Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tóm tắt Luận án tiến sĩ Ngữ văn: Đóng góp của văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư giai đoạn trước 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (647.46 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

HỒ THỊ THANH THỦY

ĐÓNG GÓP CỦA VĂN XUÔI TỰ SỰ
LƯU TRỌNG LƯ
GIAI ĐOẠN TRƯỚC 1945
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 9.22.01.21

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGHỆ AN - 2019


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong văn học Việt Nam hiện đại, Lưu Trọng Lư được đánh giá là một trong những
cây bút tiên phong của phong trào Thơ mới. Trước Cách mạng, bên cạnh những bài thơ nổi tiếng,
ông còn sáng tác một khối lượng tác phẩm văn xuôi khá lớn với 27 truyện ngắn, 27 tiểu thuyết.
Trong khi thơ Lưu Trọng Lư đã được nghiên cứu khá kỹ thì mảng văn xuôi tự sự của ông lại chưa
được quan tâm đúng mức. Để hiểu đầy đủ về đóng góp tên tư cách một tác gia văn học của Lưu
Trọng Lư, để có được cái nhìn toàn diện về bức tranh văn học nói chung, văn xuôi một giai đoạn
nói riêng, chúng ta không thể không quan tâm nghiên cứu văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư.
1.2. Năm 2011, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh Lưu Trọng Lư, Lại Nguyên Ân và Hoàng
Minh đã cho ra đời một bộ sách có dung lượng lớn gồm 2 tập (1145 trang khổ 16x24 cm), tập hợp
toàn bộ truyện ngắn và tiểu thuyết của Lưu Trọng Lư (cả trước và sau Cách mạng). Đọc có hệ thống
những tác phẩm văn xuôi tự sự ông đã viết, độc giả cảm nhận được một cách sâu sắc bối cảnh sáng
tác khá cởi mở đã thôi thúc sự tìm tòi, thể nghiệm của các nhà văn như thế nào. Qua các tác phẩm,


có thể nhận ra ảnh hưởng của văn học phương Tây, trước hết là văn học Pháp đối với những trang
viết của nhà văn. Ở đây có dấu ấn của những sáng tác tình cảm chủ nghĩa, thấm đượm tình điệu
lãng mạn chủ nghĩa. Không chỉ thế, bút pháp hiện thực, bút pháp tượng trưng của các bậc thầy hiện
thực chủ nghĩa, tượng trưng chủ nghĩa cũng được tiếp thu và vận dụng theo một cách rất riêng.
Chính vì điều này, việc nghiên cứu văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư có ý nghĩa cung cấp thêm một
tham số thuyết phục giúp chúng ta hiểu được thực chất của hoạt động giao lưu văn học Đông - Tây
trong bối cảnh văn học Việt Nam đang gấp rút chuyển mình theo hướng hiện đại hóa, Âu hóa, hiểu
được vai trò của những tác gia nổi tiếng trước Cách mạng như Lưu Trọng Lư trong việc tạo dựng
nền móng cho một nền văn học Việt Nam hiện đại, có khả năng hội nhập với thế giới. Cũng qua
những truyện ngắn, tiểu thuyết của Lưu Trọng Lư, người nghiên cứu còn có thể phát hiện thấy sự
giao thoa giữa các thể loại thuộc các loại hình sáng tác khác nhau. Như vậy, đi vào đề tài này, người
nghiên cứu sẽ có cơ hội thấy được nhiều mặt của đời sống văn học giai đoạn 1930 - 1945, thông qua
sáng tác của một tác giả cụ thể là Lưu Trọng Lư.
1.3. Đề tài hàm chứa khả năng cung cấp những dữ liệu, tư liệu cho nghiên cứu thi pháp văn
xuôi, đặc biệt là truyện ngắn và tiểu thuyết trong văn học Việt Nam ở một giai đoạn có nhiều thành
tựu và nhiều phong cách nghệ thuật độc đáo. Ngoài ra, luận án có thể cung cấp các tư liệu văn học
có ý nghĩa cho việc dạy học văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 ở bậc trung học phổ thông. Ở
bậc Đại học, luận án sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho nghiên cứu loại hình văn xuôi tự sự;
nghiên cứu lịch sử văn học, cụ thể là sự tiếp thu những bài học từ văn học phương Tây để đưa văn
học nước nhà bước vào chặng đường hiện đại hóa trên mọi phương diện.
Đó là những lý do thúc đẩy chúng tôi nghiên cứu đề tài: Đóng góp của văn xuôi tự sự Lưu
Trọng Lư giai đoạn trước 1945.
2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tư liệu khảo sát
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là: Đóng góp của văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư giai đoạn
trước 1945.
2.2. Phạm vi tư liệu khảo sát
Phạm vi tư liệu khảo sát chính của luận án là 27 truyện ngắn, 27 tiểu thuyết của Lưu Trọng
Lư sáng tác trước 1945, được tập hợp trong Lưu Trọng Lư, Tác phẩm - truyện ngắn và tiểu thuyết
(trọn bộ hai tập), Nxb Lao Động, Trung tâm Văn hóa - Ngôn ngữ Đông Tây, 2011.

Để có cái nhìn bao quát về vấn đề, luận án còn khảo sát sáng tác của nhiều tác giả gần gũi
hoặc khác biệt về xu hướng, cùng giai đoạn hoặc khác giai đoạn sáng tác với Lưu Trọng Lư.


2
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Qua khảo sát những đóng góp của văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư giai đoạn trước 1945, luận án
hướng tới việc đánh giá toàn diện hơn về Lưu Trọng Lư với tư cách là một nghệ sĩ đa năng, lưu được
dấu ấn đậm nét của mình trên nhiều thể loại văn học. Cũng qua đó, luận án muốn góp phần bổ sung điều chỉnh một số luận điểm đánh giá đã có về đặc điểm và thành tựu của văn học Việt Nam giai đoạn
1930 - 1945 trên cơ sở những tư liệu mới được khám phá - phát hiện và công bố.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Hướng tới mục đích nghiên cứu đã trình bày ở trên, luận án tập trung giải quyết các nhiệm
vụ cụ thể sau:
- Tổng thuật tình hình nghiên cứu về sáng tác của Lưu Trọng Lư nói chung, văn xuôi tự sự
Lưu Trọng Lư nói riêng và minh định một số khái niệm, thuật ngữ then chốt được dùng để nghiên
cứu đối tượng này.
- Nhận diện, phân tích những nét riêng về khuynh hướng thẩm mỹ của văn xuôi tự sự Lưu
Trọng Lư trong mối quan hệ với những khuynh hướng thẩm mỹ chủ đạo của văn học (trước hết là
văn xuôi) Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945.
- Làm sáng tỏ những nét độc đáo của văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư trên phương diện đề
tài và hệ thống hình tượng, trong sự so sánh cùng bình diện với sáng tác của những nhà văn
khác cùng thời.
- Chỉ ra, phân tích và đánh giá (trên cơ sở so sánh đa chiều) những kiểu lựa chọn nghệ thuật
đặc thù của văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư trước 1945.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, chúng tôi chủ yếu vận dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Phương pháp này đòi hỏi sự quan tâm trước hết đến
văn bản ngôn từ (27 truyện ngắn, 27 tiểu thuyết của Lưu Trọng Lư sáng tác trước 1945) - một điều
kiện thiết yếu giúp người nghiên cứu chỉ ra được hình thức mang tính chỉnh thể của đối tượng.

- Phương pháp cấu trúc, hệ thống: Đây là phương pháp xem xét đối tượng trong cái nhìn
tổng thể, hình dung mỗi đối tượng là một hệ thống nhỏ của hệ thống lớn, và trong từng hệ thống
như vậy, mối quan hệ vừa ổn định vừa biến đổi giữa các yếu tố cấu trúc luôn có ý nghĩa đặc biệt.
- Phương pháp loại hình: Phương pháp này quy văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư về loại thích
hợp để có được những đánh giá thỏa đáng, phù hợp với đặc trưng thẩm mỹ của đối tượng.
- Phương pháp so sánh: Phương pháp này đòi hỏi người nghiên cứu phải thực hiện vừa những
so sánh mang tính chất đồng đại, vừa những so sánh mang tính chất lịch đại.
- Phương pháp lịch sử - xã hội: Phương pháp này giúp người nghiên cứu nhìn nhận đối tượng
như sản phẩm tinh thần của một thời đại lịch sử cụ thể với rất nhiều mối quan hệ phức tạp của nó.
5. Đóng góp của luận án
Luận án là công trình nghiên cứu quy mô đầu tiên về văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư trước
1945, sau khi bộ sách Lưu Trọng Lư tác phẩm truyện ngắn và tiểu thuyết (trọn bộ 2 tập, khoảng
1.500 trang, do Lại Nguyên Ân - Hoàng Minh sưu tầm và biên soạn) được ấn hành vào năm 2011.
Với công trình này, những đóng góp riêng, hết sức có ý nghĩa của của văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư
trước 1945 được bước đầu nhận diện, phân tích, khẳng định, thông qua hệ thống dẫn liệu phong
phú, góp phần vào việc đánh giá toàn diện hơn về tác gia Lưu Trọng Lư và phần nào về tính đa
dạng của văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945.
Luận án cũng góp thêm cứ liệu để nhìn nhận đầy đủ hơn về vấn đề tiếp nhận ảnh hưởng của
văn học Phương Tây ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX - một sự tiếp nhận có tính đặc thù, giúp cho
quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam đạt được những thành tựu có ý nghĩa.


3
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận án gồm 4 chương:
Chương 1:
Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Chương 2:
Sự hòa trộn các khuynh hướng thẩm mỹ trong văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư
trước 1945

Chương 3:
Dấu ấn của văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư trước 1945 ở hệ thống đề tài và hệ
thống hình tượng
Chương 4:
Những kiểu lựa chọn nghệ thuật đặc thù trong văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư
trước 1945

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Nghiên cứu lý thuyết về văn xuôi tự sự
1.1.1. Khái niệm văn xuôi tự sự
Chúng tôi sử dụng khái niệm văn xuôi tự sự trong sự phân biệt có tính tương đối với văn
xuôi trữ tình. Gọi là tương đối bởi đường biên giữa chúng không phải lúc nào cũng rõ rệt. Khi dùng
khái niệm văn xuôi tự sự, dĩ nhiên người nghiên cứu luôn có ý thức phân biệt nó với các loại sản
phẩm ngôn từ khác cũng dùng hình thức văn xuôi nhưng không nhằm mục đích thẩm mỹ, không
dùng hình thức hư cấu như văn xuôi nghị luận và các loại văn bản nằm ngoài phạm vi nghệ thuật
ngôn từ.
Văn xuôi tự sự chú trọng miêu tả con người và môi trường xã hội, miêu tả cử chỉ, hành
động, ngôn ngữ nhân vật. Văn xuôi tự sự thuộc loại hình tự sự, có chức năng tái hiện “tính khách
quan” của thế giới, luôn có nhân vật, sự kiện, hành động, xung đột. Thuộc về văn xuôi tự sự có
các thể loại như truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết. Tuy thuộc loại hình tự sự nhưng trong văn
xuôi tự sự vẫn có thể có (thậm chí có nhiều) yếu tố trữ tình, nhưng những yếu tố này không phá
vỡ bản chất loại tự sự của văn xuôi tự sự. Tất nhiên, có những thể loại có thể đứng ở đường biên
của tự sự và trữ tình như bút ký, tản văn, chân dung văn học...
1.1.2. Nghiên cứu lý thuyết của các tác giả nước ngoài về văn xuôi tự sự
Đây là một lĩnh vực nghiên cứu rất rộng, hàm chứa nhiều vấn đề phong phú, đã đạt được
những thành tựu lớn. Nhắc đến văn xuôi, người ta thường nghĩ đó là một hình thức đối lập với
thơ, có tổ chức ngôn ngữ như lời nói thường, không bị chi phối bởi “nguyên lý tương đương”
hay nhịp điệu, vần điệu. Nhờ vậy, văn xuôi có thể khai thác tối đa khả năng mô tả thế giới của
ngôn từ, giúp cho người đọc hình dung cụ thể các sự vật, tình huống; gây cảm tưởng như chúng

đang hiển hiện trước mắt người đọc. Đây là thế mạnh của văn xuôi mà thơ khó lòng sánh được.
Khi minh định khái niệm văn xuôi và các thể loại văn xuôi, G.N. Pospelov trong cuốn Dẫn
luận nghiên cứu văn học (tập II) đã nhận định: “Ngoài việc phân chia văn học ra loại (tự sự, trữ
tình và kịch) còn có sự phân chia văn học ra thơ và văn xuôi. Trong ngôn ngữ thông thường tác
phẩm trữ tình thường bị đồng nhất với thơ ca, còn tác phẩm tự sự thì đồng nhất với văn xuôi.
Cách dùng từ như vậy là không chính xác. Mỗi loại văn học đều bao hàm vừa các tác phẩm thơ
(văn vần) vừa văn xuôi (không vần). Tự sự trong các giai đoạn phát triển đầu tiên của ngôn từ
nghệ thuật thường là có vần (sử thi cổ đại, các bài ca chiến công của Pháp, các bưlin và sử ca của
Nga…). Các tác phẩm tự sự được viết bằng thơ cũng thường gặp trong văn học cận đại [122,
tr.12]. Trong loại văn học kịch người ta cũng sử dụng cả thơ và văn xuôi, có khi cả hai cùng kết
hợp trong một tác phẩm [122, tr.12]. Và cả loại trữ tình, chủ yếu là viết bằng thơ, nhưng cũng có
khi là bằng văn xuôi [122, tr.12].


