Tải bản đầy đủ (.pdf) (169 trang)

Luận án tiến sĩ Kinh tế: Vai trò của Nhà nước trong tái cơ cấu nền kinh tế ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 169 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

ĐINH VĂN TRUNG

VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG
TÁI CƠ CẤU NỀN KINH TẾ Ở VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2018


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

ĐINH VĂN TRUNG

VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG
TÁI CƠ CẤU NỀN KINH TẾ Ở VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Mã số: 62.31.01.02

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. LÊ QUỐC LÝ

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án với đề tài "Vai trò của Nhà nước trong tái


cơ cấu nền kinh tế ở Việt Nam" là công trình nghiên cứu khoa học của riêng
tôi. Những tài liệu tham khảo, số liệu, thông tin được sử dụng trong luận án là
trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn theo đúng quy định.
Tác giả luận án

Đinh Văn Trung


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN VAI
TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG TÁI CƠ CẤU NỀN KINH TẾ

1.1. Công trình nghiên cứu ở nước ngoài
1.2. Công trình nghiên cứu ở trong nước
1.3. Tổng quan kết quả nghiên cứu của các công trình và khoảng trống
luận án cần tiếp tục nghiên cứu
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ
NƯỚC TRONG TÁI CƠ CẤU NỀN KINH TẾ

2.1. Khái niệm cơ cấu nền kinh tế và tái cơ cấu nền kinh tế
2.2. Nội dung vai trò nhà nước trong tái cơ cấu nền kinh tế và tiêu chí
đánh giá
2.3. Sự cần thiết và những nhân tố ảnh hưởng đến vai trò của nhà nước
trong tái cơ cấu nền kinh tế
2.4. Kinh nghiệm của một số quốc gia về thực hiện vai trò nhà nước
trong tái cơ cấu nền kinh tế và bài học cho Việt Nam
Chương 3: THỰC TRẠNG VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG TÁI CƠ CẤU
NỀN KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011 - 2017


3.1. Tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011-2017
3.2. Thực trạng vai trò của nhà nước trong tái cơ cấu nền kinh tế Việt
Nam giai đoạn 2011-2017
Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ NHÀ
NƯỚC TRONG TÁI CƠ CẤU NỀN KINH TẾ Ở VIỆT NAM

Trang
1
7
7
16
22
25
25
32
43
52
66
66
89
107
107

4.1. Bối cảnh thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam hiện nay
4.2. Phương hướng phát huy vai trò nhà nước trong tái cơ cấu nền kinh
tế Việt Nam
109
4.3. Giải pháp phát huy vai trò của nhà nước trong tái cơ cấu nền kinh
tế Việt Nam hiện nay và những năm tiếp theo
115

150
KẾT LUẬN

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢI ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN
152
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

153


DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH
Trang
Bảng 3.1:

So sánh tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam qua các năm

68

Bảng 3.2:

Tỷ trọng lĩnh vực kinh tế trong GDP

69

Bảng 3.3:

Thâm hụt ngân sách và nợ công

79


Bảng 3.4:

Năng suất lao động của một số quốc gia

80

Hình 3.1:

Tăng trưởng GDP giai đoạn 2010 - 2017

68

Hình 3.2:

Tỷ lệ lạm phát của nền kinh tế Việt Nam 10 năm qua

69

Hình 3.3:

Giá trị xuất nhập khẩu và cán cân thương mại từ 2005 - 2017

70

Hình 3.4:

ICOR của nền kinh tế giai đoạn 2011 - 2017

71


Hình 3.5:

Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội phân theo khu vực kinh tế

72

Hình 3.6:

Mức tăng năng suất lao động của Việt Nam qua các năm

80


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau hơn 30 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu
ấn tượng. Từ nền kinh tế có trình độ lạc hậu, yếu kém, trì trệ, khủng hoảng, Việt
Nam đã dần hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với cơ
cấu nền kinh tế tiến bộ, mang lại hiệu quả kinh tế xã hội thiết thực, có khả năng hội
nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển đó, nền kinh tế Việt Nam
vẫn có nhiều khiếm khuyết, gặp nhiều khó khăn do những nguyên nhân chủ quan,
khách quan, đã tạo ra một số khủng hoảng, bất ổn ở những phạm vi, lĩnh vực nhất
định của nền kinh tế.
Đặc biệt, từ cuối năm 2008, cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế
thế giới tác động mạnh mẽ làm nền kinh tế Việt Nam bộ lộ rõ hơn những khiếm
khuyết, gây bất ổn ở phạm vi rộng, gây hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng tới toàn bộ
nền kinh tế. Ở cấp độ vĩ mô, tốc độ tăng trưởng suy giảm, lạm phát tăng cao, sản

xuất đình trệ. Ở cấp độ vi mô, hàng hoá ứ đọng, nợ xấu tăng cao ở một số thị trường
trọng điểm như thị trường bất động sản, thị trường tài chính tiền tệ, thị trường hàng
hoá. Hệ thống tài chính mất an toàn. Sức sản xuất của nền kinh tế suy giảm, chất
lượng, hiệu quả sản xuất kinh doanh của nền kinh tế thấp, năng lực cạnh tranh kém.
Nền kinh tế Việt Nam bước vào giai đoạn khủng hoảng.
Nhằm khắc phục khủng hoảng, Việt Nam đã tiến hành tái cơ cấu nền kinh tế.
Các chủ trương, chính sách, giải pháp tái cơ cấu được ban hành. Tái cơ cấu nền kinh
tế được Đảng, nhà nước xác định là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, cần thực hiện
ngay bây giờ và những năm tiếp theo. Sau 06 năm thực hiện (từ 2011 đến 2017), nền
kinh tế Việt Nam đã có nhiều chuyển biến tích cực. Các chỉ số kinh tế vĩ mô như lạm
phát, tăng trưởng, cán cân thương mại, tỷ lệ việc làm đã ổn định trở lại. Nền kinh tế
tiếp tục xu hướng phát triển. Đây là kết quả tích cực từ hoạt động tái cơ cấu.
Tuy nhiên, sau 06 năm tái cơ cấu, nền kinh tế Việt Nam vẫn tồn tại những
bất ổn chưa khắc phục được. Đó là việc tái cơ cấu đầu tư công ở một số ngành, địa
phương chưa đáp ứng yêu cầu, đầu tư còn dàn trải, thất thoát, lãng phí ở một số dự
án lớn. Xử lý nợ đọng trong xây dựng cơ bản chậm. Thu hút nguồn lực tư nhân
tham gia đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng chưa hiệu quả, thiếu minh bạch dẫn đến
lợi ích nhóm, lợi ích tư nhân vượt trên lợi ích công gây ra nhiều bức xúc trong nhân
dân. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa chú trọng đến chuyển giao công nghệ
và vấn đề môi trường. Trong lĩnh vực tài chính, nợ xấu ngân hàng vẫn còn và thậm


