Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Luận văn Thạc sỹ Khoa học kinh tế: Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 100 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Khu vực DNVVN luôn được xem là một bộ phận quan trọng của nền kinh 
tế  quốc dân. Khu vực này đóng một vai trò hết sức quan trọng và ngày càng thu  
hút sự quan tâm của xã hội. Các DNVVN có nhiều tiềm năng, thu hút các nguồn 
lực của xã hội để  tạo thêm động lực cho quá trình phát triển, là đầu mối quan 
trọng của các kênh đầu tư và tiêu dùng, là khu vực tạo ra một số lượng lớn công 
ăn việc làm, góp phần giải quyết tốt các vấn đề kinh tế ­ xã hội của quốc gia. 
Thị  xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế  nằm trong vùng kinh tế  trọng 
điểm miền Trung, có một vị trí quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế  ­ xã 
hội và bảo đảm an ninh quốc phòng của địa phương và đất nước. Tuy nhiên, tăng  
trưởng kinh tế  của thị  xã vẫn chưa thực sự  bền vững, chưa tương xứng với  
những tiềm năng và thế mạnh hiện có. Trong đó, sự  phát triển của các DNVVN  
trên địa bàn thị  xã vẫn chưa thực sự  bền vững bởi những khó khăn, hạn chế 
mang tính đặc trưng và lâu dài của khu vực này. Vì vậy, việc tìm hiểu thực trạng 
phát triển của khu vực kinh tế  này và từ  đó tìm ra những giải pháp thích hợp  
nhằm hướng các DNVVN trên địa bàn thị  xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế 
đi vào hoạt động có hiệu quả, đồng thời thúc đẩy các DNVVN củng cố  sức  
mạnh, tăng trưởng và phát triển bền vững là một nhiệm vụ  cấp bách trong thời 
gian tới. Giải quyết được vấn đề  này sẽ là chìa khóa để  kinh tế  ­ xã hội của thị 
xã Hương Thủy phát triển một cách đúng hướng và bền vững.
Nhận thức được điều đó, tôi đã chọn đề tài: “Phát triển doanh nghiệp vừa  
và nhỏ trên địa bàn thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế ” để làm đề tài 
nghiên cứu cho luận văn của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung

1



Nghiên cứu thực trạng và đề xuất các giải pháp phát triển của các DNVVN  
trên địa bàn thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế. 
2.2. Mục tiêu cụ thể
­  Hệ  thống  hóa  những lý luận và  thực  tiễn,  kinh nghiệm  về   phát  triển  
DNVVN.
­ Đánh giá thực trạng phát triển của các DNVVN trên địa bàn thị  xã trong  
thời gian qua (2009 – 2011).
­ Đề xuất phương hướng và giải pháp phát triển DNVVN trên địa bàn thị xã 
Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2015.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: 
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề về phát triển DNVVN.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
* Về  không gian: Các DNVVN trên địa bàn thị  xã Hương Thủy, tỉnh Thừa 
Thiên Huế.
* Về thời gian:  Đề  tài nghiên cứu thực trạng phát triển của các DNVVN 
trên đị a bàn thị  xã Hươ ng Thủy trong giai đoạ n 2009 – 2011 và hướ ng phát 
triển đến 2015.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để  đạt được mục tiêu nghiên cứu mà đề  tài đặt ra, trong quá trình nghiên  
cứu tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
5.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Phương pháp này được áp dụng để  tìm hiểu, nghiên cứu, phân tích các tài 
liệu, giáo trình liên quan đến đề  tài nghiên cứu. Đặc biệt, tập trung vào các tài 
liệu về lý thuyết phát triển doanh nghiệp, phát triển DNVVN. 
5.2. Phương pháp thu thập số liệu

2



­ Số liệu thứ  cấp: Luận văn đã sử  dụng các số  liệu thứ  cấp đã được công 
bố như: Niên giám thống kê từ năm 2009 đến năm 2012 của Chi cục thông kê thị 
xã Hương Thủy và Cục thống kê tỉnh Thừa Thiên Huế,  số liệu ở Sở Kế hoạch 
và Đầu tư tỉnh Thừa Thiên Huế và các báo cáo tổng kết hàng năm của UBND thị 
xã Hương Thủy. Các số liệu được công bố trên các báo, các tạp chí và trên mạng  
internet.
­ Số liệu sơ cấp: Căn cứ trên cơ sở xây dựng bảng câu hỏi điều tra DNVVN  
thuộc các loại hình doanh nghiệp và các lĩnh vực kinh doanh nhằm thu thập ý  
kiến đánh giá của các DNVVN. Bảng câu hỏi điều tra được thiết kế  như  sau:  
Đầu tiên là phần giới thiệu và mục đích của đề tài nghiên cứu; phần tiếp theo là  
những nội dung của bảng câu hỏi về  tình hình phát triển và các nhân tố   ảnh 
hưởng đến sự phát triển của DNVVN; và phần cuối là những thông tin về doanh  
nghiệp điều tra. Bảng hỏi được thiết kế rõ ràng và có hướng dẫn cụ thể tránh để 
người đánh giá không hiểu nội dung hoặc trả lời sai.
5.3. Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả  đã thu thập thông tin từ  các chuyên gia, 
chuyên viên có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh tế trên địa bàn và các nhân  
viên, cán bộ thuộc Phòng Kinh tế thị xã Hương Thủy  nhằm có những luận cứ cơ 
bản làm cơ sở tiền đề thuyết phục về mặt khoa học và thực tiễn của địa phương 
để đề xuất đưa ra những giải pháp phù hợp, có tính khả thi.
5.4. Phương pháp tổng hợp và xử lý số liệu
­ Đối với các số liệu thứ cấp: Số  liệu thứ  cấp thu thập được tổng hợp và 
kiểm tra tính xác thực trước khi sử dụng. Các số liệu thứ cấp được tính toán theo 
phương pháp phân tích kinh tế để thấy rõ thực trạng hoạt động và phát triển của 
DNVVN.
­ Đối với số liệu sơ cấp: toàn bộ bảng hỏi điều tra sau khi hoàn thành được 
phân loại rõ ràng và được phân tích, xử  lý bằng Microsoft Excel. Tùy từng mục  
tiêu của luận văn mà có những phương pháp phân tích khác nhau.