4
Các tác phẩm văn xuôi tự sự là đối tượng chính của một ngành nghiên cứu có sức hấp dẫn
lớn hiện nay là tự sự học. Tự sự học (Narratology) là thuật ngữ do nhà nghiên cứu người Pháp gốc
Bungari Tz. Todorov đề xuất năm 1969 trong sách Ngữ pháp Câu chuyện mười ngày. Thuật ngữ
này làm cho việc nghiên cứu tự sự có tên gọi xác định, dẫn tới hình thành một khoa nghiên cứu độc
lập, dần thay thế cho lý luận về tiểu thuyết đã trở thành chiếc áo quá chật. Tự sự học có thể phân
chia ra tự sự học kinh điển (những năm 60 kéo dài đến khoảng những năm 80 của thế kỉ trước) với
vai trò tiên phong là các học giả Pháp. Giai đoạn hậu kinh điển diễn ra từ những năm 90 thế kỷ XX
trở về sau, với nhiều bổ sung về mặt lý thuyết của các học giả Anh, Mỹ, Pháp.
Tiếp thu những nghiên cứu phong phú của các học giả, chúng tôi dùng khái niệm văn xuôi
tự sự để nghiên cứu mảng văn xuôi quan trọng nhất của Lưu Trọng Lư, với cách hiểu là mảng văn
xuôi thuộc loại hình tự sự, hướng tới việc kể chuyện, trần thuật con người, sự kiện, không gian, thời
gian... một cách khách quan, gắn liền với lời trần thuật của tác giả.
1.1.3. Nghiên cứu lý thuyết của các tác giả trong nước về văn xuôi tự sự
Đối với một số nhà nghiên cứu trong nước, văn xuôi (trong đó có văn xuôi tự sự) được xem
là một trong hai hình thức (kiểu) của văn học bên cạnh thơ. Tác giả Đỗ Đức Hiểu trong Từ điển văn

học (Bộ mới) nhận định: “Văn học ở thời kì nào cũng đa dạng. Có thể phân chia văn học theo hai
kiểu (hình thức) chính là thơ và văn xuôi, đồng thời cũng có thể chia theo ba loại: tự sự, trữ tình và
kịch. Mặc dù không có ranh giới tuyệt đối giữa các loại và có nhiều dạng chuyển tiếp, những đặc
điểm căn bản của mỗi loại là khá xác định. Mỗi loại bao gồm những thể loại hoặc thể tài nhất định
(ví dụ loại hình tự sự bao gồm các thể loại: sử thi, truyện, tiểu thuyết, v.v…). Mỗi thời đại hoặc thời
kì văn học đều nảy nở những hình thức thể loại đa dạng”.
Để đi tìm khái niệm văn xuôi, một số nhà nghiên cứu thường đem so sánh văn xuôi với
thơ. Chẳng hạn, Vương Trí Nhàn trong tiểu luận Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại hóa văn
học đã viết: “Đọc các từ điển chuyên về văn học, người ta nhận thấy các khái niệm văn xuôi và
thơ thường được viết trong thế đối lập nhau. Một bên thiên về đời thường (trong nhiều ngôn ngữ
phương Tây, chữ prose, proza tức văn xuôi, khi chuyển thành hình dung từ, thì có nghĩa tầm
thường), một bên thiên về cái cao thượng, cái siêu việt. Một bên bảo tôi thấy gì viết nấy; bên kia
bảo không, hành động viết của tôi là một hành động sáng tạo với nghĩa đầy đủ của nó […]. Mỗi
tác phẩm văn xuôi được viết - dù tiểu thuyết, hay phóng sự ký sự dài cũng vậy - đều là một câu
chuyện. Nghe câu chuyện ấy người ta hình dung ra một khung cảnh ở đó, có những con người
hoạt động. Kể chuyện tức là tác giả tạo ra một thế giới thu nhỏ. Tiếng nói của tác giả giống như
một luồng ánh sáng soi đến đâu thì người đọc lần theo đến đấy. Cái ông tác giả đóng vai thượng
đế ấy bao giờ cũng đứng cách xa bạn đọc một khoảng cách, cái gì ông cũng biết sẵn. Song chỉ dần
dà ông mới khéo léo gỡ mối và khiến cho mọi chuyện rắc rối do ông bố trí trở nên mạch lạc”
[106, tr.226 - 227].
Khi bàn về văn xuôi tự sự hiện đại, tác giả Nguyễn Nghĩa Trọng trong bài viết Các nhà
văn Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX nói về văn tự sự (Tự sự học - Trần Đình Sử chủ biên) đã dẫn ra
những nhận định về văn tự sự của Phan Kế Bính, Nguyễn Bá Học, Hoàng Tích Chu, Phạm
Quỳnh, Vũ Đình Long, Trúc Hà, Thiếu Sơn, Lê Tràng Kiều, Trương Tửu, Hải Triều, Như Phong,
Vũ Ngọc Phan, Thạch Lam, Vũ Bằng. Nguyễn Nghĩa Trọng kết luận: “Các nhà văn thống nhất
xem văn tự sự là văn kể chuyện, trần thuật sự việc, mô tả hành động, bao gồm cả tả cảnh, tả tình,
tả ngoại hình, nội tâm… Văn tự sự có đầy đủ trong tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn, tùy bút,
ký sự, phóng sự, truyện ký… Nó tổng hợp các loại văn xuôi, đa dạng, phong phú. Tuy nhiên có
trường hợp tự sự là văn vần. Văn tự sự ngày càng phát triển và có triển vọng to lớn nhưng luôn
đổi mới tùy hoàn cảnh lịch sử xã hội và tài năng của các nhà văn”.

Tất cả những nghiên cứu lý thuyết được điểm qua ở trên giúp chúng tôi có chỗ dựa về lý


5
luận để triển khai đánh giá văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư theo những phương diện phù hợp với đặc
trưng loại hình của nó, từ đó, có thể chỉ ra một cách thuyết phục những đóng góp của của mảng
sáng tác này cho văn xuôi tự sự Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 nói riêng và văn xuôi tự sự Việt
Nam hiện đại nói chung.
1.2. Nghiên cứu về ảnh hưởng của văn học phương Tây đối với quá trình hiện đại hóa
văn học Việt Nam nói chung, văn xuôi tự sự Việt Nam nói riêng
1.2.1. Những nghiên cứu công bố trước 1945
Trong phần viết này, điều chúng tôi quan tâm là những gợi mở từ những nghiên cứu về vấn
đề nói trên đối với việc tìm hiểu những đặc điểm của văn xuôi tự sự Việt Nam giai đoạn 1930 1945 (trong đó có văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư) - những đặc điểm được hình thành trong sự cọ xát
văn hóa và trong những nỗ lực hiện đại hóa văn học của những nhà văn thức thời, được đào tạo từ
“trường Tây”, trong khi đón ngọn gió văn minh từ phương xa thổi tới vẫn không thôi thao thức với
bản sắc và tiền đồ của nền văn hóa, văn học Việt Nam.
Sau khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, văn học Việt Nam cuối thể kỷ XIX đã có
một cuộc tiếp xúc sâu rộng với nền văn hóa, văn học phương Tây qua văn hóa, văn học Pháp. Điều
này đã được nhiều nhà nghiên cứu như Dương Quảng Hàm, Thiếu Sơn, Hoài Thanh - Hoài Chân,
Vũ Ngọc Phan, Kiều Thanh Quế… xác nhận, khẳng định.
1.2.2. Những nghiên cứu công bố sau 1945
Sau Cách mạng tháng Tám, vấn đề tiếp nhận ảnh hưởng của văn hóa, văn học phương Tây ở
nước ta vẫn được các nhà nghiên cứu tiếp tục quan tâm. Ở miền Nam có Bùi Đức Tịnh, Phạm Thế
Ngũ…; ở miền Bắc có các tác giả như Huỳnh Lý, Đỗ Đức Hiểu, Đặng Anh Đào, Đào Duy Hiệp, Đỗ
Lai Thúy…
Chúng tôi thấy các nhà nghiên cứu đều thừa nhận ảnh hưởng của văn học phương Tây (qua
trường hợp tiêu biểu là văn học Pháp) đối với văn học Việt Nam. Ngoài nghiên cứu ảnh hưởng
chung thì các nhà nghiên cứu còn tìm hiểu sự ảnh hưởng này ở một số trường hợp nhà văn cụ thể.
Trong các gương mặt đó, có những nhận định bước đầu về Lưu Trọng Lư, chủ yếu là về thơ ông.
1.3. Nghiên cứu mang tính khái quát về vị trí Lưu Trọng Lư trong bức tranh chung

của văn học Việt Nam trước 1945
1.3.1. Nghiên cứu công bố trước 1945
Nhắc tới Lưu Trọng Lư trong vai trò là nhà thơ, hầu hết các nhà nghiên cứu, phê bình đều có
chung nhận định: ông là một trong những người khởi xướng cho phong trào Thơ mới. Trong Thi
nhân Việt Nam, các nhà phê bình Hoài Thanh - Hoài Chân xác nhận vai trò khai phá, mở đường
cho Thơ mới của Lưu Trọng Lư. Ngoài đánh giá vai trò của Lưu Trọng Lư trong việc hô hào, cổ
vũ cho Thơ mới, các tác giả cũng khẳng định chính ông là người làm thành công những bài Thơ
mới đầu tiên.
Khi nghiên cứu về mảng văn xuôi tự sự của Lưu Trọng Lư trước Cách mạng, các nhận xét
còn rất sơ sài, thể hiện sự quan tâm chưa đúng mức đến mảng sáng tác này của ông. Người đưa ra
nhận định đầy đủ hơn về Lưu Trọng Lư trong vai trò nhà văn là Vũ Ngọc Phan, với Nhà văn hiện
đại. Tuy nhiên, Vũ Ngọc Phan không đánh giá cao các sáng tác văn xuôi của Lưu Trọng Lư.
1.3.2. Nghiên cứu công bố sau 1945
Việc tìm hiểu về tác giả Lưu Trọng Lư vẫn giành được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu
sau 1945 ở cả hai miền Nam - Bắc. Ở miền Nam, Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học sử giản
ước tân biên đã nhận định về Lưu Trọng Lư ở hai vai trò là nhà viết văn xuôi và nhà thơ của phong
trào Thơ mới. Tác giả của Việt Nam văn học sử giản ước tân biên cũng đồng tình với Vũ Ngọc
Phan khi đánh giá khá thấp về văn xuôi Lưu Trọng Lư viết trước Cách mạng tháng Tám trong
quyển Nhà văn hiện đại.


6
Ở miền Bắc, quyển Văn học Việt Nam thế kỷ XX (do Phan Cự Đệ chủ biên) đã khái quát tác
giả Lưu Trọng Lư ở các vai trò: nhà thơ, nhà lý luận phê bình, nhà báo, nhà viết kịch, người viết hồi
kí. Cũng trong công trình này, các tác giả cũng cho rằng trong cuộc tranh luận về thơ mới - thơ cũ,
Lưu Trọng Lư là một người đấu tranh sôi nổi cho một nền thơ ca tự do.
1.4. Nghiên cứu chuyên sâu về bộ phận văn xuôi tự sự sáng tác trước 1945 của Lưu
Trọng Lư
1.4.1. Nghiên cứu công bố trước 1945 về văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư
Trong Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan không đánh giá cao tiểu thuyết của Lưu Trọng Lư.

Ông cho rằng Lưu Trọng Lư là “một nhà tiểu thuyết rất tầm thường”, không có gì thú vị. Bởi vì,
tiểu thuyết của ông chỉ được kể bằng “giọng buồn tẻ”, lối kể chuyện “tâm tình”, “lôi thôi”, “phẳng
lặng”, “nhớ đâu viết đó”, nhiều cốt truyện được kể lại như trong giấc mộng.
Khi bàn về truyện ngắn trước Cách mạng của Lưu Trọng Lư, tác giả Nhà văn hiện đại đã
dẫn những lời khen ngợi của Phan Khôi về tập truyện ngắn Người sơn nhân. Vũ Ngọc Phan không
đồng tình với nhận định của Phan Khôi và cho rằng Người sơn nhân cũng “cảm động”, nhưng
“không phải tốt đẹp quá”. Tiếp đó, tác giả nhận định tập truyện ngắn đầu tay - Người sơn nhân - có
kết cấu khéo nhưng còn lại thì đều “tầm thường cả”.
Lê Tràng Kiều có ba bài viết đề cập đến văn xuôi Lưu Trọng Lư. Trong bài “Nhà thơ Thế
Lữ phê bình cuốn tiểu thuyết Khói lam chiều” (Hà Nội báo, số 23, 1936), Lê Tràng Kiều đã công
khai bênh vực tác phẩm này của Lưu Trọng Lư và đả kích mạnh mẽ cách phê bình “lật tẩy” của
Thế Lữ về Khói lam chiều. Tiếp tục trên Hà Nội báo (số 24, 1936), Lê Tràng Kiều đăng bài “Các
đồng nghiệp phê bình Khói lam chiều”. Trong bài này, nhà phê bình đã trích dẫn các lời khen ngợi
của đồng nghiệp về tiểu thuyết Khói lam chiều, thống nhất đánh giá đây là “Một thiên tình sử đầy
những lãng mạn và thơ mộng, thứ tình sử của nữ sĩ Geogre Sand, nó thấm vào một linh hồn một
người sầu thảm mơ hồ, một u hoài gay gắt”.
1.4.2. Nghiên cứu công bố sau 1945 về văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư thời kỳ trước Cách mạng
Trong cuốn Lưu Trọng Lư - Về tác gia và tác phẩm, Hà Minh Đức - Nguyễn Văn Thành
đã tuyển chọn khá nhiều bài nghiên cứu xuất hiện sau 1945 về văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư.
Đáng chú ý nhất là bài viết của Nguyễn Văn Long. Nhà nghiên cứu này đã có những nhận định
khái quát đáng chú ý: “Trước Cách mạng, Lưu Trọng Lư đã viết hơn chục tập truyện ngắn, tiểu
thuyết, tùy bút, nhiều tác phẩm đã in thành sách, một số là những chuyện dài đã đăng trên báo.
Trong số đó, những tác phẩm còn có giá trị lâu dài có thể nói là không nhiều. Có một lý do khá cơ
bản là tác giả thường viết nhanh, viết vội, không mấy khi chăm sóc kĩ càng những trang văn xuôi
của mình [119, tr.205 - 206]. Nhưng lý do cũng còn ở chỗ khác, mà điều này mới là chủ yếu: ngòi
bút của Lưu Trọng Lư không sở trường ở phía phát hiện và mô tả những quan hệ xã hội hiện thực,
không mạnh ở năng lực quan sát và khắc họa chân dung, tính cách, xây dựng cốt truyện. Ở thể
loại nào thì Lưu Trọng Lư cũng cứ “để lòng mình tràn lan trên trang giấy”. Nguyễn Văn Long
cũng cho rằng: “Trong hơn mười năm sáng tác trước Cách mạng, Lưu Trọng Lư còn viết nhiều
cuốn tiểu thuyết, nhưng phần nhiều vẫn là trong khuynh hướng lãng mạn thoát ly”.

Năm 2011, nhà xuất bản Lao động, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây đã cho phát
hành Lưu Trọng Lưu tác phẩm - Truyện ngắn, tiểu thuyết (trọn bộ hai tập). Là một trong hai
người tham gia sưu tầm, biên soạn, Lại Nguyên Ân đã khơi dậy việc nghiên cứu văn xuôi tự sự
Lưu Trọng Lư với bài viết mở đầu tập sách: “Lưu Trọng Lư được xem trước hết như một nhà thơ;
nhưng thế giới thơ Lưu Trọng Lư thật ra không tách rời, mà ngược lại, có sự tiếp nối với thế giới
văn xuôi do ông sáng tạo, đó là cuộc sống trong các truyện ngắn, truyện dài ông viết. Nhiều khi,
một vài ý tưởng xúc cảm chỉ in gọn trong một vài câu thơ đoạn thơ, sẽ có âm vang rộng dài hơn,
mà không chỉ một lần, trong các truyện ngắn, truyện dài”. Lại Nguyên Ân cũng lưu ý rằng việc


7
văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư đã được “nhìn nhận” lại một cách thỏa đáng hơn trong thời gian
gần đây. Ông còn phác họa những thay đổi trong quá trình sáng tác “tiểu thuyết” của Lưu Trọng
Lư trên phương diện đề tài, chỉ ra “khả năng cảm nhận và biểu hiện đời sống đương thời” trong tác
phẩm của nhà văn. Ông đánh giá tác phẩm Lưu Trọng Lư “chứa đựng một loại giá trị như những
bằng cứ về màu sắc cụ thể của đời sống ở thời đại mình - điều mà ngay đương thời người ta còn
chưa thấy rõ”. Cũng theo Lại Nguyên Ân, sáng tác của Lưu Trọng Lư mang đậm dấu ấn vùng miền.
Bên cạnh những đề tài hiện thực, phong tục... thì nổi bật nhất vẫn là tính chất lãng mạn.
Gần đây có một số đề tài luận văn thạc sĩ đã nghiên cứu về văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư.
Trước hết là luận văn Phong cách văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư thời kỳ trước 1945 của chúng tôi
(Trường Đại Vinh, 2012). Ngoài ra, có thể kể đến một số luận văn khác như: Đặc điểm truyện ngắn
Lưu Trọng Lư của tác giả Trần Hoài Ngọc (Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh,
2012); Đặc điểm truyện Lưu Trọng Lư của tác giả Lê Phương Thảo (Trường Đại Vinh, 2013)...
Nhìn chung, các công trình, bài viết và luận văn thạc sĩ nêu trên mới chỉ dừng lại ở nhận
định khái quát, đi vào một số thể loại hoặc đánh giá phong cách văn xuôi tự sự của Lưu Trọng Lư.
Chúng tôi trân trọng những ý kiến đi trước vì dù ít, dù nhiều, đã góp một tiếng nói có ý nghĩa cho
việc nhìn lại văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư trước cách mạng tháng Tám.

