻ em
Trẻ em là kiểu nhân vật nằm ngoài ảnh hưởng của vị trí xã  
hội, do đó mật độ alankara và tổng lượng đối thoại của kiểu nhân  
vật này chủ yếu phụ thuộc vào vai trò của nhân vật trong tác phẩm  
và quy mô của tác phẩm. Để  có thể  công diễn cho trẻ  em, ngôn  
ngữ trong mỗi tác phẩm đều khá đơn giản, nhiều tính khẩu ngữ và  
các alankara xuất hiện theo một chủ đích cụ thể của tác giả.
4.3. Alankara trong ngôn ngữ tác giả

19


Có  thể  thấy là ngôn ngữ  tác giả  trong kịch Tagore xuất  
hiện ở ba dạng: dạng thứ nhất, có khối lượng lớn hơn cả, là trong 

vai trò người kể truyện; thứ hai là các lời đề từ ở đầu các vở kịch; 
dạng thứ ba thể  hiện ngầm  ẩn trong cách nhà văn đặt nhan đề  và 
đặt tên cho nhân vật. 
4.3.1. Ngôn ngữ  tác giả  trong vai trò người kể  chuyện  thường 
thấy  ở  những vở  kịch tiếng Anh, Tagore đã không sử  dụng phong  
cách viết văn giàu hình  ảnh mà dùng cách hành văn đơn giản để 
tạo hiệu quả  hơn khi mở  đường cho người nước ngoài tiếp xúc 
với văn hóa Ấn Độ.
4.3.2. Ngôn ngữ tác giả trong đề từ, nhan đề  có ở một số vở kịch  
quan trọng và nổi tiếng của Tagore, ngôn ngữ  tác giả  xuất hiện  ở 
dạng lời đề từ cho tác phẩm. Với những vở kịch tiếng Anh thì ông  
sử  dụng một câu văn xuôi trong khi các vở  kịch tiếng Bengali thì  
lời đề từ lại dưới dạng một bài thơ ngắn.
4.4. Alankara trong thơ ở kịch bản Tagore
4.4.1. Kịch bản văn vần của Tagore thường được cấu tạo dưới hai  
dạng. Thứ nhất là mỗi đoạn đối thoại của các nhân vật là một đến 
hai bài thơ  riêng biệt, một vở  kịch là tập hợp của nhiều bài thơ,  
trong đó, tổng số  lượng các bài thơ  tối thiểu là bằng tổng số  lần 
đối thoại của tất cả  các nhân vật. Dạng thứ  hai là cả  vở  kịch là  
một bài thơ dài.
 4.4.2. Kịch bản văn xuôi của Tagore có những bài thơ  ngắn (mà 
ông gọi là “kavya” hay “song”) được sử  dụng như  những công cụ 
hỗ  trợ  đắc lực, được biểu diễn do dàn đồng ca, thường là những  
20


nhân vật quần chúng trong tác phẩm hoặc nằm trong đối thoại của  
nhân vật, bổ  sung cho lời của nhân vật và góp phần làm nổi bật  
hơn tính cách của nhân vật.
KẾT LUẬN