3



5.5. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu
Đối với các doanh nghiệp nói chung và DNVVN nói riêng, mục tiêu kinh tế 
là nhiệm vụ  trọng tâm, nó quyết định đến sự  tồn tại và phát triển của doanh 
nghiệp. Do đó, việc đánh giá kết quả và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh  
của các DNVVN là rất cần thiết cho việc xây dựng phương hướng và các giải 
pháp phát triển doanh nghiệp. 
Hiệu quả  là một phạm trù phản ánh mối quan hệ giữa kết quả với chi phí 
mà doanh nghiệp bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh. Hiệu quả kinh tế cao 
hay thấp nói lên trình độ phát triển và quản lý của doanh nghiệp, vì vậy đánh giá 
hiệu quả là rất cần thiết. Để đánh giá có thể dựa vào các chỉ tiêu: Doanh thu, giá  
vốn, chi phí, lợi nhuận, vốn cố định, vốn lưu động, các khoản nợ… Dựa trên các 
chỉ  tiêu này xây dựng hệ  thống các chỉ  tiêu đánh giá kết quả  và hiệu quả  hoạt 
động SXKD của doanh nghiệp.
6. Đóng góp khoa học của luận văn
Kết quả  nghiên cứu của đề  tài luận văn có thể  làm cơ  sở  cho địa phương 
đưa ra các giải pháp phát triển DNVVN trên địa bàn thị xã, tỉnh, làm tài liệu tham 
khảo cho sinh viên ngành kinh tế  chính trị  và những ai quan tâm muốn tìm hiểu  
về vấn đề phát triển DNVVN. Đồng thời cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho  
các DNVVN trên địa bàn thị xã, tỉnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở  đầu, kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo,  
nội dung của luận văn gồm ba chương như sau:
Chương 1: Cơ  sở  lý luận và thực tiễn về  phát triển doanh nghiệp vừa và  
nhỏ
Chương 2: Thực trạng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ  trên địa bàn thị 
xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế 
Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ 
trên địa bàn thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế 


4


B. PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
 DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1. Khái niệm và phân loại doanh nghiệp 
1.1.1. Khái niệm 
Doanh nghiệp là thuật ngữ  có nguồn gốc từ  lĩnh vực kinh tế  học. Doanh  
nghiệp như  một phương tiện  để  thực hiện ý tưở ng kinh doanh. Muốn kinh 
doanh, mỗi cá nhân phải lựa chọn cho mình một loại hình doanh nghiệp mà  
pháp luật quy định.
Theo   quy   định   của   Luật   Doanh   nghiệp   2005,   thì   “Doanh   nghiệp   là   tổ 
chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch  ổn định, đượ c đăng ký  
kinh doanh theo quy  định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt  
động kinh doanh”.[22]
Căn cứ vào quy định này thì doanh nghiệp có những đặc điểm sau:
­ Là đơn vị  kinh tế, hoạt động trên thương trường, có trụ  sở  giao dịch  ổn 
định, có tài sản.

5


­ Đã được đăng ký kinh doanh.
­ Hoạt động kinh doanh.
Và theo điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005 thì “Kinh doanh là việc thực hiện  
một, một số  hoặc tất cả  các công đoạn của quá trình đầu tư, từ  sản xuất đến  
tiêu thụ  sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ  trên thị  trường nhằm mục đích sinh 

lợi”.[22]
Ngoài ra, cũng có một số quan điểm khác về khái nhiệm doanh nghiệp, như
­ Theo quan điểm nhà tổ  chức: Doanh nghiệp là một tổng thể  các phương  
tiện, máy móc thiết bị  và con người được tổ  chức lại nhằm đạt một mục đích. 
[20]
­ Theo quan điểm lợi nhuận: Doanh nghiệp là một tổ chức sản xuất, thông 
qua đó, trong khuôn khổ  một tài sản nhất định, người ta kết hợp nhiều yếu tố 
sản xuất khác nhau, nhằm tạo ra những sản phẩm và dịch vụ  để  bán trên thị 
trường và thu khoản chênh lệch giữa giá thành và giá bán sản phẩm. [20]
­ Theo quan điểm chức năng: Doanh nghiệp là một đơn vị  sản xuất kinh  
doanh nhằm thực hiện một, một số, hoặc tất cả  các công đoạn trong quá trình 
đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện các dịch vụ nhằm mục  
đích sinh lợi. [20]
­ Và theo quan điểm lý thuyết hệ thống: Doanh nghiệp là một bộ phận hợp  
thành trong hệ thống kinh tế, mỗi đơn vị trong hệ thống đó phải chịu sự tác động 
tương hỗ lẫn nhau, phải tuân thủ những điều kiện hoạt động mà nhà nước đặt ra  
cho hệ thống kinh tế đó nhằm phục vụ cho mục đích tiêu dùng của xã hội. 
“Doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất kinh doanh được tổ  chức, nhằm tạo  
ra sản phẩm và dịch vụ đáp  ứng nhu cầu tiêu dùng trên thị  trường, thông qua đó 
để tối đa hóa lợi nhuận trên cơ sở tôn trọng luật pháp của nhà nước và quyền lợi 
chính đáng của người tiêu dùng”. [20]
1.1.2. Phân loại

6


Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định bốn loại hình doanh nghiệp hoạt 
động tại Việt Nam hiện nay, đó là: công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp 
danh và doanh nghiệp tư nhân.
1.1.2.1. Doanh nghiệp tư nhân

Theo Điều 141 Luật doanh nghiệp năm 2005, doanh nghiệp tư nhân là doanh 
nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ  tài sản của 
mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. [22]
Từ quy định trên chúng ta thấy doanh nghiệp tư nhân gồm những đặc điểm  
cơ bản sau:
Một là: Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân đầu tư  vốn  
thành lập và làm chủ. Chủ sở hữu tài sản của doanh nghiệp là một cá nhân. Bởi  
vậy mà chủ  doanh nghiệp tư  nhân có toàn quyền quyết định những vấn đề  liên 
quan tới quản lý doanh nghiệp, thuê người khác điều hành ( trong trường hợp này 
phải khai báo với cơ  quan đăng ký kinh doanh và vẫn phải chịu trách nhiệm về 
mọi hoạt động của doanh nghiệp), có quyền cho thuê toàn bộ doanh nghiệp, bán 
doanh nghiệp, tạm ngừng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp theo quy định 
của pháp luật.
Hai là: Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân bởi vì tài sản của 
doanh nghiệp không tách bạch rõ ràng với tài sản của chủ doanh nghiệp. Tài sản 
mà chủ  doanh nghiệp đầu tư  vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tư 
nhân không phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu cho doanh nghiệp.
Ba là: Doanh nghiệp tư  nhân là doanh nghiệp chịu trách nhiệm vô hạn về 
các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp.
1.1.2.2. Công ty Trách nhiệm hữu hạn 
* Công ty TNHH một thành viên
Công ty TNHH một thành viên là doanh nghiệp có những đặc điểm chung 
sau đây:

7


­ Chủ  sở  hữu công ty phải là một tổ  chức hoặc cá nhân và có thể  là: Cơ 
quan nhà nước, đơn vị vũ trang, các pháp nhân của các tổ  chức chính trị, tổ chức  
chính trị  – xã hội, tổ  chức xã hội, tổ  chức xã hội nghề  nghiệp, các loại doanh 

nghiệp, các tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
­ Chủ sở hữu công ty có quyền chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần vốn  
điều  lệ   cho  tổ   chức   hoặc   cá   nhân  khác   theo  quy   định   về   chuyển   đổi  doanh 
nghiệp.
­ Công ty không được phát hành cổ phần.
­ Công ty có tư  cách pháp nhân và chủ  sở  hữu công ty chịu trách nhiệm 
hữu hạn đối với kết quả kinh doanh c ủa công ty trong phạm vi s ố v ốn điều lệ 
của công ty. [22]
*  Công ty TNHH hai thành viên trở lên
Công ty TNHH  hai thành viên trở  lên là doanh nghiệp có những đặc điểm 
chung sau đây:
­ Hình thức sở  hữu của công ty là thuộc hình thức sở  hữu chung của các 
thành viên công ty.
­ Thành viên của công ty có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành viên mỗi  
công ty không ít hơn hai và không vượt quá năm mươi.
­ Công ty không được quyền phát hành cổ phần.
­ Công ty là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân và chịu trách nhiệm hữu hạn  
về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp. [22]
1.1.2.3. Công ty cổ phần
Công ty cổ phần là doanh nghiệp có những đặc điểm chung sau đây:
­ Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần.
­ Cổ  đông có thể  là tổ  chức, cá nhân; số  lượng cổ  đông tối thiểu là ba và  
không hạn chế tối đa.
­ Công ty cổ  phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để  huy động 
vốn, theo quy định của pháp luật về chứng khoán.