Chương 2
SỰ HÒA TRỘN CÁC KHUYNH HƯỚNG THẨM MỸ

TRONG VĂN XUÔI TỰ SỰ LƯU TRỌNG LƯ TRƯỚC 1945
2.1. Một số khuynh hướng thẩm mỹ chính chi phối văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX
2.1.1. Khái niệm khuynh hướng thẩm mỹ
Trong luận án của chúng tôi, khái niệm khuynh hướng thẩm mỹ (Aesthetic Tendency) được
dùng để chỉ thiên hướng lựa chọn phương tiện, kỹ thuật, chất liệu nhằm thể hiện cái đẹp ở trong sáng
tác. Khuynh hướng thẩm mỹ, một mặt là biểu hiện cụ thể của quan niệm thẩm mỹ, mặt khác, là môi
sinh giúp hình thành nên quan niệm thẩm mỹ, với tư cách là hệ thống tiêu chí đánh giá, lựa chọn cái
đẹp, chi phối cả hoạt động sáng tạo lẫn thưởng thức cái đẹp.
Khuynh hướng thẩm mỹ tồn tại ở dạng tinh thần, như một định hướng chi phối toàn bộ cách
hành xử, toàn bộ sự lựa chọn, miêu tả, thể hiện của tác giả. Nhưng khi đã được hiện thực hóa,
khuynh hướng thẩm mỹ thể hiện trong mọi thành tố cấu trúc của một hiện tượng thẩm mỹ, khiến
người tiếp nhận có thể nhận ra được.
Khuynh hướng thẩm mỹ là một hiện tượng lịch sử. Có thể có nhiều khuynh hướng thẩm mỹ
khác nhau cùng tồn tại trong một khoảng thời gian, hoặc chúng kế tiếp nhau chiếm vai trò chi phối
sáng tác trong lịch sử văn học. Chính sự đa dạng của các khuynh hướng thẩm mỹ đã làm giàu có
đời sống tinh thần của công chúng.
Bằng trực giác, người ta có thể nhận ra ngay có những khuynh hướng thẩm mỹ nào đang chi
phối đời sống văn học. Nhưng để kiểm chứng, rất cần đến những tiêu chí cụ thể. Khi muốn khẳng
định sự có mặt/ tồn tại của một khuynh hướng thẩm mỹ, cần phải xét đến các yếu tố sau: a) Nền
tảng tư tưởng trên đó sẽ nảy sinh khuynh hướng thẩm mỹ; b) Nền tảng văn hóa xác định mối liên hệ
bề sâu giữa khuynh hướng thẩm mỹ với toàn bộ những yếu tố khác làm nên bộ mặt tinh thần của
một xã hội, một cộng đồng dân tộc; c) Tính hệ thống của những lựa chọn đối với các phương thức
và phương tiện biểu đạt thẩm mỹ; d) Sự tương thích giữa hệ thống những lựa chọn phương thức và
phương tiện biểu đạt thẩm mỹ nói trên với toàn bộ điều kiện phát triển của xã hội trong một khoảng
thời gian xác định nào đó.


8
2.1.2. Khuynh hướng thẩm mỹ cổ điển
“Khuynh hướng thẩm mỹ cổ điển” là một khái niệm quy ước do chúng tôi tạm đặt để chỉ sự

hướng về cái đẹp mang tính phổ quát, mực thước, trang trọng, ưa thích sự hài hòa, cân đối trong
sáng tác của các nhà văn, nhà thơ. Khuynh hướng này bắt nguồn từ truyền thống thẩm mỹ của nền
văn học dân tộc, thể hiện rõ nhất ở bộ phận văn học viết và sau này được các nhà văn kế thừa có cải
biến, trên cơ sở tiếp thu những nguyên tắc mỹ học của chủ nghĩa cổ điển Pháp, nói rộng ra là chủ
nghĩa cổ điển trong văn học phương Tây.
Khuynh hướng thẩm mỹ cổ điển chi phối văn học trung đại Việt Nam trong một thời kỳ dài.
Bước sang thời kỳ hiện đại, khuynh hướng này không còn phổ biến và không phải là lựa chọn hàng
đầu của người sáng tác nhưng nó vẫn được duy trì. Sự tồn tại của nó tùy thuộc vào các nhà văn, mỗi
một tác giả tiếp cận thẩm mỹ cổ điển theo tạng chất riêng của họ. Ở trong thơ, do đặc thù của thể
loại, dấu ấn của khuynh hướng cổ điển được bộc lộ rõ nhất, thể hiện trong ngôn từ còn lưu tính ước
lệ, trong cách xây dựng hình tượng, trong quan niệm về sự hài hòa... Trong thơ Đông Hồ, Quách
Tấn, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Huy Cận, Ngân Giang, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng…, khuynh
hướng thẩm mỹ cổ điển vẫn cho phép các nhà thơ sáng tạo được những tác phẩm xuất sắc. Dĩ nhiên,
Lưu Trọng Lư cũng cần được tính vào số những nhà thơ còn nặng lòng với khuynh hướng thẩm mỹ
cổ điển, dù ông thuộc số những người hăng hái vào bậc nhất trong cuộc đấu tranh đòi “thị phần”
cho thơ mới.
Khác với trong thơ, khuynh hướng thẩm mỹ cổ điển để lại dấu ấn mờ nhạt hơn trong văn
xuôi tự sự, gồm truyện ngắn, tiểu thuyết và các loại ký tự sự… Sở dĩ có điều này vì trong thời đại
văn học mới, tính chất và cấu trúc của các thể loại đã có nhiều biến đổi. Việc tự sự về những câu
chuyện của đời sống đương thời đã giúp các nhà văn dần dần “thanh lý” những tín điều văn học cũ,
để hướng tới một cái nhìn có tính dân chủ hơn về đối tượng miêu tả, theo đó, sẽ tìm đến một hình
thức biểu đạt tương thích. Tất nhiên, sự “thanh lý” kia cũng phải có quá trình. Trong văn xuôi tự sự
buổi giao thời, cái nhìn đạo lý còn chi phối sáng tác của nhiều nhà văn như Phạm Duy Tốn, Nguyễn
Bá Học, Hồ Biểu Chánh, theo đó, chi phối cách lựa chọn chủ đề, xây dựng hình tượng, chọn giọng
điệu… của họ. Lời văn biền ngẫu nhịp nhàng, réo rắt vẫn còn được ưa thích, khiến độc giả của thời
kỳ mới đôi khi thấy mệt mỏi. Chính chúng phần nào đã làm giảm đi tính “văn xuôi” vốn là một tính
chất rất quan trọng của các tác phẩm văn xuôi tự sự hiện đại.
2.1.3. Khuynh hướng thẩm mỹ thị dân
Chúng tôi sử dụng khái niệm khuynh hướng thẩm mỹ thị dân để chỉ khuynh hướng thẩm mỹ
hiện đại, gắn liền với quan niệm của con người sống ở môi trường đô thị. Thẩm mỹ thị dân phát

triển cùng với việc tiếp nhận ảnh hưởng phương Tây trong lối sống, sinh hoạt; với sự xuất hiện
những nhu cầu vật chất, tinh thần đa dạng, phong phú; với sự phổ biến của tâm lý ưa thích cái mới,
ưa thích sự thay đổi. Tất cả những điều ấy gắn liền với sự trỗi dậy của ý thức cá nhân mang màu sắc
tư sản, tiểu tư sản.
Thẩm mỹ thị dân gắn với cái nhìn lãng mạn, với nhu cầu giải phóng cái tôi khỏi môi trường
chật chội, tù túng. Khuynh hướng thẩm mỹ thị dân ở nước ta không phải tới thời Pháp thuộc mới
xuất hiện. Tuy nhiên, đến khi quan hệ sản xuất hàng hóa mang tính chất tư bản xuất hiện, cùng sự
xuất hiện các đô thị, sự tăng lên của tầng lớp tiểu tư sản thì khuynh hướng thẩm mỹ thị dân mới
phát triển mạnh mẽ. Muốn đáp ứng được nhu cầu độc giả thì người sáng tác phải nương theo
khuynh hướng thẩm mỹ này, chú ý những cảm xúc mới, biểu hiện những lớp người mới, những ứng
xử mới... Đó là một trong những nguyên do khiến cho nhà văn khi viết theo khuynh hướng thẩm mỹ
thị dân thường chọn nội dung gắn liền với thái độ đề cao cái tôi, chú ý sự lãng mạn của cảm xúc,
cách thể hiện ngôn từ vừa trữ tình, trau chuốt, vừa gần gũi đời sống.
Thơ mới lãng mạn là tiếng nói của tầng lớp tiểu tư sản thành thị đã thoát ly cuộc đấu tranh


9
chính trị của dân tộc. Các tác giả Thơ mới thường đi sâu vào thế giới nội tâm, vào cái “tôi” chủ
quan, thoát ly. Trong văn xuôi tự sự, nếu nhiều tác phẩm của Hồ Biểu Chánh, Ngô Tất Tố, Nguyễn
Tuân… cho thấy sự hiện diện của khuynh hướng thẩm mỹ cổ điển qua việc đề cao đạo lý, phong
tục, tìm về cái đẹp của thời xưa cũ, thì các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng,
Nam Cao, Nguyên Hồng… lại mang khuynh hướng thẩm mỹ thị dân rõ rệt. Điều đó thể hiện rõ
trong cách các nhà văn khai thác đề tài, triển khai chủ đề và hướng tới tính đại chúng trong việc lựa
chọn các phương thức, phương tiện nghệ thuật.
Nhìn tổng quan, khuynh hướng thẩm mỹ thị dân biểu thị nhu cầu đổi mới của văn học nhằm
đáp ứng đòi hỏi của tầng lớp độc giả mới, và trước đó, đáp ứng chính nhu cầu giãi bày của chủ thể
sáng tạo. Khuynh hướng thẩm mỹ thị dân không mang tính chất phong bế, đóng kín mà có thể
khuyến khích, thúc đẩy nhiều tìm tòi sáng tạo theo nhiều chiều hướng khác nhau mang tinh thần
hiện đại. Trong văn học công khai 1930 - 1945, có thể nói khuynh hướng này đóng vai trò chủ đạo,
gây ảnh hưởng tới cả sáng tác của một số nhà thơ cách mạng như Tố Hữu (tất nhiên, chỉ trên một

vài phương diện thuộc về hình thức nghệ thuật và nhu cầu tự biểu hiện của cái tôi).
2.2. Sự tiếp biến các khuynh hướng thẩm mỹ thời đại trong văn xuôi tự sự Lưu Trọng
Lư trước 1945
2.2.1. Tiền đề của việc tiếp biến
Lưu Trọng Lư sinh ra trong một gia đình có truyền thống Nho học, từng theo học tại trường
Quốc học Huế và Hà Nội. Ông đi dạy trường tư, viết văn và làm báo kiếm sống. Tác giả cũng là
người sáng tác, khởi xướng và cổ vũ cho phong trào Thơ mới. Là người chủ yếu được đào luyện,
trải nghiệm trong trường Tây cho nên việc tiếp nhận, cải biến khuynh hướng thẩm mỹ của thời đại
trong văn xuôi tự sự của nhà văn trước 1945 có sự chọn lọc, mang đậm dấu ấn riêng. Nguồn cội của
sự tiếp biến đó xuất phát từ việc tác giả gìn giữ những nét đẹp trong văn chương truyền thống và sự
tiếp thu linh hoạt những giá trị mới mẻ của văn học phương Tây.
Thực tế sáng tác cho thấy, tâm hồn Lưu Trọng Lư mang nặng những ảnh hưởng cũ, trong đó
có thơ Tản Đà. Ảnh hưởng ấy đã tạo nên trong ông lòng ái mộ các giá trị xưa, những giá trị chân
chính qua các bài tác giả viết về Nguyễn Du, về Truyện Kiều. Trong văn xuôi là những tác phẩm
mang dấu ấn của văn xuôi trung đại qua sự thể hiện khuynh hướng đạo lý hay tâm lý hoài vọng,
luyến tiếc quá khứ, lưu luyến cái đẹp xưa cũ.
Tuy Lưu Trọng Lư chịu ảnh hưởng của văn học truyền thống nhưng vẫn đến với văn chương
hiện đại bằng cảm quan của chủ nghĩa lãng mạn, bằng tình và mộng. Ông luôn có ý thức gìn giữ sự
nối tiếp giữa truyền thống với hiện đại. Những ai yêu tác phẩm của Lưu Trọng Lư cũng đều nhận ra
ảnh hưởng của văn học lãng mạn Pháp trong sáng tác của ông: đó là tinh thần lãng mạn; là trạng
thái mông lung bất định, là cái tôi cá nhân mơ màng, mộng ảo. Các nhân vật thường được mô tả
trong các mối quan hệ phức tạp, thường sống trong môi trường đô thị, có thế giới nội tâm phong
phú, giàu cảm xúc.
2.2.2. Sự hội tụ của các khuynh hướng thẩm mỹ ở văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư trước 1945
Lưu Trọng Lư sinh ra, lớn lên, học tập và làm việc trong môi trường đô thị đang Âu hóa.
Nhà văn đã nhanh chóng vận dụng, tiếp thu các khuynh hướng thẩm mỹ của nhiều trào lưu văn học
đương thời vào trong các sáng tác của mình. Lưu Trọng Lư cũng có nhiều trang văn hoài vọng quá
khứ, luyến tiếc thời vàng son phong kiến. Hoài niệm quá khứ có khi là kí ức về cảnh gia đình phong
kiến đủ đầy, con cái được giáo dục dưới trường học chữ Hán, những lần chèo thuyền, giong buồm
về quê ngoại lấy thóc lúa để rồi tác giả bộc lộ sự nuối tiếc một thời đã xa, một thời vang bóng qua

Bến cũ, Dòng họ, Chiếc cáng xanh. Những tác phẩm của nhà văn là sự góp nhặt các mảnh ghép của
chính cuộc đời ông.
Khuynh hướng thẩm mỹ thị dân trong sáng tác của Lưu Trọng Lư biểu hiện trước hết ở sự