Từ  khi văn học  Ấn  Độ  bước vào quá trình hiện đại hóa,  
Tagore đã đi đầu quá trình đó bằng cách riêng mà ông lựa chọn. Cách 
riêng  ấy thể  hiện trong những lựa chọn của Tagore, dù là lựa chọn  
những nét truyền thống cần lưu giữ hay những yếu tố hiện đại có thể 
tiếp thu. Với kịch, nét truyền thống được lưu giữ  chủ yếu thể hiện  
trong thi pháp trong khi yếu tố  hiện đại lại rõ nét hơn  ở  tư  tưởng, 
nhân sinh quan của tác giả.
1­Thực vậy, trong kịch Tagore, có thể tìm thấy hầu hết những 
đặc trưng chủ yếu về hình thức của kịch Ấn Độ cổ điển. Mỗi một vở 
kịch, dù thuộc nhóm chủ đề, đề tài nào, cũng được cấu tạo bởi tầng  
tầng các lớp nghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn, trong đó, phần lớn là  
ở dạng nghĩa hàm ẩn trái ngược, tương phản hoặc ít ra cũng rất khác 
biệt so với nghĩa tường minh. Với những vở kịch có cấu trúc phức tạp 
nhất, sự tương phản lại càng rõ rệt. Điều đó dẫn đến hệ quả là: song 
song với quá trình tái sáng tạo kịch bản của tác giả, đối với một số vở 
kịch có sự tương phản rõ rệt giữa nghĩa hàm ẩn và nghĩa tường minh,  
quá trình tiếp nhận của người đọc, người xem cũng có rất nhiều kết 
quả  khác nhau, thậm chí dẫn đến tranh cãi. Thông thường, kết quả 
khác nhau ấy là do sự khác biệt giữa tư duy duy lý và duy cảm, duy 
mỹ, giữa người phương Tây và người phương Đông nói chung cũng 
như   Ấn Độ  nói riêng. Mà điều đáng nói là những vở  kịch này lại là 
những vở nổi tiếng nhất, được đánh giá cao nhất trong sự nghiệp của  
Tagore như Lễ hiến sinh, Ông vua trong phòng tối, Những cây trúc  
21


đào đỏ, Thác nước... Có lẽ  bản thân Tagore cũng đã có ý thức lựa 
chọn những vở  kịch giàu tính tượng trưng hơn cả  này để  tác động  
đến đối tượng tiếp nhận bằng dư âm và sự chiêm nghiệm nhiều hơn 
bằng sự lý giải rõ ràng, bởi vì ông đã chọn dịch những vở  kịch này 

sang tiếng Anh sau nhiều lần thay đổi kịch bản.
Và cũng có lẽ  vì tuân theo truyền thống của kịch  Ấn Độ,  
Tagore đã chú trọng hơn đến những vở kịch được cấu tạo theo lối  
tương phản giữa nghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn hơn. Chúng tôi  
cho rằng có những biểu hiện cho thấy bản thân Tagore quan tâm 
hơn đến một số  vở  kịch bằng cách: dịch sang tiếng Anh; tái sáng 
tạo nhiều lần đồng thời lấy nhiều nhan đề  khác nhau; chọn công 
diễn nhiều hơn cả  (khi ông còn sống); đóng vai trò diễn viên trên 
sân khấu... Mà những vở  kịch có các biểu hiện trên đây lại đều  
thuộc dạng tương phản giữa hai loại nghĩa. Hơn thế nữa, dễ thấy 
là độ phức tạp (do số lượng và sự tương phản giữa các lớp nghĩa)  
lại tỷ  lệ  thuận với độ  dài của mỗi vở  kịch. Sự  nhất quán giữa  
nghĩa tường minh và nghĩa hàm  ẩn thường chỉ  gặp  ở  các vở  kịch  
thơ   ngắn   hoặc   ca   kịch,   vũ   kịch.   Như   vậy   là   tiêu   chí   cơ   bản 
Anandavarhana đã nêu ra trong cuốn  Dhvanyaloka  (những vở  kịch 
có giá trị  là những vở  có nhiều lớp nghĩa hàm  ẩn và có sự  tương  
phản giữa các lớp nghĩa) lại phù hợp để  đánh giá kịch Tagore. Có  
thể  nói, trong những tháng năm dài tìm tòi tự  học về  nền văn hóa 
quê hương, những tinh hoa của thi pháp  Ấn Độ  đã ngấm sâu vào 
Tagore, dần dần trở thành yếu tố căn bản tạo nên ý thức trong sáng 
tạo nghệ thuật của ông.
Sự  kế  thừa thi pháp  Ấn Độ  cổ  điển trong kịch Tagore còn 
thể  hiện  ở   các  dạng  kịch mà  ông  lựa chọn.   Như   ở  chương  III  
chúng tôi đã khẳng định, toàn bộ  những vở  kịch đã công bố  của  
22