8


­ Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân và là doanh nghiệp chịu trách nhiệm 

hữu hạn, cổ đông của công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ 
tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.  
[22]
1.1.2.4. Công ty hợp danh
Công ty hợp danh là doanh nghiệp có những đặc điểm chung sau đây:
­ Phải có ít nhất hai thành viên hợp danh; ngoài các thành viên hợp danh còn 
có thành viên góp vốn.
­ Thành viên hợp danh phải là cá nhân có trình độ chuyên môn và uy tín nghề 
nghiệp và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ 
của công ty (Trách nhiệm vô hạn).
­ Thành viên góp vốn chỉ  chịu trách nhiệm về  các khoản nợ  của công ty  
trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
­ Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân.
­ Công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
Như  vậy, công ty hợp danh có hai loại: Công ty hợp danh mà tất cả  các 
thành viên đều là thành viên hợp danh và công ty hợp danh có cả thành viên hợp 
danh và thành viên góp vốn. [22]

1.2. Doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2.1. Khái niệm
Nhiều chuyên gia kinh tế  và pháp luật của Việt Nam cho rằng, khái niệm 
DNVVN và sau đó khái niệm doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ được du nhập từ bên 
ngoài vào Việt Nam. Vấn đề tiêu chí doanh nghiệp vừa, nhỏ và cực nhỏ là trung 
tâm của nhiều cuộc tranh luận về sự phát triển của khu vực này trong nhiều năm  
qua. Định nghĩa về  doanh nghiệp nhỏ  và vừa, doanh nghiệp nhỏ  và cực nhỏ  rõ  

9


ràng phải dựa trước tiên vào quy mô doanh nghiệp. Thông thường đó là tiêu chí 

về  số  nhân công, vốn đăng kí, doanh thu..., các tiêu chí này thay đổi theo từng 
quốc gia, từng chương trình phát triển khác nhau.
Ở Việt Nam, định nghĩa về DNVVN được quy định và hoàn thiện theo quá 
trình phát triển kinh tế  ­ xã hội của đất nước. Đầu tiên là  Công văn của Chính  
phủ  số  681/CP­KTN ngày 20 tháng 6 năm 1998 về  việc định hướng chiến lược  
và chính sách phát triển các DNVVN, theo đó DNVVN là là những doanh nghiệp  
có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và có số  lao động trung bình hàng năm dưới 200  
người. [9]
Tiếp đến là Nghị  đị nh của Chính phủ  số  90/2001/NĐ­CP ngày 23 tháng 
11 năm 2001 v ề  tr ợ  giúp phát triển DNVVN  đã đưa ra đị nh nghĩa DNVVN 
như  sau: “Doanh nghi ệp nh ỏ  và vừ a là cơ  sở  sản xuất, kinh doanh độc lậ p,  
đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10  
tỷ đồng hoặc s ố lao động trung bình hàng năm không quá 300 ngườ i”. [10]
Và hiện nay, khái niệm DNVVN  đượ c căn cứ  theo Nghị đị nh củ a Chính 
phủ   số   56/2009/NĐ­CP  ngày  30  tháng  06  năm  2009  về   trợ   giúp  phát  triển 
DNVVN. Cụ th ể, đị nh nghĩa DNVVN đượ c quy định như  sau: “Doanh nghi ệp  
nhỏ  và vừa là cơ  sở  kinh doanh  đã đăng ký kinh doanh theo quy  định pháp 
luật, đượ c chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổ ng nguồn vốn  
(tổng nguồn v ốn tươ ng đươ ng tổ ng tài sả n đượ c xác đị nh trong bả ng cân đố i 
kế toán của doanh nghi ệp) ho ặc s ố lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn  
là tiêu chí ưu tiên), cụ thể như sau”: [11]
Quy mô
 
 
Khu vực

Doanh 

Doanh nghiệp nhỏ


Doanh nghiệp vừa

nghiệp siêu 
nhỏ
Số 

Tổng 

Số 

Tổng nguồn 

Số 

lao động

nguồn vốn

lao động

vốn

lao động

10


I. Nông, lâm  10 người trở  20 tỷ đồng  từ trên 10 

từ trên 20 tỷ  từ trên 200 


nghiệp và

xuống 

đồng đến 

thủy sản
II. Công 

200 người
10 người trở  20 tỷ đồng  từ trên 10 

100 tỷ đồng 300 người
từ trên 20 tỷ  từ trên 200 

nghiệp và

xuống 

đồng đến 

trở xuống

trở xuống

người đến 

người đến 


 xây dựng
200 người
III. Thương  10 người trở  10 tỷ đồng  từ trên 10 
mại và dịch  xuống 

trở xuống

người đến 

100 tỷ đồng 300 người
từ trên 10 tỷ  từ trên 50 

người đến 50 đồng đến 50  người đến 
người

vụ

người đến 

tỷ đồng

100 người

1.2.2. Tiêu chí xác định DNVVN
Trên thế giới, định nghĩa về DNVVN được hiểu và quy định khác nhau tuỳ 
theo từng nơi. Các tiêu chí để phân loại DN có hai nhóm: tiêu chí định tính và tiêu 
chí định lượng. 
* Nhóm tiêu chí định tính dựa trên những đặc trưng cơ  bản của DN như 
chuyên môn hoá thấp, số  đầu mối quản lý ít, mức độ  phức tạp của quản lý 
thấp... Các tiêu chí này có  ưu thế là phản ánh đúng bản chất của vấn đề  nhưng  

thường khó xác định trên thực tế. Do đó chúng thường được dùng làm cơ  sở  để 
tham khảo trong kiểm chứng mà ít được sử dụng để phân loại trong thực tế. 
* Nhóm tiêu chí định lượng có thể dựa vào các tiêu chí như số lao động, giá 
trị tài sản hay vốn, DT, lợi nhuận. Trong đó:
­ Số lao động: có thể lao động trung bình trong danh sách, lao động thường 
xuyên, lao  động thực tế.
­ Tài sản hay vốn: có thể  là tổng giá trị  tài sản (hay vốn), tài sản (vốn) cố 
định, giá trị tài sản còn lại.
­ Doanh thu: có thể  là tổng doanh thu/năm, tổng giá trị  gia tăng/năm (hiện 
nay có xu hướng sử dụng chỉ số này).
Trong các nước APEC tiêu chí được sử dụng phổ biến nhất là số lao động.  
Còn một số  tiêu chí khác thì tuỳ  thuộc vào điều kiện từng nước. Tuy nhiên sự 