10
chú ý miêu tả (với nhiều đồng cảm) lối sống Âu hóa và tâm lý hưởng thụ, trong đó có hưởng thụ
trong tình yêu. Khuynh hướng thẩm mỹ thị dân thường đánh vào cái tò mò, éo le, vắt ra nước mắt,
nên nội dung phải có phần ly kì, phương xa, lắt léo, lạ lẫm.
Như vậy, những khuynh hướng thẩm mỹ chính của thời đại đã được Lưu Trọng Lư chọn
lọc, tiếp thu và thể hiện trong sáng tác. Nhà văn vẫn bộc lộ nỗi lòng luyến tiếc những ký ức đẹp,
những giá trị vàng son một thời. Nhưng mặt khác, nhà văn thấy sự thắng thế tất yếu của tư tưởng
Âu hóa, của những giá trị mới nảy sinh do tiếp thu lối sống, sinh hoạt phương Tây. Tất cả những
điều ấy thể hiện qua tâm trạng, cảm xúc đầy phức tạp của nhân vật, nhất là nhân vật thị dân trong
tác phẩm của ông.
2.3. Nguyên tắc phản ánh - biểu hiện trong văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư trước 1945
2.3.1. Chú ý đến những uẩn khúc trong tình cảm của nhân vật
Với Lưu Trọng Lư, những bí ẩn trong tình cảm của các nhân vật như một mạch ngầm lan tỏa
trong suốt tác phẩm. Những đau đớn, hờn tủi, cảm giác về cản trở, xa cách trong tâm hồn của các
chàng trai - cô gái trẻ trong độ hẹn hò được nhà văn quan tâm lột tả.
Viết về tình yêu của đôi trai gái nơi thôn dã, Khói lam chiều là câu chuyện tình ngây thơ
từ thuở chăn trâu cắt cỏ của Vịnh và Đối. Cũng viết về những trắc ẩn trong tâm hồn con người,
nhưng ở tiểu thuyết Em là gái bên song cửa và Cô bé hái dâu, Lưu Trọng Lư lại đưa người đọc đến
với một chuyện tình qua khung cửa sổ được gắn kết bởi một sợi dây, hoặc đưa thư tín vào truyện
ngắn để thể hiện thế giới tâm lý, tư tưởng của nhân vật. Bên cạnh những đau đớn trong tình yêu của
các chàng trai - cô gái trẻ đang độ hẹn hò, Lưu Trọng Lư còn viết về những uẩn khúc trong tâm hồn
của những nhân vật đã thành chồng, thành vợ. Có khi sự éo le trong số phận của các nhân vật lại
được nhà văn lồng ghép vào những câu chuyện ly kỳ.
Nhìn tổng thể, có thể nói văn học công khai trên văn đàn Việt Nam 1930 - 1945 là bộ phận
văn học của muôn ngàn uẩn khúc. Điều này có liên quan tới bối cảnh chính trị - văn hóa - xã hội

thời đó, cũng liên quan tới sự chi phối mạnh mẽ của chủ nghĩa lãng mạn trong văn học phương Tây
cộng với những ảnh hưởng tương đồng từ trào lưu tiểu thuyết “mới” của văn học Trung Quốc (cũng
được nảy nở từ những kích thích của văn học phương Tây). Tuy cũng viết về những uẩn khúc trong
tình cảm của nhân vật như các tác giả cùng thời, nhưng trong những trang văn của mình, Lưu Trọng
Lư thường đẩy nó vào một không gian bảng lảng sương khói, tương tự không gian của những câu
chuyện cổ.
2.3.2. Chú ý miêu tả những thân phận phụ nữ không may mắn
Có sự chia sẻ với định hướng sáng tác của nhiều nhà văn đương thời, trong các sáng tác văn
xuôi tự sự của mình, Lưu Trọng Lư cũng chọn thể hiện những thân phận phụ nữ không may mắn
như một trong những nguyên tắc phản ánh - biểu hiện trong khuynh hướng thẩm mỹ của mình.
Trước hết, ông miêu tả hình ảnh những cô gái mới lớn mang trong mình tư tưởng tân thời,
muốn tìm tới một tình yêu tự do và một cuộc sống hôn nhân hạnh phúc, nhưng rồi phải đối mặt với
thực tại đau đớn do chính gia đình, xã hội gây ra (Cô Nguyệt, Cô Nhung, Em là gái bên song cửa).
Ngoài việc thể hiện số phận bất hạnh của những cô gái sống trong môi trường đô thị và trong đại
gia đình phong kiến, Lưu Trọng Lư còn viết về thân phận của những cô gái đã sa chân làm gái
giang hồ.
Khi đi vào bi kịch của nhân vật nữ, đúng như Lại Nguyên Ân nhận xét, Lưu Trọng Lư
không chỉ nhìn thấy số kiếp “sống làm vợ khắp người ta” của họ, mà còn nhận ra một điều nghịch
lý, đó là nét nghệ sĩ tài hoa cùng tâm hồn thanh khiết như là phần tốt đẹp trong con người họ..
Hình ảnh người mẹ trong văn xuôi tự sự của Lưu Trọng Lư cũng hiện ra với những bất hạnh,
khổ đau. Người mẹ tần tảo, hi sinh vì chồng con được nhắc đi nhắc lại nhiều trong văn xuôi tự sự
của Lưu Trọng Lư trước 1945 như một nỗi ám ảnh qua các tiểu thuyết: Dòng họ, Chiếc cáng xanh,


11
Gió cây trút lá, Bến cũ, Em là gái bên song cửa. Qua những quan hệ trong dòng tộc theo chế độ phụ
hệ giành vị trí trước sau, trên dưới trong gia tộc, Lưu Trọng Lư đã cho thấy người mẹ là người phụ
nữ có vị trí quan trọng trong gia đình, nhưng cũng phải chịu nhiều thiệt thòi với thân phận là người
kế thất (vợ lẽ).
Số phận người phụ nữ là một trong những chủ đề được nhiều nhà văn giai đoạn 1930 - 1945

quan tâm thể hiện. Khi viết về những thân phận phụ nữ không may mắn, Lưu Trọng Lư vẫn có nét
riêng: ông quan tâm tới số phận của những cô gái trẻ tài hoa, giàu tình cảm, có tri thức nhưng luôn
gặp bất hạnh. Trong đó ấn tượng nhất là những nữ sinh xuất thân trong gia đình quan lại, được gửi
học ở trường Tây, biết tiếng Pháp, yêu văn chương của Pháp, có quan niệm tình yêu tự do, nhưng
những tàn dư của ý thức nho giáo lỗi thời đã đẩy những thân phận như Nguyệt, Nhung, Cẩn, Quỳnh
phải chấp nhận sống cuộc sống vô nghĩa hoặc lựa chọn cái chết để giải thoát cho mình. Qua thân
phận của những phụ nữ, Lưu Trọng Lư muốn gửi gắm một thông điệp: trong bối cảnh xã hội Việt
Nam đang trên đường Âu hóa, có rất nhiều số phận phụ nữ bất hạnh, thiệt thòi. Tuy sống trong đau
khổ, nhưng ở họ vẫn luôn bảo tồn những vẻ đẹp tâm hồn và đó là căn cốt, là giá trị vĩnh cửu mà văn
chương phải đề cao.
2.3.3. Phối trí hài hòa không gian xa xăm với không gian cụ thể
Cũng miêu tả không gian trong cái nhìn đượm buồn, bế tắc như những tác giả cùng thời,
nhưng Lưu Trọng Lư chú ý sự đan cài giữa không gian xa xăm với không gian cụ thể. Ông đem xáo
trộn thực với mộng, mộng với thực, tiên với người, tiên với tục tạo nên một không gian mộng ảo ẩn
hiện trong cuộc sống trần thế. Trong không gian ấy, các con vật biết trò chuyện, chim muông có thể
nói và hiểu được tiếng người, các cây cỏ, hoa lá có thể khiêu vũ và đá cuội có thể mỉm cười.
Trong văn xuôi Lưu Trọng Lư có nhiều mô típ gần gũi với truyện cổ tích, truyện cổ, với các
nhân vật Đức Vua, Hoàng Hậu, Công Chúa, Hoàng Tử… Dù rất “say” trong việc tạo dựng không
gian xa xăm, Lưu Trọng Lư không quên miêu tả không gian cụ thể của cuộc sống thực tại và không
gian của ký ức. Đây cũng là sở trường của ông. Không gian này gắn với những hồi ức và kỷ niệm
của tác giả về gia đình, về tuổi thơ và đặc biệt là về hình ảnh người mẹ. Nó cũng chứa đựng vẻ “xa
xăm” đặc biệt, tương thích một cách nghịch lý với không gian mộng ảo mang màu huyền thoại.
Lưu Trọng Lư viết về hai loại không gian như là một sự đối lập nghiệt ngã. Không gian cõi
tiên, mộng ảo hoặc hoài niệm là chốn nhân vật được hưởng những điều tốt đẹp và yên bình. Ngược
lại, không gian thực tại, không gian cõi trần là nơi họ đang đối mặt với nhiều đau đớn, thách thức.
Dường như Lưu Trọng Lư đang đặt mình vào giữa hai thế giới, và thế giới mộng ảo là nơi ông
muốn tìm đến như một sự giải thoát, một sự lãng quên.

Chương 3
DẤU ẤN CỦA VĂN XUÔI TỰ SỰ LƯU TRỌNG LƯ TRƯỚC 1945

Ở HỆ THỐNG ĐỀ TÀI VÀ HỆ THỐNG HÌNH TƯỢNG
3.1. Một số đề tài và hình tượng nổi bật của văn xuôi tự sự Việt Nam trước 1945
3.1.1. Đề tài chính
3.1.1.1. Xung đột gia đình
Gia đình không phải là một đề tài mới trong văn học nói chung, văn học Việt Nam nói riêng.
Ngay từ thời trung đại, cả trong thơ và trong văn xuôi, những quan hệ gia đình đã được thể hiện khá
sâu sắc, theo đó, các vấn đề xã hội cũng được soi tỏ dưới một góc nhìn độc đáo. Đề tài gia đình tiếp
tục được khơi sâu trong sáng tác của nhiều nhà văn giai đoạn trước 1945. Khi khai thác những xung
đột trong gia đình, các nhà văn có cơ hội thấy được tương quan lực lượng giữa những nỗ lực bảo vệ,


12
giữ gìn luân lý truyền thống và những khát vọng đổi khác, vốn được khơi lên nhờ sự kích thích của
tư tưởng tự do tư sản đề cao cái tôi cá nhân.
Ở sáng tác của Hồ Biểu Chánh, xung đột gia đình hiện ra lắm vẻ, khi thì gắn với việc cưỡng
ép hôn nhân (Tiền bạc bạc tiền), khi thì gắn với những toan tính, vụ lợi (Thầy thông ngôn)... Qua
vấn đề gia đình, Hồ Biểu Chánh muốn khẳng định đạo lý nhà nho cũng như những truyền thống
ứng xử tốt đẹp của người nông dân Nam Bộ.
Khác với Hồ Biểu Chánh, tác phẩm của các tác giả Tự lực văn đoàn lại khai thác sự xung
đột gay gắt giữa ý thức cá nhân đang trỗi dậy và khuôn phép đạo đức gia đình Nho giáo truyền
thống. Các nhà văn Tự lực văn đoàn đã đứng về phía cái mới, cái tích cực để bảo vệ cho quyền
sống, quyền được hưởng hạnh phúc riêng của những người phụ nữ.
Trung tâm chú ý của các nhà văn hiện thực phê phán là những vấn đề mang tính nhân sinh,
trước hết là vấn đề cơm áo, vấn đề áp bức, bóc lột, vấn đề giàu nghèo. Tuy nhiên, trong tác phẩm
của họ, vấn đề gia đình cũng hiện lên thật ám ảnh. Có thể kể đến hai cuốn tiểu thuyết đều mang tính
tự truyện: Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng và Sống nhờ của Mạnh Phú Tư.
Văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư trước 1945 cũng có đề cập đến đề tài gia đình, tuy nhiên ông
không khai thác sâu các xung đột trong gia đình truyền thống hay sự đổ vỡ gia đình như các nhà
văn cùng thời. Ông chủ yếu sử dụng những ký ức, hoài niệm về gia đình, dòng họ, quê hương làm
chất liệu sáng tác.

3.1.1.2. Những thảm cảnh ở nông thôn
Cho đến tận nửa đầu thế kỷ XX, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu, với dân số hơn
90% là nông dân. Hoàn toàn là điều tự nhiên khi nông dân trở thành một đối tượng được quan tâm hàng
đầu của văn học. Khi nói đến đối tượng này, cuộc sống bi đát của họ trước chính sách khai thác thuộc
địa của thực dân là điều được chú ý đặc biệt. Văn học Việt Nam vốn có truyền thống cảm thương, bởi
vậy, những thảm cảnh ở nông thôn luôn làm các nhà văn ưu tư, thổn thức. Thêm nữa, do chịu ảnh
hưởng của những tác phẩm hiện thực phê phán phương Tây, việc đào sâu vào nỗi khốn cùng của
những người lao động dưới đáy càng trở thành một nỗi thôi thúc đối với các cây bút có thiên hướng
tả chân xã hội.
Viết về thảm cảnh nông thôn trước hết phải kể đến Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam
Cao. Phóng sự Việc làng của Ngô Tất Tố cho thấy những hủ tục lạc hậu, thói hiếu danh ở hương
thôn đã gây nên nhiều thảm họa cho người nông dân. Không khí chung bao trùm lên toàn bộ nông
thôn trong tác phẩm Nam Cao là một không khí xơ xác, nghèo đói, hoang vắng đến rợn người.
Thỉnh thoảng có ồn ào lại là những vụ rạch mặt ăn vạ, đâm chém, la làng của những kẻ du côn như
Chí Phèo. Nhân vật nông dân của Nam Cao dường như bị đẩy về hai cực: hoặc hiền lành nhu nhược
đến mức tê liệt về tinh thần hoặc sa ngã, tha hóa.
Số phận nông dân và bức tranh nông thôn cũng được phản ánh hết sức chân thực và sinh
động trong Bước đường cùng (Nguyễn Công Hoan), Giông tố, Vỡ đê của Vũ Trọng Phụng.
Khi tái hiện những thảm cảnh ở hương thôn, tác phẩm của Lưu Trọng Lư tuy không dữ dội
như các tác phẩm của dòng văn học hiện thực phê phán, nhưng không thiếu những câu chuyện
thương tâm. Dù vậy, Lưu Trọng Lư không đi sâu khai thác những cảnh đời bi thảm, sự bần cùng
hóa hay hình ảnh của bọn cường hào ác bá với những mâu thuẫn gay gắt. Ông nhìn thấy nhiều
hiện thực đau lòng nhưng muốn thực hiện một sự dung hòa êm thấm. Với cách kể chuyện từ tốn,
điềm tĩnh, Lưu Trọng Lư không đẩy câu chuyện lên tới cao trào đầy đau đớn như Tắt đèn, Bước
đường cùng...
3.1.1.3. Đời sống sinh hoạt chốn thị thành
Từ khi thực dân Pháp đặt ách cai trị trên đất nước ta và đẩy mạnh công cuộc khai thác thuộc
địa, bộ mặt thị thành đã có nhiều đổi khác, mang tính chất tư sản hóa. Dân số thị thành tăng lên với rất
nhiều thành phần, giai cấp khác nhau, với những quan niệm sống, phong cách sống và thị hiếu nghệ