Tagore đều nằm trọn vẹn trong những kiểu kịch mà Bharati đã liệt  
kê. Nhiều vở  trong số đó phù hợp hoàn toàn với những đặc trưng 
của các kiểu kịch  ấy đến mức có thể  coi là ví dụ  mẫu mực cho 

mỗi kiểu. Bởi lẽ, Tagore đã triển khai các kiểu kịch trên với những  
kiểu nhân vật cổ  điển của  Ấn Độ  như  nhân vật anh hùng, tu sĩ,  
phụ  nữ  với vai trò truyền thống... đồng thời để  cho những kiểu  
nhân vật ấy hoạt động trong các tình huống mang tính truyền thống 
vốn quen thuộc đối với văn học Ấn. Bằng cách đó, dù có ý thức hay 
không, nhà văn đã kế  thừa và phát triển thêm kịch  Ấn Độ  truyền  
thống.
Sự  kế thừa  ấy còn thể  hiện rõ nét hơn trong cách nhà văn  
sử dụng ngôn ngữ kịch. Bởi lẽ ngôn ngữ kịch của Tagore là sự kết 
hợp của văn thơ, âm nhạc và các vũ điệu. Điều này là một truyền  
thống của sân khấu  Ấn Độ, nhưng cái đáng nói là Tagore đã sử 
dụng sự  kết hợp  ấy  ở  một tỷ  lệ  cao và cũng bằng một mức độ 
điêu luyện cao. Nói một cách khác, ông đã hoàn thiện một  đặc  
điểm   truyền  thống  của  kịch   Ấn  Độ   để   biến  nó   thành  một   đặc 
trưng vững bền của thể  loại kịch trong khi  Ấn Độ  bước vào thời 
kỳ  hiện đại hóa với rất nhiều sự  rạn vỡ  của các thể  loại truyền 
thống do sự   ảnh hưởng của văn hóa phương Tây. Hơn thế  nữa,  
ông không chỉ   áp dụng  phương  pháp này  trong kịch bằng  tiếng 
Bengali mà còn với cả kịch bằng tiếng Anh. Bằng cách đó, Tagore 
đã kín đáo khẳng định tính nguyên hợp trong ngôn ngữ kịch Ấn Độ 
không chỉ phù hợp với mọi ngôn ngữ, cho dù đó là thứ ngôn ngữ có 
nguồn gốc phương Tây, mà còn phù hợp với mọi thời đại.
2­Cũng trong chính những nhân tố được Tagore sử dụng để 
khẳng định những nét văn hóa truyền thống của  Ấn Độ, quá trình 
hiện đại hóa văn học  Ấn Độ  đã khởi phát. Ở  ngôn ngữ  kịch, việc  
23


sáng tác bằng tiếng Anh là bước thử  nghiệm tất yếu của Tagore,  
bởi lẽ ông cũng nhận thức được rằng: dùng tiếng Anh để sáng tác 