11


phân loại DN theo quy mô lại thường chỉ mang tính tương đối và phụ  thuộc vào  
nhiều yếu tố như:
Trình độ  phát triển kinh tế của một nước:  Trình độ phát triển càng cao thì 
trị  số các tiêu chí càng tăng lên. Ví dụ như một DN có 400 lao động ở  Việt Nam  
không được coi là DNVVN nhưng lại được tính là SME ở CHLB Đức. Ở một số 
nước có trình độ phát triển kinh tế thấp thì các chỉ số về lao động, vốn để  phân  
loại DNVVN sẽ thấp hơn so với các nước phát triển.
Tính chất ngành nghề:  Do đặc điểm của từng ngành, có ngành sử  dụng 
nhiều lao động như dệt, may, có ngành sử dụng ít lao động nhưng nhiều vốn như 
hoá chất, điện... Do đó cần tính đến tính chất này để    có sự  so sánh đối chứng 
trong phân loại các SME giữa các ngành với nhau. Trong thực tế,  ở nhiều nước,  
người ta thường phân chia thành   hai đến ba nhóm ngành với các tiêu chí phân 
loại khác nhau. 
Vùng lãnh thổ:  Do trình độ  phát triển khác nhau nên số  lượng và quy mô  

doanh nghiệp cũng khác nhau. Do đó, cần tính đến cả  hệ  số  vùng để  đảm bảo 
tính tương thích trong việc so sánh quy mô doanh nghiệp giữa các vùng khác  
nhau. 
1.2.3. Đặc điểm của DNVVN
­ Là những DN có quy mô vốn và lao động nhỏ, đây thường là những DN  
khởi sự  thuộc thành phần kinh tế  tư  nhân. Với quy mô vừa và nhỏ  nên các DN 
khu vực này   rất linh hoạt,  ứng biến nhanh nhạy với sự  biến đổi nhanh chóng 
của thị  trường, phù hợp với điều kiện sử  dụng các trình độ  kỹ  thuật khác nhau 
như  thủ  công, nửa cơ khí, cơ khí để sản xuất ra những sản phẩm thích ứng với  
yêu cầu của nhiều tầng lớp dân cư có thu nhập khác nhau.
­ Dễ  khởi nghiệp, phát triển rộng khắp  ở  cả  thành thị  và nông thôn, thông 
thường để  thành lập một DNVVN chỉ  cần vốn đầu tư  lúc đầu không lớn, mặt 
bằng sản xuất kinh doanh nhỏ hẹp, quy mô nhà xưởng vừa phải. Đặc điểm này 
làm cho DNVVN năng động, phát triển ở khắp mọi nơi, mọi lĩnh vực; nó lấp vào 

12


khoảng trống và thiếu vắng của các DN lớn, tạo điều kiện cho nền kinh tế quốc  
dân khai thác được mọi tiềm năng và tạo ra một thị trường cạnh tranh lành mạnh  
hơn.
­ Khu vực kinh tế này được xem là trụ cột của kinh tế địa phương, nếu như 
các   DN   lớn  thường  đặt  cơ   sở   ở   những  trung tâm  kinh  tế  của   đất nước,   thì 
DNVVN lại có mặt ở khắp các địa phương, các vùng và đã đóng góp quan trọng 
vào thu ngân sách, vào sản lượng và tạo công ăn việc làm ở địa phương. 
­ Khai thác và huy động các nguồn lực và tiềm năng tại chỗ  của các địa 
phương   và   các   nguồn   tài   chính   của   dân   cư   trong   vùng.   Việc   thành   lập   các 
DNVVN không đòi hỏi quá nhiều vốn, nhất là với các DN quy mô nhỏ. Điều này  
sẽ tạo cơ hội cho đông đảo các tầng lớp dân cư có thể tham gia đầu tư, việc đẩy 
mạnh phát triển các loại hình DNVVN được coi là phương tiện có hiệu quả 

trong việc huy động vốn, sử  dụng các khoản tiền đang phân tán, nằm im trong  
dân cư thành các khoản vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh.
­ Khả  năng quản lý của chủ  DN và trình độ  tay nghề  của người lao động  
thấp. Quản trị nội bộ của các DNVVN thường mang tính gia đình, người chủ sở 
hữu thường cũng đồng thời là người quản lý, là người quản đốc, là người cán bộ 
kỹ thuật,… của DN. Nói cách khác người chủ trong các DNVVN ở nước ta cùng 
một lúc thực hiện hàng loạt vai trò và chức năng khác nhau trong tổ  chức kinh 
doanh của DN. Ngoài quan hệ  góp vốn kinh doanh, họ  còn có quan hệ  huyết  
thống, họ hàng, bạn bè hết sức thân thiết. Do đó, kỹ năng quản trị nội bộ rất yếu 
kém, thiếu cơ bản, chỉ dựa vào kinh nghiệm kinh doanh của bản thân. Lao động  
trong các DNVVN thường là lao động phổ thông, ít được đào tạo, thiếu kỹ năng, 
trình độ văn hoá thấp, đặc biệt với các DN có quy mô nhỏ.
­ Khả  năng về  công nghệ  kém do không đủ  tài chính cho đầu tư , nhiều 
DNVVN có những công nghệ  tiến ti ến nh ưng không đủ  tài chính cho việc  
nghiên cứu triển khai nên không thể  hình thành công nghệ  mới hoặc b ị  các 
DN lớn mua v ới giá rẻ. Tuy nhiên, các DNVVN rất linh ho ạt trong vi ệc thay  

13


đổi công nghệ  sản xuất do giá trị  của dây chuyền công nghệ  thườ ng thấp và 
họ thườ ng có những sáng kiến  đổi mới công nghệ phù hợp với quy mô của DN 
mình từ những công nghệ cũ và lạc hậu. Vì vậy, đã tạo nên sự khác biệt về sản 
phẩm để các DNVVN có thể tồn tại trên thị trường.
­ Ngoài ra, các DNVVN có khả  năng tiếp cận thị  trường kém, đặc biệt 
đối   với   thị   trường   nước   ngoài.   Nguyên   nhân   chủ   yếu   là   do   các   DNVVN  
thường là những DN mới hình thành, khả  năng tài chính cho các hoạt động  
marketing không có và họ  cũng chưa có nhiều khách hàng truyền thống. Thêm 
vào đó, quy mô thị  trường của các DN này thường bó hẹp trong phạm vi địa 
phương, việc mở rộng ra các thị trường mới là rất hạn chế, khó khăn.

1.2.4. Vai trò của DNVVN
Các DNVVN góp phần quan trọng trong quá trình giải phóng và phát triển  
lực lượng sản xuất, huy động và phát huy được nội lực vào xây dựng và phát 
triển kinh tế  ­ xã hội. Góp phần đáng kể  vào phục hồi và tăng trưởng kinh tế, 
tăng thu ngân sách, tạo nhiều việc làm, xoá đói giảm nghèo và giải quyết các vấn  
đề xã hội khác của đất nước. Vì vậy, vai trò của DNVVN ngày càng quan trọng  
đối với nền kinh tế ­ xã hội của Việt Nam và nó được thể hiện trên các mặt sau: 
­  Các  DNVVN đóng góp quan trọng vào tốc độ  tăng trưởng kinh tế. Các 
DNVVN ngày càng đóng góp nhiều hơn vào tổng GDP do số  lượng DN ngày 
càng nhiều và phân bố  rộng khắp cả  nước và trong hầu hết các ngành, các lĩnh 
vực. Các DNVVN hiện nay chiếm khoảng 96% tổng số doanh nghiệp trên toàn 
quốc, trong đó phần lớn là DN dân doanh. Đóng góp khoảng 26% tổng sản phẩm  
xã hội, 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, 78% tổng mức bán lẻ, 64% tổng 
lượng vận chuyển hàng hoá. Ngoài ra, tốc độ  tăng trưởng sản xuất của khu vực  
DNVVN cũng thường cao hơn so với các khu vực doanh nghiệp khác. Nếu tính  
theo doanh thu của các DN cả nước, tỷ trọng DT của khu vực DNVVN theo quy  
mô lao động (dưới 300 người) năm 2002 ­ 2004 là 81,5% ­ 86,5%. Điều đó chứng 