13
thuật khác nhau. Có thể nói độc giả thị thành là thành phần chủ yếu của độc giả văn học thời kỳ đó.
Do vậy, không có lý gì sinh hoạt chốn thị thành lại không trở thành một đề tài hấp dẫn của sáng tác
văn chương. Hơn nữa, với nó, những tư tưởng mới mẻ có được điều kiện bộc lộ mạnh mẽ và những
thử nghiệm nghệ thuật cũng có được mảnh đất thi thố. Nếu cuộc sống ở nông thôn thường được tái
hiện với vẻ bình lặng, tàn tạ thì cuộc sống nơi thị thành thường được thể hiện với bầu không khí xô
bồ, náo nhiệt, nhố nhăng, nơi sự tha hóa diễn ra như một quy luật có tính phổ biến.
Viết về thành thị trước hết phải kể đến những cây bút hiện thực như Nguyễn Công Hoan, Vũ
Trọng Phụng, Tam Lang... Thế giới thị thành trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan là thế giới của
những kẻ dưới đáy: phu xe, kép hát, con sen, thằng quýt... Bên cạnh thế giới của bọn tư sản hãnh
tiến mới phất lên với đủ tình huống nhố nhăng, bịp bợm trong Số đỏ, Vũ Trọng Phụng thể hiện sinh
động của sống của nhiều kiếp người sống chui rúc vào khắp các xó xỉnh tối tăm của chốn được gọi
là phồn hoa. Thành thị trong các tác phẩm Nam Cao gắn với cảnh ngộ của người trí thức nghèo. Họ
là những người có ước mơ hoài bão, nhưng cuộc sống cơm áo không cho họ ngẩng đầu lên. Mọi
ước mơ đều thui chột, họ sống trong bi kịch “đời thừa”, “chết mòn”.
Chốn phồn hoa, đô hội cũng là nơi những tệ nạn nhức nhối như mại dâm, cờ bạc, hút xách
tha hồ phát triển... Những cô gái điếm vật vờ sống chui rúc khắp mọi ngõ ngách, xó xỉnh để kiếm
sống qua ngày, những gia đình tan nát vì cờ bạc, những số phận bị đẩy đến đường cùng... - đó là
những chất liệu làm nên các trang văn bi đát, chua cay của Trọng Lang (với Hà Nội lầm than), của
Tam Lang (với Đêm sông Hương), của Vũ Trọng Phụng (với Lục xì, Cạm bẫy người), của Nguyễn
Đình Lạp (với Ngoại ô, Ngõ hẻm)…
Lưu Trọng Lư cũng viết về những con người trong môi trường đô thị. Trong khi tái hiện khá
sống động đời sống của giới trí thức, những nam thanh nữ tú kiểu mới thời bấy giờ, ông không quên
phê phán lối sống hưởng lạc và chỉ ra sự hèn yếu của nhân vật. Không xoáy sâu vào những kiếp
sống đói nghèo, lay lắt như nhân vật của Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyễn Đình Lạp, nhân vật
chủ yếu của Lưu Trọng Lư là những nam thanh nữ tú kiểu mới, sống theo lối Âu hóa nhưng hèn
yếu, ưa lối sống vật chất hưởng lạc. Và nhiều bi kịch đã đến với họ. Về phương diện này, ngòi bút
Lưu Trọng Lư có màu sắc hiện thực theo cách riêng của ông.
3.1.2. Những hình tượng nhân vật nổi bật

3.1.2.1. Con người nổi loạn
Khái niệm “con người nổi loạn” được dùng ở đây để chỉ một loại hình nhân vật khá đặc biệt
của văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945. Đó là loại nhân vật có cấu trúc nhân cách phức tạp, có
những hành động khó lường theo quan niệm truyền thống, dám chống lại các khuôn phép đặt định
cứng nhắc để theo đuổi tự do cá nhân. Khi xây dựng loại hình nhân vật này, các nhà văn Việt Nam
rõ ràng có tiếp thu tư tưởng đề cao con người cá nhân trong văn học phương Tây. Giữa “con người
nổi loạn” trong văn học Việt Nam và “con người nổi loạn” trong văn học phương Tây có nhiều
điểm gần gũi, tuy nhiên, sự khác biệt vẫn rõ, do những mẫu hình con người ấy được hình thành dựa
trên những tiền đề văn hóa, xã hội không giống nhau.
Hồ Biểu Chánh là tiểu thuyết gia có nhiều tác phẩm phỏng tác từ văn học phương Tây. Tuy
chịu nhiều ảnh hưởng của tư tưởng nho giáo, nhưng Hồ Biểu Chánh vẫn nhìn thấy một thực tế: con
người cá nhân đang trỗi dậy mạnh mẽ, chống lại những khuôn khổ, nề nếp cũ. Nhiều nhân vật của
ông đã phản ứng quyết liệt với gia đình, với lễ giáo để bảo vệ cho tình yêu.
Các nhà văn Tự lực văn đoàn đã xây dựng được nhiều nhân vật “nổi loạn”. Mai trong Nửa
chừng xuân (Khái Hưng) dám đấu tranh để khẳng định cái tôi cá nhân trước gia đình phong kiến.
Mai dám vượt lên những rào cản của lễ nghi phong kiến, đấu tranh quyết liệt cho hạnh phúc, tình
yêu tự do và bình đẳng. Loan trong Đoạn tuyệt (Nhất Linh) đẩy cuộc đấu tranh mà Mai đã tiến hành
lên một mức cao hơn. Cô phản ứng bà mẹ chồng cổ hủ ngay từ buổi đầu về nhà chồng. Cô đấu tranh
kịch liệt để bảo vệ những giá trị mà mình theo đuổi, tự định đoạt hạnh phúc cho mình.


14
Từ 1936 trở đi, cuộc sống xã hội ngày càng ngột ngạt. Trong bối cảnh đó, các tiểu thuyết gia
trụ cột của Tự lực văn đoàn cho ra đời các tiểu thuyết “khác lạ” như Bướm trắng (Nhất Linh, 1941),
Thanh Đức (Khái Hưng, 1943), miêu tả khá sống động kiểu người nổi loạn vô chính phủ, sống vô
luân, trụy lạc, bệnh hoạn.
Lưu Trọng Lư gặp gỡ với Hồ Biểu Chánh trong Chút phận linh đinh, Hoàng Ngọc Phách
trong Tố Tâm ở cách thể hiện sự nổi loạn nửa vời của nhân vật. Trong những tiểu thuyết viết về thận
phận người phụ nữ, Lưu Trọng Lư cũng đã thể hiện họ như những nhân vật mang tính cách nổi
loạn. Chẳng hạn, tiểu thư họ Phan trong Tàn một kiếp đã từ bỏ thân phận và cuộc sống giàu sang,

phú quý để “quẩy bầu gánh” đi theo và làm vợ một anh Xẩm mù có tài đánh đàn. Nàng công chúa
Lã Mai trong tiểu thuyết Công chúa Lã Mai trái ý vua cha, thà không lấy chồng chứ không chịu
“lấy làm chồng, một người trong cái đám người tầm thường” mà nàng khinh bỉ.
3.1.2.2. Con người tha hóa
Con người tha hóa là loại hình nhân vật mà văn học giai đoạn trước 1945 nói chung, văn học
hiện thực phê phán nói riêng hết sức quan tâm. Trong khi tập trung phản ánh sự tha hóa như một
hiện tượng phổ biến trong xã hội thực dân nửa phong kiến, các nhà văn hiện thực phê phán đã thực
sự xây dựng được những điển hình bất hủ, thể hiện sự phát triển của tư duy tiểu thuyết trong cách
khám phá, miêu tả hiện thực, con người.
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan là một thế giới tha hóa, dị dạng, vật
hóa cao độ. Con người trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan bị tha hóa, méo mó, “vật hóa” một
cách khủng khiếp. Trong Giông tố, Trúng số độc đắc, Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng, nhiều nhân vật
chính như Mịch, Long, Phúc, Huyền... đều là những kẻ tha hóa. Họ xuất thân là những trí thức có
lòng tự trọng, những thiếu nữ nông dân trong trắng. Nhưng hoàn cảnh xã hội đen tối đã xô đẩy họ.
Những lợi ích vật chất, tiền và tình đã cuốn trôi họ, khiến họ không thể cưỡng lại. Khi đã trượt dài
vào vũng lầy, họ chỉ còn biết đổ cho số phận, đổ cho hoàn cảnh. Những nhân vật của Nam Cao
phần lớn đều là những người lương thiện, nhưng do không đủ khả năng để chống lại những cạm bẫy
của xã hội nên họ dần bị biến chất và tha hóa.
Khác với nhiều nhà văn hiện thực, Lưu Trọng Lư ít chú ý giải thích nguyên nhân xã hội của
sự tha hóa. Ông chỉ tập trung phản ánh thảm cảnh của tha hóa, chủ yếu với lớp thanh niên tân thời
như Huy (Từ thiên đường đến địa ngục), Lương (Cô gái tân thời), Minh (Một người đau khổ). Từ
những con người ít nhiều có hoài bão, họ nhanh chóng đầu hàng, chạy theo lối sống hưởng lạc.
Nguyên nhân trước hết không phải do xã hội mà do lối sống hời hợt, dễ buông xuôi theo hoàn cảnh
ở họ. Có lúc, nhà văn còn thi vị hóa lối sống giang hồ, hưởng lạc.
3.1.2.3. Con người nạn nhân xã hội
Hình tượng con người nạn nhân xuất hiện tập trung trong sáng tác của các nhà văn thuộc
khuynh hướng văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945. Các nhà văn thường quan tâm tới hình
tượng những con người nhỏ bé bị chèn ép, bị tước đoạt quyền lợi, từ ruộng đất, miếng ăn cho tới
quyền làm người.
Với tư duy duy vật, cắt nghĩa nguyên nhân nghèo đói, bất hạnh là từ xã hội, các nhà văn

hiện thực phê phán đã mở rộng phạm vi phản ánh, đi sâu thể hiện cuộc sống cơ cực của nhiều tầng
lớp trong xã hội, vạch ra các mâu thuẫn giai cấp chủ yếu. Trên đề tài trí thức, đời sống đô thị, văn
học hiện thực phê phán cũng dựng lên nhiều thảm cảnh đau lòng. Những Hộ, Điền, Thứ (Nam Cao),
Long, Phúc, Huyền (Vũ Trọng Phụng), bác Vuông, Huyền (Nguyễn Đình Lạp)... đều nhanh chóng
trở thành những nạn nhân của một xã hội ngột ngạt, không cho con người được tồn tại, được sống
đúng nghĩa con người.
Văn xuôi Lưu Trọng Lư cũng viết về những con người nạn nhân, nhưng họ trước hết là nạn
nhân của những hủ tục, của thói xấu của những kẻ có quyền. Nhiều nhân vật trong văn xuôi Lưu


15
Trọng Lư là nạn nhân của chế độ phụ quyền, của kiểu ứng xử phong kiến “cha mẹ đặt đâu con ngồi
đấy”. Và đó là nguyên nhân dẫn đến cái chết trong tâm hồn của nhiều nhân vật.
3.2. Nét riêng của hệ đề tài trong văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư trước 1945
3.2.1. Đề tài con người trong môi trường đô thị
Văn học lãng mạn thường hay dựng lên sự tương phản giữa cuộc sống của con người cá
nhân ưa tự do, phóng khoáng với môi trường sống ở đô thị vốn mang đặc trưng ngột ngạt, đầy
những toan tính phàm tục. Với Lưu Trọng Lư, khả năng cảm nhận và biểu hiện đời sống đương
thời, đặc biệt là đời sống của những nhân vật cùng sống trong bầu không khí đô thị trước Cách
mạng tháng Tám được tái hiện khá toàn diện.
Nhà văn không có ý định bao quát bức tranh rộng lớn, xô bồ muôn màu sắc của con người
trong môi trường đô thị mà chủ yếu đi sâu vào cuộc đời của tầng lớp tiểu tư sản, tầng lớp văn nghệ
sĩ mà ông có gắn bó, thông thuộc (vì thực chất ông cũng là một người thuộc số họ). Ông cũng
không quá đi sâu miêu tả những bi kịch tinh thần của những con người ấy theo kiểu Nam Cao. Đọc
những sáng tác văn xuôi tự sự của ông, có thể thấy rõ tính hai mặt của thứ văn minh vật chất được
bày ra ở chốn thị thành. Một mặt, nó bộc lộ tính hiện đại của không gian sống với những nhu cầu
thụ hưởng có thật và chính đáng của con người, mặt khác nó cũng mang theo nhiều hiểm họa, sẽ
cuốn không ít kẻ vào con đường sa đọa, đánh mất chính mình. Ở đây, rõ ràng cái nhìn của ông về
“ánh sáng kinh kỳ” là cái nhìn không thiên lệch, định kiến. Chính vì thế, ông có được những trang
văn thật trong trẻo khi phác họa hình ảnh học sinh Hà thành những năm trước Cách mạng.

3.2.2. Đề tài con người lỡ vận
Trong sáng tác trước 1945, Lưu Trọng Lư thường quan tâm đến “những kẻ thất cơ lỡ vận”.
Đây cũng là đề tài này quen thuộc của các nhà văn lãng mạn nói chung và các nhà văn lãng mạn
Việt Nam nói riêng. Nguyễn Tuân với Vang bóng một thời đã dựng lên sống động hình ảnh của
những kẻ sống lạc thời, bất đắc chí và thường ôm những hoài niệm về dĩ vãng. Các nhà văn như
Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Hồ Dzếnh... đã có nhiều tác phẩm viết về những con người
sống bế tắc, vỡ mộng công danh sự nghiệp, chấp nhận một cuộc sống quẩn quanh, tù đọng.
Viết về con người lỡ vận, Lưu Trọng Lư chú trọng xây dựng các nhân vật là những nam
thanh, nữ tú. Nhiều người xuất thân từ gia đình quyền quý, nhưng do hoàn cảnh đẩy đưa, họ bị rơi
xuống đáy xã hội. Một số nhân vật dã sử như quan lớn Lê cũng được nhà văn nhìn nhận như những
con người lỡ vận.
Trong văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư, sự lỡ vận nhiều khi gắn với chuyện ái tình. Có nhân vật
đã từ bỏ chí lớn để chạy theo tiếng gọi của tình yêu và trở thành đấng nam nhi thoái chí. Chẳng hạn,
thầy Khóa Văn trong Cảm hóa (tiểu thuyết Hương Giang sử). Trong tiểu thuyết Trà Hoa Nữ, Lương
Hà Dật đại diện cho kiểu nhân vật “bán đồ nhi phế”, không theo đuổi mục đích đến cùng.
Nhân vật lỡ vận trong văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư trước 1945 khá đa dạng: những anh
hùng ôm hận vì giấc mơ phục quốc không thành; những cô gái giang hồ nhưng vẫn giữ được nét đài
các, tài hoa; những sư ông không thể rũ bỏ hết bụi trần để dâng mình cho cõi Phật... Với kiểu nhân
vật này, Lưu Trọng Lư đã góp phần làm cho hình tượng con người lỡ vận trong văn học Việt Nam
trước Cách mạng tháng Tám trở nên sinh động, phong phú hơn.
3.2.3. Đề tài kỷ niệm riêng tư
Kỷ niệm riêng tư không phải là đề tài riêng của văn học lãng mạn hay những tác phẩm viết
theo khuynh hướng lãng mạn chủ nghĩa. Nhưng phải thừa nhận rằng, ở loại hình sáng tác này, đề tài
kỷ niệm riêng tư được đặc biệt ưa thích và có những điểm nhấn đặc thù. Ở văn xuôi tự sự của Lưu
Trọng Lư, những kí ức về tuổi thơ, về bản thân, về gia đình, quê hương thường được trở đi trở lại
thường xuyên. Trong các trường hợp này, người kể chuyện xưng “tôi” gần như trùng khít với tác
giả, và do vậy, dáng dấp tự truyện của các sáng tác cũng được bộc lộ rõ.