2

chí còn ở mức nguy hiểm. Chất lượng tín dụng và dịch vụ ngân hàng cải thiện
chậm, cơ cấu tín dụng chưa phù hợp với yêu cầu phát triển. Năng lực tài chính,
quản trị của một số tổ chức tín dụng yếu, hoạt động của một số ngân hàng thương
mại cổ phần thiếu minh bạch, chưa phù hợp thông lệ quốc tế. Trong tái cơ cấu
doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước, ngoài biện pháp cổ phần hóa theo
hình thức bán phần vốn nhà nước, chưa có giải pháp nào để nâng cao năng lực sản

xuất và sức cạnh tranh cho hệ thống doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói
chung. Tiến độ cổ phần hóa chậm, tỷ lệ vốn được cổ phần hóa thấp. Hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp nhà nước chưa tương xứng với nguồn lực được nắm giữ, có
những vi phạm gây thất thoát, lãng phí lớn tại một số doanh nghiệp nhà nước trọng
điểm. Doanh nghiệp nhà nước chưa thể hiện được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
Nếu xem xét hiệu quả hoạt động tái cơ cấu với các tiêu chí đo lường như
hiệu quả đầu tư, năng suất lao động, chỉ số ứng dụng và phát triển khoa học công
nghệ, chỉ số cạnh tranh, mức độ tín nhiệm, mức độ minh bạch, hiệu quả của nền
kinh tế…thì nền kinh tế Việt Nam vẫn còn ở mức độ và trình độ phát triển thấp,
chưa có chuyển biến tích cực, thậm chí có những tiêu chí bị thụt lùi. Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng nhận định:
Chất lượng tăng trưởng một số mặt còn thấp, cải thiện còn chậm; năng
suất nhiều ngành, lĩnh vực còn thấp; công nghệ sản xuất phần lớn còn lạc
hậu. Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp vào tăng trưởng còn
hạn chế, hệ số sử dụng vốn còn cao. Năng lực cạnh tranh quốc gia chưa
được cải thiện, nhất là về thể chế kinh tế, kết cấu hạ tầng và đổi mới
công nghệ [18, tr.247].
Đánh giá về tái cơ cấu nền kinh tế, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII
của Đảng nhận xét: "Nợ xấu đang giảm dần nhưng vẫn còn ở mức cao, nợ công tăng
nhanh. Tình trạng đầu tư công dàn trải, thất thoát, lãng phí chậm được khắc phục.
Việc xây dựng và thực hiện đề án cơ cấu lại tổng thể nền kinh tế thiếu đồng bộ,
chưa thật sự gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, kết quả còn hạn chế" [18, tr.85].
Điều đó cho thấy tái cơ cấu nền kinh tế thời gian qua vẫn còn những hạn chế và
chưa đạt được hiệu quả mong muốn.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những tồn tại trên trong đó có vai trò của nhà
nước. Việc nhà nước chưa phát huy hết vai trò trong tái cơ cấu nền kinh tế giai
đoạn vừa qua đã làm giảm hiệu quả hoạt động tái cơ cấu. Ngoài việc phát động
chủ trương, đưa ra đường lối chính sách, nhà nước chưa phát huy hết vai trò của



3

mình trong hành động thực tiễn. Nhận thức của chính nhà nước về nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là về vai trò của nhà nước đối với nền
kinh tế chưa đủ rõ và còn khác nhau dẫn đến sự thiếu tập trung và nhất quán trong
chỉ đạo tái cơ cấu nền kinh tế. Việc xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật, kế
hoạch, cơ chế, chính sách và chỉ đạo, điều hành tái cơ cấu nền kinh tế của nhà
nước còn lúng túng, chưa nhất quán, chưa tạo được động lực mạnh mẽ trong tái cơ
cấu. Khả năng dự báo và hoạch định chính sách của nhà nước còn hạn chế. Các đề
án tái cơ cấu nền kinh tế, cơ chế, chính sách, pháp luật về kinh tế nói chung, về tái
cơ cấu nền kinh tế nói riêng chậm được ban hành, chồng chéo, thiếu tính ổn định,
nhất quán, có biểu hiện cục bộ, chất lượng thấp, chưa tạo được bước đột phá trong
huy động và phân bổ các nguồn lực phát triển. Đề án tái cơ cấu được xây dựng
nhiều nhưng tính khả thi chưa cao, chưa đáp ứng đúng yêu cầu của thực tiễn.
Trong tái cơ cấu nền kinh tế, nhà nước chậm cải cách hành chính, bộ máy quản lý
nhà nước còn cồng kềnh, chậm đổi mới cũng tạo ra lực cản nhất định, đặc biệt là
bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế. Quản lý nhà nước chưa đáp ứng kịp yêu cầu
phát triển của kinh tế thị trường.
Rõ ràng, hoạt động tái cơ cấu đang cần một nhân tố trung tâm, có tính quyết
định, có quyền lực, chức năng, thẩm quyền, có khả năng huy động, kiểm soát, giám
sát các nguồn lực để thực hiện tái cơ cấu theo mục đích, yêu cầu đề ra. Nhân tố đó,
không ai khác chính là nhà nước. Với chức năng và quyền lực của mình, nhà nước
phải đóng vai trò tích cực hơn, chủ động hơn trong hoạt động tái cơ cấu, phải là
trung tâm của hoạt động tái cơ cấu. Việc nhà nước chưa xác định và chưa phát huy
hết vai trò của mình dẫn đến việc định hướng nội dung, đối tượng, phương pháp
hoạt động tái cơ cấu nền kinh tế chưa toàn diện, làm giảm hiệu quả của hoạt động
tái cơ cấu. Cơ cấu nền kinh tế vẫn chưa có những biến đổi mang tính cơ bản. Những
kết quả đạt được mới chỉ là kết quả mang tính tình huống riêng lẻ, trong những lĩnh
vực, phạm vi nhất định như đầu tư công, tài chính, doanh nghiệp, nhằm xử lý những
khiếm khuyết cụ thể mà chưa có tính hệ thống, chưa đảm bảo sự ổn định lâu dài.