14


tỏ các DNVVN có đóng góp lớn vào việc gia tăng sản lượng và tăng trưởng kinh 
tế. 
­ Góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh t ế. Vi ệc nhi ều DN, ch ủ y ếu là  
các DNVVN được thành lập tại các vùng nông thôn, vùng miền núi, vùng sâu,  
vùng xa sẽ  làm giảm tỷ  trọng ngành nông nghiệp và tăng tỷ  trọng ngành công  
nghiệp và dịch vụ. Điều này sẽ giúp cho việc chuyển dịch cơ cấu c ủa toàn bộ 
nền kinh tế theo hướng gi ảm t ỷ tr ọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ  trọng ngành  
công nghiệp và dịch vụ. 
­  Các  DNVVN tạo ra nhiều việc làm mới, góp phần xóa đói giảm nghèo.  

Nước ta là một nước đang phát triển, có mật độ  dân số cao, lực lượng lao động  
tăng nhanh, quy mô vốn tích luỹ nhỏ vì vậy phát triển DNVVN ở nước ta là một  
lựa chọn đúng đắn trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 
Không thể phủ nhận vai trò quan trọng của các doanh nghiệp lớn trong việc tạo  
ra các công việc. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy các DNVVN lại là những đối 
tượng tạo ra nhiều việc làm cho xã hội. Các DNVVN đã trở  thành nguồn cung  
chủ yếu về chỗ làm việc mới cho người lao động.
Khi những DNVVN làm ăn phát đạt và thuê nhiều lao động thì nền kinh tế 
sẽ  phát triển và ngược lại, khi họ thua lỗ và sa thải nhân lao động, nền kinh tế 
sẽ  rơi vào suy thoái. Do đó, phát triển DNVVN phải giữ  vai trò then chốt. Điều 
thú vị và hấp dẫn của việc gia nhập WTO là ở chỗ nó mang lại nhiều quyền lợi  
cho các DNVVN, giúp họ tiết kiệm chi phí để sáng tạo và cạnh tranh trên phạm 
vi toàn cầu. Joel Cawley, một chiến lược gia của công ty IBM cho rằng: “Sẽ có  
vô số  việc làm dành cho các doanh nghiệp nhỏ  và vừa có khả  năng lĩnh hội  
những thế mạnh sẵn có của toàn cầu hoá và ứng dụng linh hoạt chúng phù hợp  
với nhu cầu của cộng đồng địa phương… Đó là sự địa phương hoá những yếu tố 
mang tính toàn cầu. Quá trình này vừa mới diễn ra. Tiềm năng tạo công ăn việc  
làm của nó là rất lớn”.

15


­ Làm tăng hiệu quả và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Sự ra  
đời của các DNVVN đã làm tăng súc cạnh tranh của nền kinh tế. Với sự tồn tại  
của nhiều DN hoạt động trong cùng một ngành, một lĩnh vực sẽ  làm giảm tính  
độc quyền và buộc các DN phải chấp nhận sự cạnh tranh, phải liên tục thay đổi  
để có thể tồn tại và phát triển bền vững. Các DNVVN với sự linh hoạt của mình, 
cũng sẽ tạo ra sức ép cạnh tranh thậm chí với các công ty lớn, các tập đoàn xuyên  
quốc gia. Đồng thời nhiều DNVVN còn đóng vai trò là vệ  tinh cho các DN lớn, 
thúc đẩy quá trình chuyên môn hoá và phân công lao động trong sản xuất, làm 

tăng hiệu quả kinh doanh của chính các DNVVN. 
­ Đóng góp và thúc đẩy quá trình tăng tốc độ  áp dụng công nghệ  mới. Với 
sự linh hoạt của mình, các DNVVN là người đi tiên phong trong việc áp dụng các  
phát minh mới về  công nghệ  mới cũng như  sáng kiến về  kỹ  thuật. Do áp lực 
cạnh tranh nên các DNVVN thường xuyên phải cải tiến công nghệ, tạo sự khác 
biệt để  có thể  cạnh tranh thành công. Mặc dù không tạo ra được những phát  
minh, sáng kiến mang tính đột phá nhưng đây là những tiền đề  cho sự  thay đổi 
về công nghệ.   
­ Khu vực DNVVN có khả năng hợp tác với các DN lớn. Quá trình thay đổi 
nhanh chóng về công nghệ trong những năm gần đây cùng với công cuộc đổi mới 
nền kinh tế ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đã thúc đẩy sự 
hợp tác và kết hợp chặt chẽ giữa các cộng đồng DN lớn, nhỏ và vừa dưới nhiều  
hình thức khác nhau. Thứ nhất là liên kết DN theo hình thức mạng lưới, thường 
được xây dựng trên cơ sở chuyên môn hoá các công đoạn của quá trình sản xuất  
kinh doanh bắt đầu từ khâu cung cấp nguyên vật liệu đầu vào, các giai đoạn của 
quá trình sản xuất và quá trình tiêu thụ, phân phối sản phẩm. Mạng lưới liên kết 
các DN từ  quy mô nhỏ, vừa đến DN lớn thông qua quan hệ  trao đổi thông tin,  
quan hệ  giao dịch thương mại, quan hệ  thầu phụ  công nghiệp, quan hệ  mạng 
lưới phân phối tiêu thụ hàng hoá… Thứ hai, liên kết DN theo hình thức cụm công 
nghiệp, khu công nghiệp. Đây là hình thức liên kết dựa trên yếu tố gần gũi về địa 

16


lý giữa các DN trong cùng một vùng. Nhà nước có vai trò đưa ra các chính sách  
khuyến khích, chủ động phát triển cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp, cụm công 
nghiệp là tiên đề  quan trọng cho việc hình thành các kết cấu công nghiệp theo 
khu vực địa lý dạng này. Thứ  ba là dạng liên kết dưới hình thức đối tác kinh 
doanh chiến lược. Hình thức liên kết này tạo điều kiện cho các DNVVN nâng  
cao trình độ  quản lý và phát triển được năng lực công nghệ  của doanh nghiệp 