16

Lồng ghép trong câu chuyện tình trắc trở ở tiểu thuyết Bến cũ là kí ức về tuổi thơ, gia đình của
chính nhà văn. Những kí ức về gia đình, dòng tộc được Lưu Trọng Lư thể hiện sinh động trong tiểu
thuyết Dòng họ. Đây “Được coi như một cuốn tiểu luận kiêm hồi ức về gia đình và quê hương tác giả”.
Khi viết về đề tài mà chúng tôi gọi ước lệ là “kỷ niệm riêng tư”, nhà văn đã sử dụng rất
thành công hình thức thư tín. Thư tín là phương tiện để đưa tin và cũng là cách trao đổi tình cảm
thầm kín, tế nhị mà con người ưa dùng. Chính vì lẽ đó khi viết về những kỷ niệm riêng tư, Lưu
Trọng Lư không ngại đưa vào trong truyện ngắn, tiểu thuyết của mình những bộc bạch tình cảm
dưới hình thức viết thư.
Lưu Trọng Lư thường lấy những kí ức về tuổi thơ, bản thân, gia đình, quê hương làm chất
liệu để hư cấu nên tác phẩm. Nhiều hình ảnh trong văn xuôi cũng là hình ảnh ám ảnh trong nhiều
bài thơ ông: chiếc cáng điều lững thững bên sườn núi; hình ảnh người mẹ với “Nét cười đen nhánh
sau tay áo” và “Áo đỏ người đưa trước dậu phơi (Nắng mới), hình ảnh những cô em ngồi buồn bên
song cửa (Tình điên, Một mùa đông)... Nhìn chung, với đề tài kỷ niệm riêng tư, Lưu Trọng Lư đã
thực hiện được một sự kết nối tự nhiên giữa thơ và văn xuôi. Người ta có thể đọc các truyện ngắn,
tiểu thuyết mà ông viết để hiểu hơn về thơ ông cũng như ngược lại.
Đã nói tới kỷ niệm riêng tư, người ta không thể không nhớ đến những bối cảnh không gian
đặc thù gắn với nó. Trong văn xuôi tự sự trước 1945 của Lưu Trọng Lư, người đọc thấy thấp thoáng
một không gian mang tính địa phương. Không gian nổi bật trong văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư là
không gian của mảnh đất miền trung Quảng Bình quê hương ông với nhiều hang động, sông ngòi,
truông núi, đường đèo. Như vậy, khi viết về những không gian gắn bó với ký ức bản thân, Lưu Trọng
Lư cũng như Bùi Hiển, Thạch Lam đã thể hiện được phong vị riêng của miền quê mình gắn bó. Phong
vị địa phương này đã góp phần làm nên sức quyến rũ riêng của các sáng tác và khí quyển thẩm mỹ đặc
thù rất cần có trong văn chương.
3.3. Nét riêng của hệ thống hình tượng con người trong văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư
trước 1945
3.3.1. Hình tượng con người mang tâm lý thất bại
Những nhà lãng mạn không ít thì nhiều đều mang tâm lý thất bại chủ nghĩa. Tâm lý này nảy
sinh một cách tất yếu khi người ta thấy bao mục tiêu xã hội đẹp đẽ lần lượt bị đánh cắp bởi những
thế lực đen tối trong xã hội. Một nỗi bi quan, chán nản phủ trùm lên cuộc sống của những người
nhiều mơ mộng. Không có gì khó hiểu khi trong sáng tác của mình, thơ cũng như văn xuôi, Lưu

Trọng Lư đã thể hiện khá đậm nét tâm lý thất bại chủ nghĩa của các nhân vật.
Những nhân vật nữ như Cô Nhung, cô Quỳnh, cô Cẩn rõ ràng đã thất bại trong cuộc đấu
tranh vì tình yêu tự do. Có kẻ phải “theo chồng bỏ cuộc chơi” như Nhung và Nguyệt, nhưng cũng
có người phải tìm đến cái chết để giữ được tình yêu, lòng mộ đạo cũng như danh dự cho bản thân
như Cẩn và Quỳnh. Viết cùng một vấn đề, nhưng những nhân vật nam trong truyện của Lưu Trọng
Lư sẵn sàng từ bỏ tôn giáo để bước vào vườn cấm ái tình.
Không chỉ nhìn thấy tâm lý thất bại ở các nhân vật dã sử, Lưu Trọng Lư còn nhìn thấy nó ở
nhiều đối tượng khác. Quan trọng hơn, ông rất chú ý cắt nghĩa chúng. Theo nhà văn, nhiều khi
người ta thất bại chỉ vì thiếu ý chí và có lý tưởng sống hời hợt.
3.3.2. Hình tượng con người chìm đắm trong ái tình
Thời kỳ 1930 - 1945, trong văn học, con người cá nhân bắt đầu tự khẳng định mạnh mẽ.
Buồn, cô đơn là tâm trạng gắn với từng cá thể nhưng lại là nét chung của nhiều nhà văn. Điều này
nảy sinh từ nguyên nhân khách quan, họ không biết phải làm gì, phải đi theo hướng nào giữa cái xã
hội tan tác ấy. Họ cũng không chấp nhận cuộc sống tầm thường, tẻ nhạt. Do đó, họ cảm thấy lạc
lõng, bơ vơ giữa xã hội.
Tuyển tập Văn xuôi Lưu Trọng Lư trước Cách mạng gồm 27 truyện ngắn, 27 tiểu thuyết,


17
phần lớn đều đề cập đến ái tình. Đủ cung bậc tình yêu trong các trang văn của ông: những mối tình
trong mộng, tình yêu mới chớm, thoáng qua, những rung động nhẹ nhàng, có khi lại là mối tình đơn
phương, tình yêu bị ngăn cản, tình yêu không phân biệt giai tầng. Mỗi khi tiếng sét ái tình cất tiếng
gọi, thì tình trong những trang văn của Lưu Trọng Lư là tình yêu không phân biệt ranh giới.
Không chỉ có những tình yêu đẹp khiến người ta muốn đánh đổi tất cả để đi theo tiếng gọi của
nó, mà tình trong văn xuôi của Lưu Trọng Lư còn là thứ tình yêu tham lam, ích kỉ và đầy thù hận.
Có thể thấy, khi thể hiện hình tượng con người lặn ngụp trong “bể ái”, nhà văn nhiều khi
muốn kiêm luôn vai trò của một triết nhân. Chưa ở đâu mà ta lại thấy những triết lý về tình yêu
được đưa ra nhiều như vậy. Về cơ bản, chúng cũng có được màu vị riêng, xét trong bối cảnh văn
chương đặc thù trước 1945.
3.3.3. Hình tượng con người mộng ảo

Lưu Trọng Lư là một con người đa tình và mơ mộng. Thật tự nhiên khi trong văn xuôi của
mình, ông cũng thường đưa ta chìm đắm vào cõi thần tiên lung linh, huyền bí và mơ màng trong
nguồn ân bể ái. Lưu Trọng Lư say sưa với tất cả những cái đẹp của con người và tạo vật. Tấm lòng
ông lúc nào cũng thổn thức, tâm hồn ông lúc nào cũng mơ màng, ông đem xáo trộn thực với mộng,
mộng với thực, tiên với người, tiên với tục. Trong văn xuôi tự sự của ông trước 1945, có rất nhiều
nhân vật thuộc về thế giới mộng ảo. Còn trong thế giới thực, nhân vật của Lưu Trọng Lư cũng sống
trong ảo mộng.
Đó là những câu chuyện được xây dựng bằng “chất liệu” lấy từ thế giới của tưởng tượng.
Tác giả tìm ra một thế giới kì diệu, đã thổi hồn vào các vật vô tri làm chúng trở nên có linh hồn như
con người. Trước hết là những nhân vật thuộc thế giới của cõi tiên. Những nhân vật thuộc về thế
giới mộng ảo trong văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư không chỉ xuất hiện trong những truyện viết về đề
tài thần tiên, ma quái mà còn có ở nhiều truyện viết về các đề tài khác. Điều này phản ánh cái nhìn
của ông về hiện thực, như ông từng khẳng định trong hồi kí Nửa đêm sực tỉnh: “Mộng và đời là hai
sợi chỉ ngang dọc trên khung cửi. Đời đẻ ra mộng và mộng dệt nên đời”.

Chương 4
NHỮNG KIỂU LỰA CHỌN NGHỆ THUẬT ĐẶC THÙ
TRONG VĂN XUÔI TỰ SỰ LƯU TRỌNG LƯ TRƯỚC 1945
4.1. Sử dụng và cải biến các mô típ quen thuộc của chủ nghĩa lãng mạn
4.1.1. Khái niệm mô típ và tiền đề của việc sử dụng, cải biến các mô típ nghệ thuật quen
thuộc ở văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư
Cuốn Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi đồng chủ
biên) nhận định: “Từ Hán Việt mô típ là mẫu đề (do người Trung Quốc phiên âm chữ motif trong
tiếng Pháp), có thể chuyển thành các từ khuôn, dạng hoặc kiểu trong tiếng Việt nhằm chỉ những
thành tố, những bộ phận lớn hoặc nhỏ đã được hình thành ổn định bền vững và được sử dụng nhiều
lần trong sáng tác văn học nghệ thuật dân gian”.
Đến đầu thế kỷ XX, mô típ được các học giả phương Tây tìm hiểu với tư cách là một phạm
trù của nghiên cứu văn học. Điều kiện để biến một thành tố của sáng tác thành một mô típ nghệ
thuật là những thành tố đó phải bền vững về nội dung, hình thức trong một văn bản văn học, trong
các tác phẩm của một nhà văn hoặc một khuynh hướng hay một thời đại văn học. Nói như thế cũng

đồng nghĩa với việc xem mô típ là một hiện tượng nghệ thuật tồn tại xuyên thời gian, có thể được
sử dụng, biến cải, củng cố qua thời gian, qua các trường hợp sáng tác khác nhau của những tác giả
khác nhau.


18
Lưu Trọng Lư sinh ra trong gia đình Nho học, vì vậy, việc ông có lòng ái mộ các giá trị xưa
là chuyện hoàn toàn tự nhiên. Đồng thời, do ở trường Tây, được tiếp xúc không ít với cái đẹp mang
tính chất quý tộc của khuynh hướng thẩm mỹ cổ điển phương Tây, lòng ái mộ nói trên không bị
phai nhạt đi mà vẫn tiếp tục được củng cố, với những sắc thái mới. Ta có thể nhận ra trong sáng tác,
ông vừa vận dụng cái đẹp truyền thống vừa tiếp cận cái đẹp quý tộc phương Tây, điều này đã tạo
nên một nét riêng trong khuynh hướng thẩm mỹ của tác giả.
Hơn nữa, Lưu Trọng Lư đến với văn chương hiện đại bằng tinh thần lãng mạn, bằng tình
và mộng. Ông luôn có ý thức duy trì sự nối tiếp giữa truyền thống với quá khứ, hiện tại. Đồng
thời, trong quá trình sáng tác nhà văn đã tạo dựng nên sự lãng mạn trong cảm hứng sáng tạo,
chọn lựa đề tài; ưu tiên thể hiện thế giới cảm xúc của con người và tiếp thu linh hoạt kinh
nghiệm nghệ thuật của nhiều khuynh hướng sáng tác. Từ đó, ông đã tạo ra một phong cách cá
nhân đầy ấn tượng.
Với sự chi phối của lý tưởng thẩm mỹ mang tính thời đại, sự va đập của thực tiễn đời sống và
sự đòi hỏi phong cách cá nhân trong sáng tác, Lưu Trọng Lư một mặt học tập, tiếp thu các yếu tố từ
bên ngoài, dùng một số mô típ của chủ nghĩa lãng mạn nói chung, mặt khác, nhà văn biến chúng
thành những câu chuyện của ngày nay, thoát khỏi tính chất “muôn đời”, “vĩnh viễn”. Đó là những câu
chuyện phù hợp với thực tại tác giả đang có nhu cầu tìm hiểu, giãi bày, những câu chuyện gắn liền với
cuộc sống của con người Việt Nam, mang sắc thái Việt Nam.
4.1.2. Dấu ấn Lưu Trọng Lư trong việc sử dụng và cải biến các mô típ quen thuộc
Là người tiên phong của phong trào Thơ mới, Lưu Trọng Lư đã học hỏi nhiều kinh nghiệm
sáng tác của chủ nghĩa lãng mạn. Trong văn xuôi tự sự, nhà văn cũng đã tạo vẻ vừa xưa vừa mới
cho các mô típ quen thuộc. Ông sẵn sàng sử dụng các mô típ có sẵn, tuy nhiên các mô típ đó đã
được cải biến cho phù hợp với tâm lý con người thời đại lúc bấy giờ.
Trong sáng tác của Lưu Trọng Lư có sự hiện diện diện của mô típ “Ngoái tìm dĩ vãng”. Rất

nhiều dẫn chứng được nêu ở chương trước cho thấy mô típ này đã được sử dụng một cách có hệ
thống, xuyên suốt nhiều tác phẩm văn xuôi tự sự của ông.
Trong sáng tác văn xuôi tự sự của Lưu Trọng Lư trước năm 1945, có 34/ 54 tác phẩm viết về
đề tài tình yêu. Con số 63% là tỉ lệ không nhỏ, điều này phù hợp với xuất phát điểm của một thi sĩ
lãng mạn viết văn xuôi để tạo nên mô típ mà chúng tôi tạm gọi là “Ái tình là bể khổ”.
Lưu Trọng Lư thường xây dựng những nhân vật chịu nhiều ảnh hưởng của văn minh
phương Tây. Loại nhân vật này thường xuất thân trong gia đình quan lại, nhưng được học trường
Pháp Việt, biết tiếng Pháp. Họ có tư tưởng mới, sớm hòa nhịp với văn minh phương Tây để thể hiện
cái tôi cá nhân, nhưng hình như họ không có đủ dũng khí, động lực và sự mạnh mẽ của tư tưởng để
đi đến cùng hành trình của mình. Họ trở thành những kẻ nhanh chóng thỏa hiệp với đời sống đương
thời, như rất nhiều nhân vật vật khác mà ta bắt gặp trong nhiều sáng tác lãng mạn chủ nghĩa. Có thể
nói, ở đây, Lưu Trọng Lư đã sử dụng một mô típ khá phổ biến, tạm được định danh là “Nổi loạn
nửa vời”.
Thiên nhiên là đề tài ưa thích của nhiều nhà văn, nhà thơ mọi thời đại. Ở văn học trung đại,
thiên nhiên hiện ra qua các đề tài vân, hoa, tuyết, nguyệt… và nó cũng là nguồn cảm hứng lớn của
chủ nghĩa lãng mạn. Vì thế, hầu hết nghệ sĩ lãng mạn đều say sưa kiếm tìm vẻ đẹp ở thiên nhiên.
Thiên nhiên như một khoảng trời trong trẻo, thanh sạch ru dịu những tâm hồn lãng mạn đang bất
hòa sâu sắc với cuộc sống ngột ngạt, tù túng của thời đại. Họ coi nó là người bạn để sẻ chia, tâm sự.
Lưu Trọng Lư là nhà văn nằm trong dòng chảy đó và người đọc hoàn toàn có cơ sở để nói tới mô típ
“Thiên nhiên hóa giải muộn phiền” trong sáng tác của ông.
Qua những tác phẩm của mình, Lưu Trọng Lư tạo được dấu ấn riêng trong cách liên kết các
mô típ thành những biểu trưng tổng hợp. Ông ngoái lại tìm kiếm dĩ vãng với hình bóng người mẹ