Để thực hiện tốt việc tái cơ cấu, Đảng, Nhà nước phải xác định được cơ sở lý
luận và những quan điểm cơ bản, những hướng triển khai trọng tâm, cốt lõi định
hướng cho quá trình tái cơ cấu, tạo sự thống nhất trong nhận thức, sự tập trung cao
trong hành động. Về lâu dài, phải xác định chính xác, đầy đủ vai trò, trách nhiệm
của nhà nước trong tái cơ cấu nền kinh tế. Từ đó nhà nước xác định chính xác đối
tượng, nội dung, phương pháp tái cơ cấu, lấy khâu sản xuất, lấy lực lượng sản xuất


4

làm đối tượng chính trong tái cơ cấu nền kinh tế, qua đó nâng cao năng lực sản xuất
của nền kinh tế. Đây mới là vai trò, nội dung cơ bản mà nhà nước phải hướng tới
trong tái cơ cấu nền kinh tế ở Việt Nam.
Việc nhà nước chưa xác định và chưa phát huy hết vai trò của mình trong
hoạt động tái cơ cấu giai đoạn 2011 - 2017 vừa qua có thể coi là một nguyên nhân
quan trọng dẫn đến những tồn tại, hạn chế, ảnh hưởng tới hiệu quả tái cơ cấu nền
kinh tế. Từ thực tiễn và lý luận đó, việc nghiên cứu làm rõ vai trò của nhà nước
trong tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam giai đoạn hiện nay là điều cần thiết, có giá trị
hữu ích. Vì vậy, đề tài "Vai trò của nhà nước trong tái cơ cấu nền kinh tế ở Việt
Nam" được nghiên cứu sinh chọn để nghiên cứu và làm luận án tiến sĩ kinh tế,
chuyên ngành Kinh tế chính trị.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là phân tích, đánh giá vai trò của nhà nước
trong tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam thời gian qua. Từ đó, luận án đề xuất những
phương hướng, giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của nhà nước trong tái cơ
cấu nền kinh tế Việt Nam từ nay đến năm 2030.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng hợp kết quả nghiên cứu của các công trình đã công bố có liên quan
đến luận án để có thể kế thừa hoặc phát triển những kết quả đó. Đồng thời xác định

khoảng trống mà luận án cần tiếp tục nghiên cứu.
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận chung về cơ cấu nền kinh tế và tái cơ
cấu nền kinh tế.
- Xây dựng khung lý thuyết về vai trò của nhà nước trong tái cơ cấu nền kinh
tế, trong đó tập trung làm rõ nội dung vai trò nhà nước và sự cần thiết của vai trò
nhà nước trong tái cơ cấu nền kinh tế.
- Phân tích thực trạng vai trò của nhà nước trong tái cơ cấu kinh tế Việt Nam
trong giai đoạn 2011 - 2017.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp phát huy vai trò của nhà nước trong tái cơ
cấu nền kinh tế Việt Nam nhằm nâng cao năng lực sản xuất, xây dựng cơ cấu nền
kinh tế Việt Nam phát triển bền vững trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là vai trò của nhà nước trong tái cơ cấu
nền kinh tế ở Việt Nam hiện nay.


5

3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận
và thực tiễn về cơ cấu và tái cơ cấu nền kinh tế, về vai trò của nhà nước trong tái cơ
cấu nền kinh tế, nghiên cứu thực trạng hoạt động tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam
giai đoạn 2011 - 2017, nghiên cứu đề xuất các giải pháp phát huy vai trò của nhà
nước trong tái cơ cấu nền kinh tế ở Việt Nam những năm tiếp theo.
- Về không gian nghiên cứu: Trong nền kinh tế Việt Nam. Ngoài ra, luận án
có đề cập, phân tích kinh nghiệm thực hiện vai trò của nhà nước trong tái cơ cấu của
một số quốc gia trên thế giới.
- Về thời gian: Luận án nghiên cứu giai đoạn thực hiện tái cơ cấu nền kinh
tế từ 2011 đến 2017, đưa ra các dự báo, phương hướng, giải pháp, tầm nhìn đến

năm 2030.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án sử dụng cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của nhà nước về vấn đề quản lý, điều hành kinh tế, về chủ trương,
giải pháp tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam giai đoạn hiện nay. Đồng thời, luận án
cũng sử dụng cơ sở lý luận và phương pháp luận của các nhà kinh tế khác cũng như
các lý thuyết về vai trò của nhà nước trong quản lý, điều hành nền kinh tế nói
chung, trong tái cơ cấu nền kinh tế nói riêng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử;
phương pháp trừu tượng hóa khoa học kết hợp với các phương pháp nghiên cứu
định lượng và định tính gồm:
- Phương pháp lịch sử, phương pháp hệ thống, phương pháp thống kê nhằm
khôi phục hệ thống thông tin, dữ liệu tái cơ cấu trong nền kinh tế theo thời gian.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp nhằm phân tích làm rõ những nội dung
nghiên cứu của luận án. Tìm hiểu kinh nghiệm của một số quốc gia, kế thừa, tham
khảo các công trình nghiên cứu, số liệu điều tra, tổng kết thực tiễn của các cá nhân,
tổ chức về những nội dung có liên quan đến luận án.
- Các phương pháp chuyên gia, hội thảo, thảo luận nhóm, phương pháp đối
chiếu so sánh, phương pháp phỏng vấn... nhằm thu thập số liệu, thông tin từ các
chuyên gia trong các lĩnh vực kinh tế, những kinh nghiệm thực tiễn, tổng kết thực