mình.  
Các DNVVN cũng là tiền đề  trong quá trình tạo ra các DN lớn, đồng thời 
làm lành mạnh môi trường đầu tư và kinh doanh.Với những DN thành công, quy 
mô của DN sẽ  được mở  rộng và nhiều DN trong số  này dần dần trở  thành DN 
lớn, các tập  đoàn kinh  tế.   Ngoài  ra   với  số  lượng  lớn,   rào cản tham  gia  thị 
trường không lớn thì sẽ  luôn có nhiều DN mới tham gia vào thị  trường, đồng 
thời cũng có nhiều DN sẽ bị phá sản do hoạt động kinh doanh không hiệu quả.  
Đối với DN quy mô nhỏ  thì việc rút lui sẽ  không gây tác động đến nền kinh 
tế, nhưng đối với DN lớn hay một tập đoàn thì việc rút lui này lại có tác động  
rất lớn, gây hậu quả xấu về mặt kinh t ế và xã hội.
Ngoài ra, các DNVVN còn là tiền đề để tạo ra một môi trường văn hoá kinh  
doanh mang tính kinh tế  thị  trường, tạo ra những người kinh doanh giỏi. Đây là  
điều rất cần thiết đối với đất nước ta hiện nay. Chúng ta đã  ở  trong giai đoạn 
kinh tế  kế  hoạch hoá tập trung khá lâu, vì vậy môi trường văn hoá kinh doanh 
mang tính thị trường gần như không tồn tại, hoặc không có cơ hội phát triển, đội  
ngũ doanh nhân giỏi, có khả năng điều hành các DN trong điều kiện quốc tế hoá  
và hội nhập kinh tế quốc tế rất hạn chế. Vì vậy, việc tạo ra một môi trường văn  
hoá kinh doanh mang tính thị  trường cũng như  một đội ngũ các nhà kinh doanh 
giỏi là điều kiện cực kỳ quan trọng để Việt Nam có thể hội nhập thành công.
1.3. Nhân tố ảnh hưởng đến phát triển DNVVN
1.3.1. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp
* Trình độ và năng lực tổ chức, quản lý doanh nghiệp

17


Năng lực tổ chức, quản lý DN được xem là nhân tố quyết định sự tồn tại và  
phát triển của DN nói chung và DNVVN nói riêng. Trình độ tổ chức, quản lý DN  
được biểu hiện như:
­ Trình độ  của đội ngũ cán bộ  quản lý: Được thể  hiện bằng những kiến  

thức cần thiết để  quản lý và điều hành, thực hiện các công việc đối nội và đối  
ngoại của DN. Trình độ của đội ngũ này không chỉ đơn thuần là trình độ học vấn 
mà còn thể hiện  ở kiến thức rộng lớn và phức tạp thuộc rất nhiều lĩnh vực liên  
quan đến hoạt động kinh doanh của DN, từ pháp luật trong nước và quốc tế, thị 
trường, ngành hàng… đến kiến thức xã hội và văn hóa. Trình độ và năng lực của  
cán bộ quản lý không chỉ được đo bằng bằng cấp của các cơ sở đào tạo, mà còn  
thể  hiện  ở  tính chuyên nghiệp,  ở  tầm nhìn xa trông rộng, có khả  năng quan sát, 
phân tích, nắm bắt cơ hội kinh doanh, xử lý các tình huống và giải quyết các các  
vấn đề thực tiễn đặt ra. Trình độ và năng lực quản lý tác động trực tiếp và toàn 
diện đến hoạt động của DN thể  hiện qua việc hoạch định và thực hiện chiến 
lược, lựa chọn phương pháp quản lý phù hợp,…Tất cả  những điều đó tác động  
đến năng suất, chất lượng, giá thành sản phẩm và uy tín của DN.
­ Trình độ  tổ  chức và quản lý DN còn thể  hiện  ở  việc sắp xếp, bố  trí cơ 
cấu tổ  chức bộ máy quản lý và phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ  của các 
bộ phận. Việc hình thành tổ chức bộ máy quản lý DN theo hướng tinh, gọn, nhẹ 
và hiệu lực cao có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ  bảo đảm hiệu quả  quản lý  
cao, ra quyết định nhanh chóng, chính xác, mà còn làm giảm tương đối chi phí 
quản lý của DN. 
­ Ngoài ra, trình độ  và năng lực quản lý của DN còn thể  hiện trong việc 
hoạch định chiến lược kinh doanh, lập kế  hoạch,… Việc này có ý nghĩa lớn  
trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của DN trong ngắn hạn và dài hạn. [24]
* Trình độ thiết bị và công nghệ
­ Thiết bị  và công nghệ  sản xuất là yếu tố  rất quan trọng,  ảnh hưởng rất  
lớn đến hiệu quả  của hoạt động kinh doanh. Công nghệ  phù hợp cho phép rút 

18


ngắn thời gian sản xuất, giảm mức tiêu hao năng lượng, tăng năng suất lao động, 
hạ  giá thành sản phẩm và nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra lợi thế  quan  

trọng đối với sản phẩm của DN. Công nghệ  còn ảnh hưởng đến việc nâng cao 
trình độ  cơ  khí hóa, tự  động hóa của DN. Vì vậy, DN cần nghiên cứu cải tiến  
công nghệ, hợp lý hóa sản xuất, tăng cường ứng dụng công nghệ  thông tin, đầu 
tư đổi mới công nghệ. [24]
* Trình độ lao động trong doanh nghiệp
Lao động là một nhân tố có tính quyết định của lực lượng sản xuất, có vai  
trò quan trọng trong sản xuất xã hội. Trong DN, lao động vừa là yếu tố đầu vào, 
vừa là lực lượng trực tiếp sử  dụng phương tiện, thiết bị   để  sản xuất ra sản 
phẩm hàng hóa và dịch vụ. Lao động còn là lực lượng tham gia tích cực vào quá 
trình cải tiến kỹ  thuật, hợp lý hóa quy trình sản xuất và thậm chí góp sức vào 
những phát kiến, sáng chế… Vì vậy, trình độ  của lực lượng lao động tác động 
rất lớn đến chất lượng và độ  tinh xảo của sản phẩm, ảnh hưởng lớn đến năng 
suất và chi phí của DN. Đây là một yếu tố tác động trực tiếp tới năng lực cạnh 
tranh của DN. Để nâng cao sức cạnh tranh, DN cần chú trọng bảo đảm cả  chất  
lượng và số lượng lao động, nâng cao tay nghề của người lao động. DN cần chú  
trọng công tác đào tạo, nâng cao tay nghề dưới nhiều hình thức, đầu tư  kinh phí 
thỏa đáng, khuyến khích người lao động tham gia vào quá trình quản lý, sáng chế,  
cải tiến…[24]
*  Năng lực tài chính doanh nghiệp
Năng lực tài chính của DN được thể hiện ở quy mô vốn, khả năng huy động 
và sử  dụng vốn có hiệu quả, năng lực quản lý tài chính…trong DN. Trước hết,  
năng lực tài chính là một yếu tố sản xuất cơ bản và là đầu vào của DN. Nên việc  
sử  dụng vốn có hiệu quả, quay vòng vốn nhanh….có vai trò rất lớn trong việc  
làm giảm chi phí vốn, giảm giá thành sản phẩm. Đồng thời, vốn còn là tiền đề 
đối với các yếu tố sản xuất khác. Việc huy động vốn kịp thời nhằm đáp ứng vật  
tư, nguyên liệu, thuê nhân công, mua sắm thiết bị, công nghệ, tổ  chức hệ thống  