19
hiền lành, tần tảo trong nụ cười đen láy. Có khi, đó là hình ảnh của chiếc cổ y màu đỏ mà mẹ đem ra
hàng dậu phơi trong nắng mới. Hay đó là màu xanh của chiếc cáng - một biểu tượng của sự sung
túc, êm ấm trong vòng tay yêu thương của gia đình. Rõ ràng, tác phẩm của Lưu Trọng Lư thường
được đặt trong chiều hồi tưởng về quá khứ. Quá khứ có khi rõ ràng, khi mơ hồ huyền ảo, song
chính là những ấn tượng, những khoảng lung linh trong tâm tưởng để nhân vật mỗi lần hồi tưởng là

một lần có thêm sức mạnh, thêm động lực để sống, để tồn tại và ước mơ (Chiếc cáng xanh, Dòng
họ, Bến cũ, Em là gái bên song cửa…). Nhớ về dĩ vãng đầy ám ảnh nhưng nhân vật của Lưu Trọng
Lư không “tiêu cực”. Quay trở về quá khứ để hướng đến tương lai. Nỗi buồn quá khứ soi chiếu cho
hiện thực nhiều đắng cay cũng là một nỗi buồn trong sáng không bi lụy, bi thương.
Trong đề tài ái tình, Lưu Trọng Lư đã diễn tả tình yêu ở nhiều góc độ. Các nhân vật của ông
thường trôi nổi trong những cuộc yêu đương bất tận. Đây là lý do để ta có thể nói đến mô típ “Đắm
chìm trong bể ái” - một mô típ đặc thù của chủ nghĩa lãng mạn - được dùng đi dùng lại trong nhiều
sáng tác của ông.
Lưu Trọng Lư rất chú ý khai thác mô típ “Tình yêu dang dở”, qua việc kể lại câu chuyện về
những nhân vật được học trường Pháp Việt, tiếp xúc với văn hóa Pháp, có tình yêu tự do, trong
sáng của tuổi học trò nhưng rốt cục quy thuận hoàn cảnh, chấp nhận sự an bài của số phận, sự sắp
xếp của gia đình (Cô Nhung, Cô Nguyệt).
Nói về việc sử dụng và cải biến một số mô típ quen thuộc của chủ nghĩa lãng mạn trong văn
xuôi tự sự Lưu Trọng Lư, cần thấy rằng, các mô típ đó vốn được sử dụng trong nhiều sáng tác, đặc
biệt là thơ, của những cây bút khác. Điều đáng nói ở đây là Lưu Trọng Lư đã sử dụng chúng trong
văn xuôi tự sự, với sự tập trung cao độ. Riêng với điểm này, có thể nhìn ra mối quan hệ gắn bó giữa
thơ và văn của tác giả. Nhiều điều chỉ mới được gợi lên trong thơ sẽ được dẫn giải tường minh hơn
trong văn xuôi tự sự, thông qua những câu chuyện chân thực của con người thời đại.
4.2. Nhào nặn chất liệu hiện thực theo hướng phong tục hóa
4.2.1. Sự khác nhau giữa xu hướng phong tục hóa và tiểu thuyết hóa trong văn xuôi tự sự
Khái niệm xu hướng phong tục hóa ở đây được để chỉ một xu hướng ghi chép, tái hiện bề
mặt hiện thực với những nét đặc thù riêng biệt của nó, mà sản phẩm cuối cùng là những sáng tác
thường được xếp vào nhóm “phong tục” (truyện ngắn phong tục, tiểu thuyết phong tục). Với xu
hướng này, nhà tiểu thuyết không quá đi sâu phân tích những nguyên nhân xã hội hay xây dựng
những luận đề to tát, ít đắm mình trong những suy tư về cái phổ quát mang tầm nhân loại. Các tác
giả chủ yếu tái hiện những bức tranh hiện thực, miêu tả sinh động những đối tượng mà họ tiếp xúc,
trải nghiệm, như muốn chỉ cho người đọc thấy rằng ở nơi kia có những người ấy, cảnh ấy mang tính
đặc thù mà ở nơi khác không thấy, không có. Nhiều trang viết của họ có thể được ví như những
khảo cứu sống động về xã hội, về văn hóa. Một số nhà văn thuộc xu hướng phong tục tuy có nói về
cái nghèo khổ, nhếch nhác của người nông dân nhưng ít khi thể hiện sự phân tích nhằm tìm ra cội

nguồn sự việc. Đối với họ, nhiều khi đích nhắm đến chỉ là lưu lại bức tranh về một con người, một
làng xã, cộng đồng.
Nói tới xu hướng tiểu thuyết hóa trong văn xuôi tự sự là nói đến sự ý thức rõ rệt của các nhà
văn trong việc đi sâu khám phá đời tư của con người, đặt trọng tâm vào những phiền toái, ưu tư, suy
ngẫm của nhân vật. Với những tác phẩm được viết theo xu hướng này, điều thách thức nhiều nhất
đối với nhà văn là tinh thần phân tích, khả năng nhìn thấy những tương quan chằng chịt của cuộc
đời qua một sự kiện, một tính cách, khả năng hiểu thấu cái mà L.Tolstoy nói là “phép biện chứng
của tâm hồn”. Theo các tài liệu lý luận văn học, tiểu thuyết đầy chất “văn xuôi”, quan tâm xây dựng
những nhân vật “nếm trải”, có cách tiếp cận “suồng sã” với đối tượng và ngôn ngữ là một bè phức
hợp có nhiều tiếng nói đối thoại, tranh chấp, minh giải lẫn nhau. Bởi vậy, khái niệm xu hướng tiểu
thuyết hóa được dùng ở đây có ý nghĩa nhận diện một sự chuyển động trong tư duy nghệ thuật của


20
các nhà văn đương thời với Lưu Trọng Lư, khi họ muốn học tập các mẫu hình tiểu thuyết hiện đại
phương Tây.
Phong tục hóa và tiểu thuyết hóa là hai xu hướng không phải lúc nào cũng tồn tại tách bạch
trong văn xuôi tự sự Việt Nam trước 1945. Thực tiễn cho thấy, xu hướng phong tục hóa dễ được bộ
máy kiểm duyệt chấp nhận hơn vì nó gần như “vô sự”, ít làm “khó” cho nhà cầm quyền. Hơn nữa,
xu hướng này tỏ ra đáp ứng được thị hiếu của tầng lớp độc giả thị dân sống ở thành thị, không còn
hoàn toàn thông thuộc đời sống nông thôn nữa, dù truy tận gốc gác, họ vốn là nông dân, đi đến với
kinh kỳ từ chốn ruộng lầy. Tuy nhiên, đối với những nhà văn có nhãn quan xã hội nhạy bén, có khả
năng phân tích đối tượng ráo riết, nhiều nhạy cảm với sự hiện diện của các loại ý thức xã hội trong
bản tổng phổ của ngôn ngữ bao trùm một thời đại, thì sự chú ý đến khía cạnh phong tục trong bức
tranh đời sống không lấn át được nhu cầu thể hiện những cảm quan sâu sắc về một hiện thực đang
biến động dữ dội.
4.2.2. Việc nhào nặn chất liệu hiện thực theo hướng phong tục hóa trong văn xuôi tự sự
Lưu Trọng Lư
Ở Lưu Trọng Lư, có lẽ bẩm tính nhà thơ mạnh hơn nên khi viết văn xuôi, trước hiện thực bề
bộn, ông chủ yếu chấm phá, lướt qua mà không đi sâu. Cũng do vậy, đọc văn xuôi tự sự của ông,

người đọc thấy bàng bạc chất phong tục.
Việc chú ý thể hiện các mối quan hệ dòng tộc cũng là một bằng chứng cho thấy chiều
hướng viết ngả sang phía “phong tục” của tác giả Lưu Trọng Lư. Dòng họ là cuốn tự truyện
kiêm tiểu luận về gia đình và quê hương của nhà văn. Ở đó, những quan hệ trong dòng tộc, gia
tộc được tác giả thể hiện rất rõ. Trong tác phẩm, người đọc còn được sống trong không khí của
những xới vật giữa các “côi làng”. Ở đây, rất nhiều những từ ngữ để miêu tả trận đấu vật được
nhà văn sử dụng.
Nhà văn cũng tái hiện lại cảnh dân làng mong đợi nhất vào ngày mồng bốn tết là cảnh thi
văn (buổi sáng) và thi võ (buổi chiều - cướp cù). Với sự chuẩn bị chiến thuật một cách cẩn thận, hai
làng chỉ chờ lúc có tín hiệu là tất cả thanh niên hai phía nhảy vào cuộc “chiến” hỗn độn. Phần thắng
sẽ thuộc về đội có lòng tin vào chính sức mạnh của làng mình.
Lưu Trọng Lư thường tỏ thái độ, tình cảm chăm chút với những bức tranh nho nhỏ lấy từ
trong ký ức của ông về gia đình, về dòng tộc, về quê hương làng xã. Người đọc nhận thấy ông
không có tham vọng khái quát bề rộng của hiện thực, ít khi đi đến cùng trong việc nghiên cứu, thể
hiện xung đột mà chủ yếu quan tâm miêu tả, thể hiện những bức tranh sinh hoạt mang tính đặc dị.
4.2.3. Nét riêng của Lưu Trọng Lư với các nhà văn cùng thời trên vấn đề nhào nặn chất
liệu hiện thực theo hướng phong tục hóa
Nếu các nhà văn hiện thực cùng thời như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam
Cao… miêu tả hiện thực tỉ mỉ với nhiều chi tiết thì Lưu Trọng Lư lại thực hiện công việc đó bằng
bút pháp chấm phá. Lưu Trọng Lư không tập trung phê phán rõ ràng một xã hội, một giai tầng hay
một thói hư tật xấu... Nguyên nhân các bi kịch được thể hiện trong văn xuôi của ông không hẳn đến
từ xã hội mà trước hết đến từ lối sống, ứng xử của các nhân vật.
Hiện thực trong văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư là những trạng huống, những bức tranh nho
nhỏ về đời sống, không có cái rùng rợn và bão tố, không có cái sần sùi, gồ ghề kịch tính. Ngôn ngữ
và giọng điệu trữ tình cũng vì thế là đặc trưng cơ bản của văn xuôi Lưu Trọng Lư. Không gân guốc,
không đao to búa lớn nhưng đằng sau những dòng chữ lặng lẽ ấy là bao nhiêu dằn vặt về sự thức
tỉnh nhân cách con người. Lưu Trọng Lư chịu ảnh hưởng sâu sắc của trường phái lãng mạn, vì vậy
tác phẩm của ông thức tỉnh niềm vui sống trong sâu thẳm con người. Giọng văn Lưu Trọng Lư có
sức lôi cuốn rất riêng, đã diễn tả khá tinh tế những cung bậc tình cảm của nội tâm. Vì vậy, văn xuôi
tự sự Lưu Trọng Lư nhẹ nhàng và giàu chất thơ, không gân guốc hay nặng nề với những triết lí,

những thói quen lật trở vấn đề một cách ráo riết.


21
4.3. Tạo sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất văn xuôi và chất thơ
4.3.1. Cơ sở của việc tạo sự kết hợp giữa chất văn xuôi và chất thơ
Các khái niệm “chất văn xuôi” và “chất thơ” đã được sử dụng khá phổ biến trong nhiều tài
liệu lý luận văn học. Chúng mang tính quy ước, thoạt đầu dùng để chỉ những tính chất khác nhau
giữa văn xuôi và thơ vốn là hai đối tượng vẫn thường được đặt trong tương quan đối lập. Nếu chất
văn xuôi được bộ lộ nhờ sự miêu tả trung thực những bề bộn, phức tạp của đời sống thì chất thơ
được cất lên nhờ thiên hướng chọn lọc những nét đẹp, nét nên thơ của cuộc đời. Có tài liệu xác
định chất văn xuôi là một đặc trưng quan trọng của tiểu thuyết hiện đại. Còn về chất thơ, sự lý
giải có phần phân tán hơn. Có khi nó được đồng nhất với chất trữ tình, có khi nó được nhìn nhận
như là một trong các biểu hiện của chất trữ tình. Với sự phát triển của những sáng tác mang tính
hỗn dung về thể loại, hai khái niệm chất văn xuôi và chất thơ không còn nhằm chỉ các đặc trưng
của những thể loại khu biệt, mà chỉ các tính chất nổi bật trong sáng tác, bất kể sáng tác đó thuộc
thể loại gì. Lưu Trọng Lư vốn sáng tác trên nhiều lĩnh vực: thơ, văn xuôi, sân khấu, phê bình văn
học. Đến với văn chương, ông dường như mang theo sứ mệnh “hòa giải” giữa thơ và văn xuôi,
giữa hiện thực và lãng mạn (hiểu theo nghĩa đã tạo ra được một sự hòa hợp giữa các đối cực) để
từ đó viết nên những tác phẩm khá phù hợp với thẩm mỹ truyền thống.
Đặc trưng của văn xuôi là phát hiện thế giới hiện thực khách quan. Tuy nhiên, bên cạnh tả
đúng, tả thực, văn xuôi còn cần sự biểu cảm, mà biểu cảm chính là thuộc tính của thơ. Như vậy, văn
xuôi nhiều khi có nhu cầu mở lối để thơ tràn vào, tự tạo cho mình một màu sắc trữ tình riêng biệt.
Hiện tượng chất thơ xâm nhập vào văn xuôi thời kì 1930 - 1945 không chỉ có trong dòng truyện
ngắn trữ tình của Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh mà còn có ở tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn,
truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng, Nguyễn Tuân. Ngay cả trong văn học hiện thực phê phán,
Nguyên Hồng đã để chất thơ tràn vào tác phẩm của mình một cách tự nhiên trong Những ngày thơ
ấu, Mợ Du, Buổi chiều xám...
Đọc những trang văn xuôi của Lưu Trọng Lư, chúng ta rất dễ nhận thấy sự hòa trộn cảm xúc
của người làm thơ với người viết văn xuôi, tiểu thuyết. Bởi lẽ, cảm hứng chủ đạo dẫn dắt ngòi bút

văn xuôi của ông là cảm hứng trữ tình. Lưu Trọng Lư làm thơ về mẹ, về mùa thu, về những kỉ niệm
theo ông suốt cuộc đời. Lưu Trọng Lư cũng viết truyện ngắn, viết tiểu thuyết, viết hồi kí về những
đề tài trên nên sự gặp gỡ giữa thơ và văn xuôi là một điều hiển nhiên. Chất thơ trong văn xuôi Lưu
Trọng Lư được cất lên từ sự hồi tưởng về kí ức tuổi thơ, về mẹ.
Tiểu thuyết Người nữ tỳ của bà chúa Liễu có đoạn đã truyền tải nội dung của bài thơ Chiếc
cáng điều, nhưng nó mang âm vang rộng và dài hơn: với hình ảnh chiếc cáng đủng đỉnh lên đèo khi
màn đêm buông xuống, hai anh phu cáng kể về chuyện Nường Ba xuất quỷ nhập thần cho Lê Sinh
và thiếu nữ nghe khiến ai cũng sợ sệt.
Trong số 54 truyện ngắn và tiểu thuyết của tác giả trước Cách mạng tháng Tám, chúng ta
thấy có tới 21 tác phẩm tác giả đưa thơ vào hoặc để nhân vật hát (15 tác phẩm trích dẫn thơ, 6 nhân
vật để cho nhân vật cất tiếng hát). Đây là một minh chứng cho sự đồng điệu, sự kết nối của tâm hồn
thi sĩ và tâm hồn văn sĩ Lưu Trọng Lư.
4.3.2. Biểu hiện của cái nhìn thơ về hiện thực
Đi sâu miêu tả tâm lí, cảm giác của nhân vật là một trong những mũi nhọn thể nghiệm đầu
tiên của các nhà văn trong chặng đường nỗ lực hiện đại hóa văn học Việt Nam. Từ Tố Tâm của
Hoàng Ngọc Phách đến tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn, việc thể hiện tâm lí, cảm giác dần trở
thành một đòi hỏi thiết yếu.
Lưu Trọng Lư trước hết là một nhà thơ, khởi nghiệp bằng thơ. Điểm xuất phát này đã ảnh
hưởng rất lớn đến sáng tác văn xuôi của ông. Là một nhà thơ của sầu và mộng, khi viết văn xuôi ông
chú tâm xoáy vào cảm giác của nhân vật. Văn xuôi tự sự của ông cũng vậy, có nhiều câu chuyện ông