6

tiễn, những trải nghiệm của các chuyên gia về vấn đề nghiên cứu. Qua đó luận án sẽ
thu được những thông tin, những yếu tố liên quan tới nội dung nghiên cứu.
5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án đã tổng hợp và đưa ra hai khái niệm cơ bản là cơ cấu nền kinh tế

và tái cơ cấu nền kinh tế.
- Luận án đã nêu được bốn vai trò cơ bản của nhà nước trong tái cơ cấu cùng
tiêu chí đánh giá, đồng thời chỉ ra sự cần thiết và những nhân tố cơ bản ảnh hưởng
đến vai trò của nhà nước trong tái cơ cấu nền kinh tế và một số bài học kinh nghiệm
cho Việt Nam.
- Luận án phân tích thực trạng vai trò nhà nước trong tái cơ cấu nền kinh tế
Việt Nam giai đoạn 2011 - 2017 với một số kết quả cơ bản đạt được, những hạn chế
còn tồn tại và nguyên nhân.
- Luận án đã đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò nhà nước
trong tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam những năm tiếp theo.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Luận án sẽ là một sản phẩm khoa học nhằm bổ sung những khoảng trống
trong việc nghiên cứu về vai trò của nhà nước trong tái cơ cấu nền kinh tế ở Việt
Nam hiện nay. Nội dung đạt được của luận án cũng sẽ góp phần bổ sung và làm rõ
thêm một số thông tin khoa học, cụ thể:
- Cơ sở lý luận về cơ cấu và tái cơ cấu nền kinh tế cũng như lý luận và thực
tiễn về vai trò của nhà nước trong tái cơ cấu nền kinh tế.
- Phương hướng, giải pháp phát huy vai trò của nhà nước trong tái cơ cấu
nền kinh tế ở Việt Nam giai đoạn hiện nay nhằm khắc phục khiếm khuyết, xây dựng
nền kinh tế Việt Nam hiện đại, hiệu quả.
Luận án hoàn thành sẽ là tài liệu tham khảo, cung cấp những phương hướng
và giải pháp hữu ích để nâng cao hiệu quả hoạt động tái cơ cấu nền kinh tế ở Việt
Nam. Luận án cũng có thể là tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm nghiên cứu
vấn đề tái cơ cấu nền kinh tế cũng như vai trò quản lý, điều hành của nhà nước đối
với nền kinh tế.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận án gồm 4 chương, 12 tiết.



7

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN VAI TRÒ
CỦA NHÀ NƯỚC TRONG TÁI CƠ CẤU NỀN KINH TẾ
Cơ cấu nền kinh tế chỉ được nhận diện và trở thành đối tượng trực tiếp trong
hoạt động quản lý kinh tế của nhà nước khi nó phát triển đủ để tạo thành tính chỉnh
thể của nền kinh tế. Đồng thời, năng lực quản lý, nhận thức của nhà nước về kinh tế
cũng đạt đến trình độ giới hạn nhất định. Trên thực tế, chỉ khi cơ cấu nền kinh tế
phát triển đến giới hạn nào đó, đạt được tính chỉnh thể cần thiết, nó mới biểu hiện rõ
nét tính cơ cấu và tạo ra những tác động mang tính đặc trưng của cơ cấu nền kinh tế
đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Lúc này, sự nhận biết về cơ cấu nền
kinh tế sẽ rõ ràng hơn, cần thiết hơn.
Từ đầu thế kỷ XX, những biến đổi kinh tế sâu sắc, đặc biệt là cuộc đại khủng
hoảng kinh tế 1929 - 1933 đã tạo ra điều kiện thực tiễn quan trọng để các nhà khoa
học nghiên cứu. Từ đó, cơ cấu nền kinh tế được nghiên cứu như một đối tượng
nghiên cứu độc lập trong đó, vai trò của nhà nước trong tái cơ cấu nền kinh tế cũng
được nghiên cứu và đề cập trực tiếp. Vai trò của nhà nước trong tái cơ cấu nền kinh
tế trở thành nội dung nghiên cứu trực tiếp cho những biến đổi kinh tế trên phạm vi
toàn cầu, phạm vi khu vực, trong toàn bộ nền kinh tế cũng như từng lĩnh vực, ngành
nghề kinh tế của mỗi quốc gia trong đó có Việt Nam. Dưới nhiều góc độ tiếp cận
khác nhau, có thể nêu một số công trình nghiên cứu liên quan sau:
1.1. CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI

1.1.1. Công trình nghiên cứu liên quan đến cơ cấu nền kinh tế và tái cơ
cấu nền kinh tế
Trong những năm gần đây, một số nghiên cứu về cơ cấu và tái cơ cấu kinh tế
có thể kể đến là Lester R. Brown (2001) đề cập đến công cụ tái cơ cấu nền kinh tế, Tổ
chức hợp tác kinh tế và phát triển OECD (2002) tái cơ cấu công nghiệp toàn cầu, Paul
Krugman (2008) đưa ra tổng hợp về tái cơ cấu nền kinh tế sau các cuộc khủng hoảng từ

trước đến nay, Andrew Figura và William Wascher (2008) đề cập đến dấu hiệu sớm từ
thế kỷ XXI về nguyên nhân và kết quả tái cơ cấu kinh tế, Báo cáo của Liên hiệp quốc
(2009) các đặc điểm cần cải tổ của hệ thống tài chính quốc tế, Viral V.Acharya và
Matthew Richardson (2009) cải cách hệ thống tài chính quốc tế, Robert Wade (2010)
đánh giá thay đổi chính sách công nghiệp của các quốc gia thu nhập thấp sau khủng
hoảng, Sonali Mehta-Rao và Senior Honors Thesis (2010) phân tích ngành nghề theo


8

chương trình tái cơ cấu kinh tế của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Michel Leonard (2010)
khẳng định lại tính cấp thiết của việc tái cơ cấu nền kinh tế thế giới thời kỳ sau khủng
hoảng. Bên cạnh đó còn nhiều công trình nghiên cứu về quá trình tái cơ cấu nền kinh tế
ở một hoặc một vài quốc gia như Mỹ, Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Nga,
Đức, Anh… Một số tác phẩm có nội dung liên quan gần đây gồm:
Bài báo "Fundamental economic structure and structural change in regional
economies: a methodological approach" (Cơ cấu nền kinh tế cơ bản và sự thay đổi
cơ cấu nền kinh tế vùng: cách tiếp cận mang tính phương pháp) của Sudhir K.
Thakur [141]. Nội dung hữu ích của bài báo này là tác giả đưa ra khái niệm về cơ
cấu kinh tế. Theo tác giả, "cơ cấu nền kinh tế được định nghĩa là kết cấu, cấu tạo
với các thành phần khác nhau hợp thành toàn thể nền kinh tế vĩ mô, thay đổi tương
đối về quy mô theo không gian, thời gian và mối quan hệ của nó với phát triển kinh
tế" [141, tr.10]. Đi vào nội dung cụ thể, tác giả đề cập đến cơ cấu nền kinh tế, biến
đổi cơ cấu và phát triển, phương pháp nghiên cứu sự thay đổi cơ cấu nền kinh tế. Cơ
cấu nền kinh tế cơ bản - một phương pháp tiến cận gồm: khái niệm, đặc điểm,
phương pháp đo lường, khả năng dự đoán, tầm quan trọng, tính ổn định. Tác giả đã
đưa ra một loạt phương trình toán học với các tham số để xây dựng mô hình kinh tế
lượng cho những lý luận của mình.
Bài báo "Globalization, structural change and productivity growth" (Toàn
cầu hóa, biến đổi cơ cấu và tăng trưởng sản xuất) của Margaret S. McMillan và