19



phân phối,… Do đó, năng lực tài chính phản ánh sức mạnh kinh tế  của DN, là  
yêu cầu đầu tiên, bắt buộc phải có nếu muốn DN thành công trong kinh doanh.
Để  nâng cao năng lực tài chính, DN phải củng cố và phát triển nguồn vốn, 
tăng vốn tự  có, mở  rộng vốn vay dưới nhiều hình thức. Đồng thời, điều quan  
trọng là DN phải sử dụng có hiệu quả  các nguồn vốn, hoạt động kinh doanh có 
hiệu quả  để  tạo uy tín đối với khách hàng, với ngân hàng và những người cho 
vay vốn. [24]
* Năng lực marketing của doanh nghiệp
Năng lực marketing của DN là khả  năng nắm bắt nhu cầu thị  trường, khả 
năng thực hiện chiến lược 4P (Product, Place, Price, Promotion) trong hoạt động 
marketing. Khả  năng marketing tác động trực tiếp tới sản xuất và tiêu thụ  sản  
phẩm, đáp  ứng nhu cầu khách hàng, góp phần làm tăng doanh thu, tăng thị  phần 
tiêu thụ  sản phẩm, nâng cao vị  thế  của DN. Đây là yếu tố  rất quan trọng tác  
động tới hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của DN. [24]
* Năng lực nghiên cứu phát triển của doanh nghiệp
Năng lực nghiên cứu phát triển của DN là tổng hợp gồm nhiều yếu tố cấu  
thành như  nhân lực nghiên cứu, thiết bị, tài chính cho hoạt động nghiên cứu và 
phát triển, khả  năng đổi mới sản phẩm của DN. Năng lực nghiên cứu và phát 
triển có ý nghĩa quan trọng trong cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản  
phẩm, thay đổi mẫu mã, nâng cao năng suất, hợp lý hóa sản xuất. Vì vậy, năng  
lực nghiên cứu và phát triển của DN là yếu tố rất quan trọng tác động mạnh tới 
hoạt động của doanh nghiệp. Năng lực này càng quan trọng trong điều kiện cách 
mạng khoa học công nghệ diễn ra mạnh mẽ trên thế giới hiện nay.
Ngoài ra, một số yếu tố  khác như  lợi thế  về  vị  trí địa lý, ngành nghề  kinh 
doanh của DN, quy mô doanh nghiệp… cũng có tác động tới hoạt động sản xuất, 
kinh doanh của DN. [24]
1.3.2. Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
* Thể chế, chính sách

20



Thể chế, chính sách là tiền đề quan trọng cho hoạt động của DN. Nội dung  
của thể chế, chính sách bao gồm các quy định pháp luật, các biện pháp hạn chế 
hay khuyến khích đầu tư hay kinh doanh đối với hàng hóa, dịch vụ, ngành nghề,  
… 
Thể chế, chính sách bao gồm pháp luật, chính sách về đầu tư, tài chính, tiền  
tệ, đất đai, công nghệ, thị  trường… nghĩa là các biện pháp điều tiết tất cả  đầu  
vào và đầu ra, cũng như  toàn bộ  quá trình hoạt động của DN. Do vậy, đây là 
những nhân tố  rất quan trọng và bao quát rất nhiều vấn đề  liên quan tới hoạt 
động của DN.
Thể  chế, chính sách về đầu tư  nhằm tạo lập môi trường đầu tư  thuận lợi  
và an toàn, kích thích DN mở rộng đầu tư, đặc biệt là đầu tư vào ngành, lĩnh vực, 
địa bàn, sản phẩm mới. Thể  chế, chính sách đầu tư  có tác dụng nâng cao hiệu 
quả sử dụng vốn đầu tư, tiết kiệm thời gian, nguồn lực, giảm chi phí đầu tư của  
DN, v.v…
Thể  chế, chính sách về đất đai, vốn, công nghệ, lao động v.v… nhằm tạo  
điều kiện cho DN tiếp cận thuận lợi các yếu tố  đầu vào, kích thích và điều tiết 
việc sử  dụng chúng hiệu quả  hơn, đồng thời tạo tiền đề  cho các DN giảm chi 
phí sử dụng các đầu vào.
Thể chế, chính sách về thương mại nhằm tạo điều kiện thuận lợi, tạo môi 
trường bình đẳng đối với các DN. [24]
* Thị trường
Thị  trường là môi trường kinh doanh có ý nghĩa rất quan trọng đối với DN.  
Thị  trường vừa là nơi tiêu thụ  sản phẩm, tìm kiếm các đầu vào thông qua hoạt 
động mua – bán hàng hóa dịch vụ đầu ra và các yếu tố đầu vào. Thị trường đồng 
thời còn là công cụ  định hướng, hướng dẫn hoạt động của DN, thông qua mức  
cung ­ cầu, giá cả, lợi nhuận… để định hướng chiến lược kế hoạch kinh doanh.  
Như vậy, sự ổn định của thị trường có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động  


21


của DN nói chung và nâng cao sức mạnh cạnh tranh của DN nói riêng. Để  phát 
huy vai trò của các yếu tố  thị  trường đối với DN, cần có sự  can thiệp của Nhà  
nước vào thị trường nhằm ổn định thị trường (hạn chế những biến động lớn của 
thị trường), tạo lập môi trường thị trường cạnh tranh tích cực và hiệu quả, chống  
gian lận thương mại, hạn chế độc quyền kinh doanh… Điều quan trọng là tạo  
lập môi trường thị  trường cạnh tranh tích cực, tăng sức ép đổi mới quản lý, cải  
tiến quy trình sản xuất, ứng dụng thành tựu khoa học – công nghệ, đổi mới và đa  
dạng hóa sản phẩm,…tạo động lực cho DN để vươn lên.
Để tạo lập và duy trì môi trường thị trường ổn định và hiệu quả, Nhà nước 
cần xây dựng và thực hiện tốt pháp luật nhằm khuyến khích cạnh tranh tích cực,  
chống độc quyền, bảo hộ  quyền sở  hữu trí tuệ, xử  lý nghiêm các hành vi gian 
lận thương mại… Trong điều kiện thị trường lành mạnh và ổn định thì DN mới 
có điều kiện thuận lợi để nâng cao năng  lực cạnh tranh của mình. Ngoài ra, cần 
tạo điều kiện thuận lợi cho việc gia nhập thị trường, tạo ra nhiều nhà cung cấp  
cũng như nhiều đối tác kinh doanh, nhiều khách hàng cho DN. [24]
* Kết cấu hạ tầng
Kết cấu hạ  tầng bao gồm hạ tầng vật chất – kỹ thuật và hạ  tầng xã hội, 
bao gồm hệ thống giao thông, mạng lưới điện, hệ thống thông tin, hệ thống giáo 
dục – đào tạo… Đây là tiền đề  quan trọng,  ảnh hưởng đến chất lượng, giá cả 
của sản phẩm và hoạt động của DN. 
Để  đảm bảo cho DN hoạt động bình thường và nâng cao năng lực cạnh 
tranh, cần có hệ thống kết cấu hạ tầng đa dạng, có chất lượng tốt. Điều đó đòi 
hỏi có sự đầu tư đúng mức để phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế ­ xã hội. [24]
* Các ngành công nghiệp, dịch vụ hỗ trợ
Trong nền sản xuất hiện đại, cùng với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt thì 
sự  liên kết, hợp tác cũng phát triển mạnh mẽ. Thực tế  chỉ ra rằng, khi trình độ 
sản xuất càng hiện đại thì sự  phụ  thuộc lẫn nhau càng lớn. Chẳng hạn, các chi 