văn học cũng đạt tới mục đích xóa nhòa những ranh giới do khác  
biệt ngôn ngữ trên chính đất nước ông đồng thời khiến cho những 
thông điệp của ông dễ  dàng đến với thế  giới hơn. Theo trình tự 
thời gian, Tagore đi từ  việc sáng tác kịch bằng tiếng Bengali đến  
dịch kịch của mình sang tiếng Anh và sáng tác bằng tiếng Anh ngay 
từ  bản gốc của vở kịch. Đó cũng chính là bước khởi đầu cho văn 
học bằng tiếng Anh ở Ấn Độ ngày nay.
Còn trong kiểu kịch và kiểu nhân vật, hiện đại hóa lại nằm  
ở  mức vi mô hơn, tức là  ở  một số  đặc điểm riêng của từng kiểu  
kịch cũng như từng kiểu nhân vật trong quan điểm của tác giả. Quá  
trình giải thiêng các kiểu nhân vật truyền thống như nhân vật anh  
hùng, nhân vật tu sĩ song song với quá trình thử  nghiệm kiểu nhân  
vật mới như nhân vật trí thức chính là hai mặt của vấn đề này. Bên  
cạnh đó, Tagore đã tạo nên cho các kiểu nhân vật đã được hiện đại  
hóa của mình một môi trường hoạt động phù hợp hơn, rộng mở 
hơn bằng việc cải tiến những kiểu kịch đã cũ, nặng nề  và cứng  
nhắc, đồng thời tăng cường sáng tác những kiểu kịch có yếu tố 
mở, gọn nhẹ và linh hoạt. Nếu theo dõi những vở kịch của Tagore 
theo trình tự thời gian, có thể thấy là những kiểu kịch có yếu tố mở 
của Tagore xuất hiện với tỷ lệ cao hơn trong những thập niên cuối  
cùng của cuộc đời ông, đặc biệt là sau giải Nobel năm 1913. Điều 
đó cho thấy Tagore có ý thức rất rõ ràng về đường hướng hiện đại 
hóa mà ông đã lựa chọn.
Điều đáng nói là, có thể  dễ  dàng tìm đến cội nguồn của  
lựa chọn đường hướng này khi hệ thống hóa những phát ngôn của  
Tagore cũng như  những đề  tài mà ông theo đuổi. Chính nhân sinh 
24


quan của Tagore đã khiến ông lựa chọn cách phát triển các nhóm  

đề  tài kịch trong suốt sự nghiệp sáng tác. Và cũng chính nhân sinh  
quan là cơ sở cho Tagore lựa chọn những yếu tố cần hiện đại hóa  
trong những vở  kịch của mình. Ca ngợi phụ  nữ  bằng thiên chức 
của chính họ, Tagore ca ngợi đức hy sinh, sự quả  cảm của những  
nữ anh hùng và mô tả những phụ nữ trong vai trò truyền thống với  
sự  tự  tin, cá tính, thông minh... Đề  cao tự  do tín ngưỡng, Tagore 
xây dựng hình tượng những tu sĩ của đạo Phật để  tạo thành đối 
trọng với kiểu nhân vật tu sĩ Bà la môn vốn đã có vị  trí cao trong 
văn học  Ấn Độ  từ  lâu. Coi trọng sự  tiến bộ  của xã hội hơn là  
quyền lợi riêng của một chính thể, Tagore coi trọng những trí thức  
có đủ bản lĩnh chống chọi lại quá trình hòa tan vào văn hóa phương  
Tây hơn là những hiểu biết về khoa học và công nghệ. Tôn vinh sự 
thánh thiện của những tâm hồn trẻ thơ, Tagore tôn vinh trẻ em như 
những   thiên   thần   có   sức   mạnh   cứu   rỗi   trong   cuộc   sống   thực.  
Khẳng định sự  hiện tồn của “cái khác biệt”, Tagore tạo nên dáng 
dấp những anh hùng bằng sự hòa hợp giữa bổn phận và tình cảm  
theo cảm quan riêng của người  Ấn Độ... Một khi bắt nguồn từ tư 
tưởng như  vậy, quá trình hiện đại hóa còn hơn cả  một ý thức,  ở 
Tagore, đó còn là đích đến với sự  nghiệp văn học của riêng ông 
cũng   như   của   quê   hương,   của   thời   đại   mà   ông   đang   sống.   Sự 
nghiệp nghệ thuật của Tagore nói chung và kịch Tagore nói riêng là  
sự nhất quán trong đa dạng, là sự ổn định trong cả quá trình, do đó,  
ông từng bước vững chãi đi đến đích cuối đã được lựa chọn: hiện 
đại hóa bằng cách nâng tư  tưởng của bản thân lên tầm vóc nhân 
loại.
3­`Để   thấy   hết   sự   nhất   quán   trong   đa   dạng   của   kịch  
Tagore, Rasa, Dhvani và Alankara là những công cụ  tối  ưu. Các 
25



×