Dani Rodrik [137]. Trong bài báo, các tác giả đề cập đến ba vấn đề là toàn cầu hóa,
biến đổi cơ cấu nền kinh tế và tăng trưởng sản xuất cùng mối liên hệ giữa chúng.
Các tác giả cũng đưa ra mô hình biến đổi cơ cấu nền kinh tế và tăng trưởng sản
xuất, xác định những đóng góp của cơ cấu nền kinh tế, giải thích cho những mô
hình cơ cấu nền kinh tế theo góc nhìn của toàn cầu hóa và tăng trưởng sản xuất. Nói
về sự biến đổi cơ cấu nền kinh tế, các tác giả kết luận: cơ cấu nền kinh tế thay đổi
giống như sự phát triển tự thân của nền kinh tế song không phải là một quá trình tự
động. Nó cần phải có một cú hích thích hợp, trực tiếp. Toàn cầu hóa không có khả
năng biến đổi cơ cấu nền kinh tế nhưng nó có khẳng năng tạo ra các giá trị, lợi ích
thúc đẩy điều này" [137, tr.27].
Bài báo "Structural Change, Globalization and Economic Growth in China and
India" (Biến đổi cơ cấu, toàn cầu hóa và tăng trưởng kinh tế ở Trung Quốc và Ấn Độ)
của Vittorio Valli, Donatella Saccone [144, tr.133-163]. Trong thời kỳ tăng trưởng


9

kinh tế nhanh chóng, Trung Quốc và Ấn Độ đã trải qua những biến đổi cơ cấu nền
kinh tế sâu sắc. Nội dung của bài báo là phân tích mối quan hệ giữa biến đổi cơ cấu,
quá trình toàn cầu hoá và tăng trưởng kinh tế ở hai quốc gia Châu Á lớn nhất này.
Bài báo "Economic Restructuring and the Role of SMEs in Singapore" (Tái
cơ cấu nền kinh tế và vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Singapore) của
Faizal bin Yahya và Chang Zhi Yang [147]. Sự thành công trong cơ cấu nền kinh tế
hiện tại của Singapore phụ thuộc rất nhiều vào khả năng của các doanh nghiệp vừa
và nhỏ để tự đổi mới mình. Nhà nước công nhận điều này và đã đề ra các chương
trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mục đích của bài báo này là xem
xét vai trò dự kiến của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế được tái cơ
cấu của Singapore và đánh giá liệu các chính sách và quy trình hiện tại đang tạo
điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển đổi này có hiệu quả hay không. Tại phần
thứ ba của bài báo, hai tác giả nghiên cứu chi tiết hơn về tái cơ cấu nền kinh tế hiện

tại ở Singapore và vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ như thế nào. Hai tác giả
đánh giá hiệu quả của các chính sách và chương trình phát triển doanh nghiệp vừa
và nhỏ hiện nay. Bài viết kết thúc bằng các khuyến nghị chính sách và kết luận.
Cuốn The Heart of Economic Reform: China's Banking Reform and State
Enterprise (Trọng tâm của đổi mới kinh tế ở Trung Quốc: Tái cơ cấu doanh nghiệp
nhà nước và đổi mới hệ thống ngân hàng) của Donald D.Tong [127]. Xuất phát từ
tầm quan trọng của hệ thống doanh nghiệp và hệ thống ngân hàng trong quá trình
phát triển kinh tế Trung Quốc, tác giải đi sâu mô tả cơ cấu và phân tích các khía
cạnh của hệ thống ngân hàng và doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc. Trong tác
phẩm, tác giả làm rõ mối liên hệ mật thiết giữa hệ thống tài chính ngân hàng và hệ
thống doanh nghiệp, cũng như vai trò, tầm quan trọng của hai nhân tố này đối với
phát triển kinh tế. Qua đó chỉ ra và nhấn mạnh rằng "muốn tái cơ cấu thành công hệ
thống ngân hàng và hệ thống doanh nghiệp, nhà nước nhất quyết phải thực hiện
đồng thời và liên hệ chặt chẽ hai nhân tố này với nhau" [127, tr.7]. Đây là gợi ý
quan trọng nhằm tạo tính đồng bộ cho quá trình tái cơ cấu nền kinh tế ở Việt Nam.
Cuốn Eco-Economy: Building an Economy for the Earth (Kinh tế sinh thái:
xây dựng nền kinh tế cho trái đất) của Lester R. Brown [135]. Trong tác phẩm, tác
giả đề cập đến mối liên hệ giữa hệ sinh thái và kinh tế. Theo đó, các nhà sinh thái
học và các nhà kinh tế học có thể tính toán các chi phí sinh thái của các hoạt động
kinh tế khác nhau. Những chi phí này sau đó có thể được kết hợp vào giá thị trường


10

của một sản phẩm hay dịch vụ dưới hình thức thuế. Và để có một nền kinh tế sinh
thái bền vững, tác giả cho rằng cần phải tái cơ cấu nền kinh tế. Tại chương 11, tác
giả đề cập đến những công cụ cho tái cơ cấu nền kinh tế. Có một số công cụ chính
sách có thể được sử dụng để tái cơ cấu nền kinh tế bao gồm: chính sách tài khóa,
quy định của nhà nước, ghi nhãn sinh thái, giấy phép có thể mua bán.
Bài báo "The causes and consequences of economic restructuring: evidence