tiết và bộ phận một chiếc máy bay Boing được sản xuất tại rất nhiều nước khác  

22


nhau. Hoặc như sự than phiền của nhiều công ty Nhật, Hàn Quốc ở Việt Nam do  
thiếu nhiều các ngành công nghiệp phụ trợ. Các ngành công nghiệp hỗ trợ không 
những có tác động đến thời gian sản xuất, năng suất, chất lượng mà còn  ảnh 
hưởng đến giá thành sản phẩm của nhiều DN. Để  phát triển các ngành công  
nghiệp, dịch vụ  hỗ trợ, cần tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển các ngành  
này.
* Trình độ nguồn nhân lực
 Trong nền sản xuất hiện đại, đặc biệt là trong xu hướng chuyển sang nền  
kinh tế tri thức thì chất lượng nguồn nhân lực là nhân tố được quan tâm nhất khi  
các DN lựa chọn đầu tư. Trình độ và các điều kiện về nguồn nhân lực thể hiện ở 
kỹ  năng của nguồn nhân lực, mức lương, điều kiện làm việc, sức khỏe và an 
toàn, đầu tư  cho đào tạo, vai trò của công đoàn. Để  nâng cao chất lượng nguồn  
nhân lực, cần chú trọng giáo dục và đào tạo, tạo mọi điều kiện để các cơ sở đào  
tạo, các hoạt động đào tạo phát triển thông qua cơ  chế, chính sách và các biện 
pháp khác của Nhà nước.
1.3. Phát triển DNVVN ở Việt Nam và một số nước trên thế giới 
1.3.1. Kinh nghiệm phát triển DNVVN trong tiến trình hội nhập của  
một số nước trên thế giới
Trong các chính sách hỗ trợ để nâng cao sức mạnh cạnh tranh của DN, hầu  
hết các quốc gia xác định DNVVN là đối tượng trọng tâm, do đây là lực lượng 
quan trọng quyết định sự tăng trưởng và ổn định của nền kinh tế, tác động nhanh  
đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo công ăn việc làm, giải quyết các vấn đề  xã 
hội, huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư  phát triển… Bên cạnh đó, các  
DNVVN lại là chủ thể dễ bị tổn thương nhất trong quá trình toàn cầu hóa do có  
thị phần nhỏ, hoạt động quy mô nhỏ nên luôn ở trong tình trạng thiếu vốn so với 

nhu cầu phát triển, khả  năng tiếp cận thông tin, công nghệ  và trình độ  lao động 
cũng bị hạn chế.

23


Để  hỗ  trợ  cho nhóm DN này trong quá trình hội nhập, các nước xây dựng 
các chính sách hỗ trợ với mục tiêu phù hợp: 
­ Đối với các nước đang phát triển, trọng tâm trong chính sách hỗ trợ DN là 
nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường nội địa. 
­ Đối với các nước phát triển và các nền kinh tế  có trình độ  hội nhập sâu 
rộng thì các chính sách quan tâm hơn đến việc hỗ trợ DN vươn ra thị trường bên 
ngoài, phát triển thành các công ty xuyên quốc gia, cạnh tranh ở phạm vi khu vực 
và thế giới. Bên cạnh đó, mỗi nước và vùng lãnh thổ lại có ưu tiên riêng về quy 
mô DN, như Hàn Quốc tập trung phát triển các tập đoàn lớn, Đài Loan tập trung  
phát triển DNVVN… và đều thu được thành công.
Do vậy điểm quan trọng đó là chính sách hỗ trợ như thế nào. Chính sách hỗ 
trợ  DN có thể  khác nhau nhưng đều phải bảo đảm theo bốn nguyên tắc: (1) 
Không được trái với cam kết quốc tế  và các quy định của WTO; (2) Tạo môi  
trường để bản thân DN phát huy nội lực và tự phát triển; (3) Bảo đảm công bằng 
trong các cơ hội tiếp cận chính sách; (4) Phù hợp với mục tiêu, chiến lược quốc  
gia.
Nghiên cứu chính sách hỗ trợ chính sách các DNVVN của các nước và vùng 
lãnh thổ cho thấy thường tập trung vào ba nhóm chính sách như sau:
* Chính sách tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi
Một môi trường kinh doanh được coi là thuận lợi khi bảo đảm các yếu tố:  
Có hệ  thống luật pháp, hành chính rõ ràng, minh bạch, hiệu lực và hiệu quả, ít 
tốn kém nguồn lực thời gian và tiền bạc; bảo đảm sự ổn định của kinh tế vĩ mô,  
hạn chế tác động của các yếu tố bất khả kháng và biến động của thị trường đối  
với DNVVN; có các biện pháp để bảo đảm thị trường cho DNVVN như ổn định 

về giá cả  của hàng hóa và dịch vụ, giảm bớt hàng rào bảo hộ mậu dịch của các 
nước, ổn định về quan hệ quốc tế…
Trong việc bảo đảm môi trường kinh doanh thuận lợi có hai xu hướng: Xu 
hướng thứ  nhất là tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các DN nói chung,  

24


không phân biệt quy mô (các nền kinh tế Bắc Mỹ như Hoa Kỳ, Canada, và một  
số nước khác như Xingapo tiếp cận theo xu hướng này); xu hướng thứ hai là tập 
trung điển hình các chương trình hỗ  trợ  phát triển DNVVN trong khoảng thời  
gian nhất định (đại đa số các nước và vùng lãnh thổ đều tiếp cận theo xu hướng 
này, như  Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Đài Loan, Mêhicô, Pêru…). Một số 
nước như Trung Quốc còn có các chính sách riêng cho DNVVN như giảm áp lực  
cạnh tranh và lũng đoạn từ  các công ty lớn bằng việc xác định một số loại sản  
phẩm, dịch vụ dành riêng cho DNVVN sản xuất, cung ứng và Chính phủ mua bao 
tiêu sản phẩm để bảo đảm đầu ra cho doanh nghiệp; yêu cầu DNNN hợp tác với  
DNVVN thông qua tư cách thầu phụ.
Trong các chính sách bảo đảm môi trường kinh doanh thuận lợi, các nước 
mới nổi và đang phát triển thường tập trung vào việc tạo khung pháp lý thuận lợi 
cho hoạt động kinh doanh, cải cách hệ  thống thủ  tục hành chính. Ví dụ: Chính 
phủ Trung Quốc hằng năm đều thực hiện việc rà soát lại tất cả các thủ tục hành  
chính và tiếp nhận những phản ánh của DN để bãi bỏ những thủ tục đã lạc hậu,  
không còn phù hợp. Trong khi đó tại các nước phát triển, do đã có một hệ thống 
luật pháp chặt chẽ, nhất quán, minh bạch hơn, hệ thống hành chính tại các nước 
này ít gây trở ngại đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nên các nước  
này quan tâm đến việc giảm bớt sự tác động của các yếu tố  thị  trường đối với  
hoạt động DN như  ổn định kinh tế  vĩ mô, ổn định giá cả, hạn chế  những rủi ro 
xung đột, chiến tranh, dịch bệnh… Tuy nhiên, các nước này vẫn rất chú ý đến  
việc tiếp tục đơn giản hóa các thủ tục hành chính. [23]

* Chính sách tăng khả năng tiếp cận tài chính cho DNVVN
DNVVN luôn trong tình trạng khát vốn do tiềm lực tài chính tương đối hạn 
chế và có ít tài sản để có thể thế chấp vay vốn từ ngân hàng. Do vậy, các nước  
thường áp dụng hai nhóm chính sách để hỗ trợ vốn kinh doanh cho doanh nghiệp:
­ Thứ  nhất, tăng cường nguồn vốn dành riêng cho các DNVVN thông qua 
các hệ thống ngân hàng; hình thành các loại quỹ như quỹ đầu tư, quỹ hỗ trợ phát 

25


×