22
không nghiền ngẫm lâu, có khi trong một phút thăng hoa của cảm xúc, ông có thể lập ra một tứ truyện
mang tính chủ quan. Đó là truyện không có tứ rõ ràng, không có sự chuẩn bị nghiền ngẫm từ trước,
mà nó được chảy ra từ một ngòi bút miên man cảm xúc. Điều này thêm một lần nữa cho ta thấy sự kết
hợp nhuần nhuyễn giữa chất thơ và tính tự sự trong văn xuôi. Tứ truyện thường đến bất ngờ, đột ngột
từ một miền vô thức phi lý tính có liên quan đến cảm hứng, giây phút thăng hoa, sự loé sáng trong tư
duy nghệ thuật.
Được cảm hứng trữ tình sâu lắng dẫn dắt, những câu chuyện rất giản dị mà Lưu Trọng Lư kể

ra đã mất đi cái chất nôm na ngày thường của nó mà lấp lánh cái cấu trúc kỳ ảo của những tứ thơ. Ông
ưa đi sâu khám phá những tâm tình lãng mạn qua đó thể hiện những nỗi niềm ưu tư, trắc ẩn về số
phận con người, thời đại. Chính vì không cần dàn dựng một kết cấu chặt chẽ, chi tiết cho câu chuyện
cho nên ở những tiểu thuyết về đề tài thần tiên, có nhiều đoạn đối thoại của nhân vật, Lưu Trọng Lư
đã để họ nói như đọc một bài thơ.
Một trong những biểu hiện của cái nhìn thơ về hiện thực là tác giả hay khai thác yếu tố bi
trong cuộc sống, với định hướng gây cảm xúc mạnh cho người đọc. Điều này thể hiện rõ ở mảng
văn xuôi viết về đề tài tình yêu và những nhân vật thất bại.
Như vậy, trong văn xuôi Lưu Trọng Lư, có nhiều tác phẩm xoáy vào cảm giác để thể hiện
cách cảm nhận mang tính chủ quan của nhà văn, tạo cơ sở cho việc khám phá những tâm tình lãng
mạn, song song với việc khai thác các yếu tố bi trong cuộc sống. Đó đều là những biểu hiện của cái
nhìn thơ về hiện thực trong văn xuôi tự sự Lưu Trong Lư giai đoạn trước 1945.
4.3.3. Sự kết hợp giữa chất văn xuôi và chất thơ trên bình diện ngôn ngữ và giọng điệu
Trong văn xuôi tự sự của mình, Lưu Trọng Lư đã sử dụng một thứ ngôn ngữ mang dáng dấp
ngôn ngữ thơ. Ở đó, sự phân tích và tạo hình không lấn át sự biểu cảm, ước lệ. Cụ thể, khoảng cách
cảm xúc giữa người trần thuật và cảm xúc của nhân vật trong tác phẩm đã được rút ngắn lại, có khi
như trùng với nhau. Từ góc độ này, người trần thuật có thể thâm nhập vào cảm xúc, suy nghĩ, ấn
tượng của nhân vật, nhìn thế giới, theo con mắt của nhân vật và trần thuật bằng chính giọng điệu
biểu cảm của nhân vật đó.
Sự hòa đồng giữa cảm xúc của người trần thuật với cảm xúc nhân vật là một trong những
biểu hiện của việc xử lý hài hòa quan hệ giữa thơ và văn xuôi. Ở câu chuyện trên, nhà văn vừa để
nhân vật trần thuật lộ diện lại vừa để nhân vật trần thuật ẩn tàng. Trong tư cách là người trần thuật
lộ diện, anh ta được coi là người tham dự vào câu chuyện như là một nhân vật, được gia nhập vào
hội thoại, được nhận xét trực tiếp, được nói tiếng nói của mình. Còn trường hợp người trần thuật ẩn
tàng là người trần thuật theo “ngôi thứ ba” dưới hình thức người kể chuyện (do tác giả sáng tạo ra),
lời trần thuật ở đây mang tính khách quan hoá và trung tính. Vì vậy, lời trần thuật ở đây còn có
nhiệm vụ tái hiện và phân tích, lý giải thế giới khách quan vật chất, sự việc, con người; tái hiện và
phân tích, lý giải lời nói ý thức người khác.
Như vậy, do chịu ảnh hưởng của truyền thống Việt vốn “thiên ái” đối với thơ và bối cảnh
sáng tạo đặc thù của bộ phận văn học công khai, cộng với những trải nghiệm và hoạt động thực tiễn

của bản thân, Lưu Trọng Lư, qua các sáng tác văn xuôi tự sự, đã rất nhất quán khi duy trì một cái
nhìn thơ về hiện thực. Có thể nói, với cách xử lý ngôn ngữ và giọng điệu khá độc đáo, Lưu Trọng
Lư đã tạo được sự cân bằng giữa chất văn xuôi và chất thơ trong văn xuôi tự sự của mình.


23
KẾT LUẬN
1. Văn xuôi tự sự của Lưu Trọng Lư giai đoạn trước 1945 chưa được giới nghiên cứu và bạn
đọc quan tâm đúng mức. Còn có những đánh giá trái ngược về đóng góp và thành công của nhà văn.
Bên cạnh các cây bút xuất sắc cùng trào lưu lãng mạn có nhiều nét gần gũi với Lưu Trọng Lư như
Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Xuân Diệu..., Lưu Trọng Lư có lúc bị mờ đi. Tuy nhiên, gần
đây đã có những đánh giá lại khách quan hơn về văn xuôi Lưu Trọng Lư. Đọc một cách có hệ thống
những tác phẩm văn xuôi tự sự của ông trước 1945, người đọc vẫn nhận ra những nét độc đáo,
những đóng góp đáng kể của ông cho tiến trình hiện đại hóa nền văn học Việt Nam nói chung, nền
văn xuôi tự sự Việt Nam nói riêng.
2. Tuy chịu ảnh hưởng sâu đậm của văn học truyền thống nhưng Lưu Trọng Lư vẫn nghiêng
về cách viết hiện đại bằng tinh thần lãng mạn. Văn xuôi của ông vừa kế thừa vừa cải biến các
khuynh hướng thẩm mỹ từng tồn tại để góp phần tạo ra một môi trường giao tiếp thẩm mỹ mới cho
văn học đương thời. Ở ông có sự mực thước, cổ điển, với tâm lý hoài niệm, đề cao cái đẹp trong
quá khứ, vừa có màu sắc lãng mạn phương Tây, với những mẫu người, những chuẩn mực thẩm mỹ
mang tính thị dân, phù hợp với tâm lý, thị hiếu thời đại. Sự kết hợp chặt chẽ các khuynh hướng
thẫm mỹ đã tạo nên sự đa dạng trong sáng tác. Văn xuôi Lưu Trọng Lư vì thế vừa hiện thực vừa
lãng mạn, vừa phương Đông vừa phương Tây, vừa cổ kính, bảng lảng khói sương của cổ tích, vừa
là những câu chuyện của ngày hôm nay.
3. Nét nổi bật trong văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư vẫn là cảm hứng lãng mạn trong chọn lựa
đề tài và hệ thống hình tượng. Với tư duy của một nhà thơ lãng mạn, sang lĩnh vực văn xuôi, Lưu
Trọng Lư tiếp tục hướng ngòi bút về thế giới của sầu và mộng. Các đề tài chủ yếu của văn xuôi Lưu
Trọng Lư là: con người bi kịch trong môi trường đô thị, con người lỡ vận, những kỉ niệm riêng tư.
Hình tượng con người mang tâm lý thất bại, con người chìm đắm trong bể ái tình, con người mộng
ảo là những hình tượng nổi bật, ít nhiều tạo được ám ảnh với bạn đọc. Rõ ràng, đây đều là những đề

tài quen thuộc của văn học lãng mạn thế giới cũng như Việt Nam, được Lưu Trọng Lư thừa tiếp và
thể hiện theo tạng chất riêng của mình. Trong văn xuôi tự sự, Lưu Trọng Lư đặc biệt chú ý thể hiện
thế giới cảm xúc, nội tâm nhân vật. Có thể nói, nhìn nhận con người ở khía cạnh cảm xúc là một
bước phát triển mới của văn xuôi tự sự trước 1945 mà Lưu Trọng Lư là người có đóng góp đáng kể.
Với sự đi sâu vào khám phá “con người bên trong”, khám phá phần cảm xúc, cảm giác sâu sắc của
tâm hồn, Lưu Trọng Lư đã chứng tỏ sự nhạy cảm, tinh tế của ông trong việc tìm hiểu chân diện mục
của con người thời đại lãng mạn, thời đại mà ý thức cá nhân đang trỗi dậy mạnh mẽ để đòi quyền
sống cho mình. Chính ở đây, ta thấy chẳng những có sự dung hợp hài hòa giữa tư cách của nhà thơ
lãng mạn và người viết văn xuôi năng nổ thấu hiểu thị trường văn học, thấu hiểu con đường vận
động của cả nền văn học, mà còn là sự dung hợp giữa các khuynh hướng, trường phái văn học trong
văn học Việt Nam 1930 - 1945: có lãng mạn, có hiện thực, có tượng trưng, có sự chi phối của
truyền thống tự sự, lại vừa có sự học hỏi, tiếp thu những bài học mới từ phương xa, trước hết là từ
văn học Pháp. Qua thực tiễn văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư trước 1945, nhà nghiên cứu lịch sử văn
học có thể nhìn thấy thực tế tồn tại trong bức tranh văn chương đương thời: các khuynh hướng văn
học khác nhau, nhưng đường biên giữa chúng không phải bao giờ cũng rành mạch, dứt khoát,
không có những xung đột lớn trong quan niệm, lý tưởng thẩm mỹ. Điều này phản ánh tình thế phát
triển có tính chất đặc thù của văn học nước nhà: phải tạo ra một sự tiếp thu, cải biến tích cực để hiện
đại hóa trên mọi phương diện của sáng tác văn học.
4. Để có được những thành tựu trong văn xuôi tự sự, Lưu Trọng Lư đã chủ động tiếp nhận
ảnh hưởng từ nhiều khuynh hướng sáng tác: khuynh hướng tình cảm chủ nghĩa, khuynh hướng tố
cáo hiện thực và khuynh hướng phong tục. Nhà văn cũng có những kiểu lựa chọn đặc thù trên


24
phương diện nghệ thuật. Ông thường sử dụng các mô típ có sẵn, có điều các mô típ đó đã được
ông dùng một cách biến hóa để phù hợp với thời đại lúc bấy giờ, nói lên tiếng nói của bầu không
khí ông đang hít thở. Khi tiếp nhận các thủ pháp biểu hiện của kiểu sáng tác tình cảm chủ nghĩa,
Lưu Trọng Lư đã làm cho những trang viết của mình đầy ắp nỗi cảm thương, sầu nhớ, bâng
khuâng. Nhưng không chỉ thế, phẩm chất hiện thực ở nhiều trang viết của ông cũng rất cao. Điều
này góp phần xóa bỏ một thành kiến rằng với một người lấy cõi mộng làm đời thực như Lưu

Trọng Lư, sự quan sát, ghi chép một cách sắc sảo về đời sống là điều khó đạt được. Đọc văn xuôi
tự sự Lưu Trọng Lư, độc giả còn có dịp thích thú dõi theo những trang đậm tính chất phong tục.
Riêng trên phương diện này, Lưu Trọng Lư tỏ ra không thua kém những nhà văn thường được
cho là có sở trường về phong tục như Tô Hoài, Bùi Hiển... Văn xuôi tự sự của Lưu Trọng Lư đã
để lại những dấu ấn đặc thù đáng ghi nhận về mặt nghệ thuật. Ông đã kế thừa và tạo ra vẻ vừa xưa
vừa mới cho các mô típ trong tác phẩm và cũng không quên khai thác các nét dị biệt cho các mô
típ đó. Nhà văn đã quan tâm miêu tả, thể hiện những bức tranh phong tục mang tính đặc dị, không
quá chú trọng khái quát bề rộng của hiện thực, ít đi đến cùng việc nghiên cứu và thể hiện xung
đột. Khởi đầu nghiệp bút với thơ và cũng nổi danh trước hết với tư cách nhà thơ, văn xuôi của
Lưu Trọng Lư có sự kết hợp khá nhuần nghuyễn giữa chất văn xuôi và chất thơ. Ông chú tâm vào
cảm giác, cảm nhận mang tính chủ quan, ưa khám phá những tâm tình lãng mạn, thích khai thác
những yếu tố bi trong cuộc sống. Do đó ngôn ngữ phân tích trong văn xuôi tự sự của Lưu Trọng
Lư không lấn át ngôn ngữ biểu cảm, ước lệ và giọng điệu cảm thương được đan cài với giọng
điệu kể việc tỉnh táo.
Mặc dầu cho đến nay, mảng văn xuôi tự sự của Lưu Trọng Lư thời kì trước năm 1945 vẫn
còn những ý kiến đánh giá chưa thống nhất, nhưng với những gì đã làm được, có thể khẳng định
đóng góp không nhỏ của nhà văn cho tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam và làm phong phú
thêm bức tranh văn xuôi ở một chặng đường phát triển rực rỡ của nó.


×