from the early 21st century" (Nguyên nhân và hệ quả của tái cơ cấu nền kinh tế:
Bằng chứng từ đầu thế kỷ 21) của Andrew Figura và William Wascher [124]. Đây
là tác phẩm nghiên cứu về tái cơ cấu thông qua các mô hình kinh tế lượng rất cụ thể,
chi tiết với các hàm số, biến số kinh tế. Trong bài báo, các tác giả đề cập đến các
nội dung cụ thể gồm: xác định các lĩnh vực tái cơ cấu [124, tr.4], nguyên nhân tái cơ
cấu và dấu hiệu của nó [124, tr.9], tái cơ cấu xảy ra như thế nào [124, tr.12], tác
động kinh tế của tái cơ cấu [124, tr.16], chi phí kinh tế của tái cơ cấu [124, tr.25].
Hai tham số kinh tế chủ yếu được các tác giả đề cập và phân tích trong tái cơ cấu là
vốn và lao động. Bài báo kết luận:
Về nguyên tắc, tái cơ cấu nền kinh tế có thể xảy ra để đáp ứng với một
trong hai nhân tố là cung hoặc cầu những cú sốc. Đối với hầu hết các
ngành công nghiệp, các mô hình của mối tương quan giữa giá cả, giá trị
bổ sung, tiền lương và năng suất là phù hợp hơn với những cú sốc nhu
cầu tương đối và là nguyên nhân chủ yếu. Đặc biệt, trong ngành công
nghiệp điển hình, cú sốc nhu cầu tương đối dẫn đến một sự suy giảm về
nhu cầu lao động và tăng năng suất, cho thấy rằng các ảnh hưởng của cú
sốc đã được tập trung ở phân khúc kém hiệu quả của ngành công nghiệp.
Tuy nhiên, trong một vài ngành công nghiệp, những cú sốc công nghệ
(có lẽ thiên vị chống lại lao động) xuất hiện là nguồn gốc của tái cơ cấu
kinh tế [124, tr.29-30].
Liên quan đến hậu quả của việc tái cơ cấu, các tác giả cho rằng chi phí kinh tế
là đáng kể. Các ngành công nghiệp tái cơ cấu bị suy giảm công việc và sa thải vĩnh
viễn lớn hơn các ngành khác, dẫn đến một sự mất mát đáng kể vốn (Nhân lực, vật
lực, hoặc tổ chức) dành riêng cho những ngành công nghiệp. Và trong khi nền kinh tế
xuất hiện để phản ứng tương đối hiệu quả trong việc di chuyển các nguồn lực không
cần thiết ra khỏi cơ cấu các ngành công nghiệp, phải mất một số lượng đáng kể thời
gian cho các nguồn lực. Kết quả là, các chi phí tái cơ cấu sẽ lớn, đặc biệt là chi phí


11


cho nền kinh tế tổng hợp, trong điều kiện vốn cụ thể bị mất và thời gian cần thiết để
chuyển các nguồn lực từ chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp sang các ngành khác.
Đây là bài báo phân tích tính kỹ thuật rất sâu của quá trình tái cơ cấu với các mô hình
kinh tế lượng nhằm làm rõ hiệu quả, chi phí của quá trình tái cơ cấu nền kinh tế.
Bài báo "Structural Transformation in China and India: The Role of
Macroeconomic Policies" (Biến đổi cơ cấu kinh tế ở Trung Quốc và Ấn Độ: Vai trò
của chính sách kinh tế vĩ mô) của Codrina Rada và Rudiger von Arnim [125].
Trong bài báo, hai tác giả thảo luận về lý do tại sao tăng trưởng kinh tế và cải thiện
hiệu quả là cần thiết nhưng không đủ điều kiện cho phát triển kinh tế dài hạn. Hai
tác giả đã tìm hiểu các chính sách kinh tế vĩ mô có thể duy trì sự thay đổi cơ cấu
nền kinh tế ở Trung Quốc và Ấn Độ, xem xét những thay đổi trong đầu tư, tiền
lương, xu hướng năng suất lao động, sự mất giá của tiền tệ ảnh hưởng đến kinh tế vĩ
mô và tạo việc làm trong khu vực chính thức… Các tác giả đã sử dụng các mô hình
kinh tế lượng, đưa ra mô hình tăng trưởng trong ngắn hạn để minh chứng cho chính
sách kinh tế vĩ mô của Trung Quốc và Ấn Độ trong việc duy trì sự biến đổi cơ cấu
nền kinh tế trong đó nhấn mạnh các tham số lao động, năng suất lao động.
Cuốn Restructuring in Europe 2011 (Tái cơ cấu kinh tế châu Âu, năm 2011)
của Hội đồng châu Âu [129]. Cuốn sách đưa ra quan điểm rằng tái cơ cấu kinh tế là
sự cần thiết và thường xuyên của quá trình sản xuất, kinh doanh. Nó là quá trình cần
thiết để tạo ra áp lực cho các tổ chức duy trì sự thay đổi và cạnh tranh trong thị trường
toàn cầu. Tại chương 1, tác phẩm đề cập đến nội dung gồm Liên minh châu Âu đối
phó với khủng hoảng với các nội dung như mức độ tái cơ cấu trong Liên minh châu
Âu [103, tr.18], hỗ trợ thị trường lao động và tiếp cận thị trường tài chính trong
khủng hoảng [103, tr.43], vai trò của chính sách công nghiệp trong tái cơ cấu [103,
tr.48]. Chương 3, tác phẩm đề cập đến vai trò của Liên minh châu Âu trong việc hỗ
trợ tái cơ cấu kinh tế như vai trò hỗ trợ của nhà nước, của các quỹ xã hội cũng như sự
tác động của tái cơ cấu đến các vùng ở châu Âu [103, tr.99], việc phát triển các năng
lực trong khắc phục các hệ quả của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế.
Chương 5 đề cập đến những hoạt động hỗ trợ tái cơ cấu kinh tế của nhà nước [103,

tr.150] và mười bài học trong thực hiện và quản lý hoạt động tái cơ cấu [103, tr.230].
1.1.2. Công trình nghiên cứu liên quan đến vai trò của nhà nước trong
tái cơ cấu nền kinh tế
Bàn về vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế, có rất nhiều tác phẩm kinh


12

điển của các nhà tư tưởng vĩ đại như Platon (427-347 TCN), Aristoteles (384-322
TCN), Francois Quesnay (1694-1774), Anne Robert Jaucques Turgot (1727-1781),
Wiliam Petty (1623-1687), Adam Smith (1723-1790), David Ricardo, C.Mác
(1818-1883), Ph.Ăng-ghen (1820-1895), Lênin (1870-1924), và nhiều nhà kinh tế
học nổi tiếng như John Maynard Keynes (1883-1946), Paul Anthony
Samuelson (1915-2009)… đề cập đến với những nội dung rất cơ bản, còn hiện hữu,
hữu ích đến ngày nay và nhiều năm sau nữa. Trong các tác phẩm của các tác giả
này, mặc dù không trực tiếp đề cập đến nội hàm tái cơ cấu nền kinh tế do điều kiện
nhận thức và thực tiễn ở mỗi thời kỳ lịch sử là khác nhau, song nhiều tác phẩm có
nội dung mà trong điều kiện nhận thức ngày nay, có thể nói, chúng như là đang đề
cập đến hoạt động tái cơ cấu nền kinh tế và vai trò của nhà nước trong tái cơ cấu
nền kinh tế ở những phương diện, lĩnh vực khác nhau.
Mặc dù có nhiều tác phẩm, tác giả nghiên cứu, đề cập ở nhiều khía cạnh
nhưng tổng kết chung của tất cả các công trình nghiên cứu đó đến giai đoạn hiện
nay, chỉ có hai tư tưởng lớn bao trùm và có sức ảnh hưởng sâu sắc, thể hiện vai trò
của nhà nước đối với nền kinh tế nói chung, vai trò của nhà nước trong tái cơ cấu
nền kinh tế nói riêng. Theo dòng thời gian, tư tưởng tiêu biểu đầu tiên là lý thuyết
"Bàn tay vô hình" của nhà kinh tế học Adam Smith: thị trường là phương thức hữu
hiệu nhất của xã hội loài người trong điều tiết các hoạt động kinh tế. Do đó, thị
trường nên chiếm vị trí trung tâm và nhà nước chỉ nên đóng một vai trò tối thiểu
trong nền kinh tế. Theo A.Smith, nhà nước chỉ cần thực hiện 3 chức năng cơ bản:
bảo đảm môi trường hoà bình, không để xảy ra nội chiến, ngoại xâm; tạo ra môi

trường thể chế cho phát triển kinh tế thông qua hệ thống pháp luật; cung cấp hàng
hoá công cộng. Ngoài ba chức năng cơ bản đó, tất cả các vấn đề còn lại đều có thể
được giải quyết một cách ổn thoả, nhịp nhàng bởi "Bàn tay vô hình". Tư tưởng về
"Bàn tay vô hình" đã thống trị trong các học thuyết kinh tế phương Tây đến đầu thế
kỷ XX trong các trào lưu của học thuyết Tân cổ điển.
Năm 1929 - 1933, thế giới diễn ra đại suy thoái kinh tế, học thuyết kinh tế
của Jonh Maynard Keynes ra đời đặt nền móng vững chắc và nền tảng lý luận cơ bản
cho vai trò "can thiệp" của nhà nước vào nền kinh tế. John Maynard Keynes (1884 1946), nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh với tác phẩm "Lý thuyết chung về việc làm,
lãi suất và tiền tệ" xuất bản tháng 3 năm 1936. Keynes là đại diện tiêu biểu cho tư
tưởng tăng cường vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế. Trong tác phẩm "Lý thuyết


13

chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ" Keynes cho rằng, cần phải tổ chức lại toàn bộ hệ
thống kinh tế tư bản chủ nghĩa theo nguyên tắc lý thuyết mới. Chính ông đã làm một
cuộc cách mạng về lý thuyết kinh tế trong đó nhấn mạnh vai trò của "Bàn tay hữu
hình" điều tiết nền kinh tế - vai trò của nhà nước. Từ những nguyên lý gốc của Keynes,
giữa thế kỷ XX trở đi đã xuất hiện trường phái Keynes và khuynh hướng "Hậu
Keynes". Mô hình này không những khắc phục được cuộc đại khủng hoảng kinh tế mà
còn tạo ra nhiều nền kinh tế mới, phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan…
Đến cuối thế kỷ XX, vấn đề tái cơ cấu nền kinh tế thường được đề cập đến
trong mối liên hệ với các mô hình tăng trưởng, phát triển kinh tế với các nhà nghiên
cứu nổi bật như mô hình Ramsey (1928) về tối ưu hóa việc tiêu dùng trong hộ gia
đình, Harrod (1939) và Domar (1948) đã kết hợp lý thuyết của Keynes và lượng hóa
mối quan hệ giữa tăng trưởng và vốn, Solow (1956) và Swan (1956) chỉ ra yếu tố lao
động và công nghệ trong tăng trưởng, Rostow (1960) nêu ra lý thuyết phát triển của
nền kinh tế từ thấp đến cao, Romer (1986) và Lucas (1988) với lý thuyết về tăng
trưởng nội sinh. Về nghiên cứu thực tiễn, các công trình cũng xoay quanh nội dung
chính là tăng trưởng, phát triển với nghiên cứu của Holli B.Chenery (1981) và Joyce

Kolko (1988) về vấn đề sự cần thiết của tái cơ cấu kinh tế trong bối cảnh giá năng
lượng tăng cao, Peacock (1989), Berg (2004), Yu (1997), World bank (1993) với nội
dung giải quyết tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, David J.Carrier (1997) nói
về tái cấu trúc ngành công nghiệp, Marcus Powell (2003) tái cấu trúc kinh tế gắn với
nguồn lực con người. Một số tác phẩm thời gian gần đây có nội dung liên quan gồm:
Cuốn The Politics of Economic Restructuring in India: Economic Governance
and state spatial rescaling (Quan điểm tái cơ cấu kinh tế ở Ấn Độ: Hoạt động của
nền kinh tế và phạm vi tác động của nhà nước) của Loraine Kennedy [136]. Trong tác
phẩm, tác giả đề cập đến quan điểm của Ấn Độ trong tái cơ cấu nền kinh tế với nội
dung là hoạt động của nền kinh tế và phạm vi tác động của nhà nước. Từ khi cải cách,
kinh tế Ấn Độ liên tục tăng trưởng mạnh mẽ đi liền với việc mở rộng cơ cấu nền kinh
tế. Cơ cấu nền kinh tế Ấn Độ mở rộng cả về không gian kinh tế và các nhân tố kinh
tế. Tác giả khẳng định, sự phát triển cơ cấu này đến từ các nguồn lực của thị trường,
song không thể thiếu sự tác động của nhà nước. Ba nội dung chính mà tác phẩm
nghiên cứu là: cách thức, phạm vi, mức độ tác động của nhà nước; chính sách kinh tế
được tạo ra từ sự phân chia quốc gia; sự ảnh hưởng, sự tác động, tương tác lẫn nhau
giữa tác động của nhà nước với hoạt động của thị trường.


14

Cuốn The Korean Developmental state (Hàn Quốc - Nhà nước phát triển)
của Iain Pirie [134]. Cuốn sách có nội dung bao hàm toàn bộ quá trình Nhà nước
Hàn Quốc tái cơ cấu kinh tế kể từ khủng hoảng tài chính 1997. Tác phẩm này có sự
khác biệt với những nghiên cứu trước bởi sự nhất quán trong diễn đạt sự thay đổi cơ
cấu trong chính sách kinh tế toàn cầu và thể hiện được vai trò quyết định của Nhà
nước Hàn Quốc trong các chương trình kinh tế của mình. Nội dung cuốn sách đề cập
đến cạnh tranh toàn cầu - sự lựa chọn của chủ nghĩa tự do mới, sự tan rã của nhà nước
phát triển và thất bại của nền kinh tế tự do tại Hàn Quốc, xây dựng thể chế cho thị
trường, phối hợp tái cơ cấu nền tài chính - trụ cốt chính trong khủng hoảng, tác động xã

hội của khủng hoàng và tái cơ cấu chủ nghĩa tự do mới. Tác phẩm đưa ra những viễn
cảnh mới trong kinh nghiệm phát triển kinh tế, tái cơ cấu, khắc phục khủng hoảng của
Nhà nước Hàn Quốc, nhấn mạnh tầm quan trong của nó trong xu thế toàn cầu.
Cuốn Globalization, economic development and the role of the state (Toàn
cầu hóa, phát triển kinh tế và vai trò của nhà nước) của Ha-Joon Chang [131]. Cuốn
sách có 3 phần, 9 chương trong đó có phần 1 là phần lý luận với 3 chương. Chương
1 tác giả đề cập đến những lý luận về sự can thiệp của nhà nước trong lịch sử. Đặc
biệt tại chương 2, tác giả đề cập đến vai trò của nhà nước trong việc tạo lập và thay
đổi cơ cấu nền kinh tế. Theo tác giả:
Dù nền kinh tế thịnh vượng hay khủng hoảng thì vai trò của nhà nước
đều có ảnh hưởng mạnh mẽ. Việc nhà nước can thiệp vào nền kinh tế là
cần thiết bởi sự bất lực của thị trường. Khi bộ máy thị trường thất bại
trong việc tạo ra các điều kiện tối ưu cho sản xuất kinh doanh, thì nhà
nước, với những hiểu biết, quyền lực và trách nhiệm bảo vệ xã hội, được
chờ đợi sẽ thay thế để khắc phục những khiếm khuyết của thị trường
bằng các biện pháp như thuế, quản lý quyền kinh doanh, quản lý giá
cả…Trong cả ba bối cảnh là nền kinh tế phát triển, nền kinh tế khủng
hoảng và tạo lập mới cho nền kinh tế, nhà nước cần thể hiện hai vai trò
chính trong quá trình thay đổi cơ cấu nền kinh tế, đó là vai trò nhận thức
và quản lý [131, tr.46].
Trong vai trò nhận thức, nhà nước là người trung gian nhằm cung cấp tầm
nhìn tương lai cho nền kinh tế với những dự báo, kế hoạch để kiến thiết, xây dựng
nền kinh tế. Với vai trò quản lý, nhà nước phải kiểm soát những sung đột nảy sinh


15

trong quá trình thay đổi cơ cấu nền kinh tế, đồng thời cung cấp và thực hiện những
giải pháp tái cơ cấu nền kinh tế nhằm ổn định kinh tế, ổn định xã hội.
Cuốn Restructuring the French Economy: Government and the Rise of

Market competition since world war II (Tái cơ cấu nền kinh tế Pháp: Nhà nước và sự
phát triển thị trường cạnh tranh từ sau chiến tranh thế giới lần thứ II) của Williams
James Adams [142]. Trong tác phẩm, tác giả đề cập đến mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và sự biến đổi cơ cấu kinh tế. Tác giả đề cập đến giải thích của Simon Kuznet
về sự đồng hành và phối hợp của tăng trưởng và biến đổi cơ cấu nền kinh tế:
Tăng trưởng kinh tề phụ thuộc vào quá trình công nghệ. Quá trình công
nghệ lại đòi hỏi cơ cấu nền kinh tế phải biến đổi. Những trở ngại trong thay
đổi cơ cấu nền kinh tế sẽ cản trở tăng trưởng kinh tế. Cơ cấu nền kinh tế
thay đổi không phải do những giới hạn của tăng trưởng kinh tế. Nó thay đổi
do thị hiếu của khách hàng, do công nghệ sản xuất, do những điều kiện cạnh
tranh quốc gia mà không phụ thuộc vào tỷ lệ tăng trưởng [142, tr.1].
Chương 2 của tác phẩm, tác giả đề cập đến phạm vi thay đổi cơ cấu nền kinh
tế Pháp. Ngay sau chiến tranh thế giới lần thứ II, ngay lập tức Chính phủ Pháp đã có
những chính sách nhằm thúc đẩy sự thay đổi cơ cấu nền kinh tế. Tác giả khẳng định
"với những dấu tích để lại, không còn nghi ngờ gì nữa, cơ cấu nền kinh tế Pháp đã
thay đổi trong bốn thập kỷ qua và toàn bộ những thay đổi này hoàn toàn theo đúng
những dự báo của Kuznet" [142, tr.17]. Chương 3 tác giả khảo sát những tính toán
của Chính phủ Pháp trong nỗ lực tái cơ cấu nền kinh tế trong đó miêu tả các nguyên
lý và công cụ can thiệp của nhà nước. Cuối cùng tác giả nhấn mạnh tác động của
chính sách nhà nước tới thái độ của doanh nghiệp và hiệu quả thị trường.
Bài báo "Corporate Sector Restructuring: The Role of Government in Times
of Crisis" (Tái cơ cấu toàn thể doanh nghiệp: Vai trò của Chính phủ trong thời gian
khủng hoảng) của Mark R. Stone [138]. Theo tác giả, việc tái cơ cấu doanh nghiệp
quy mô lớn là cần thiết do cuộc khủng hoảng tài chính là một trong những thách thức
lớn nhất mà các nhà hoạch định chính sách phải đối mặt. Đề cập đến vai trò của nhà
nước, tác giả khẳng định, tái cơ cấu không thể thành công nếu không có một nền tảng
vững chắc được thiết lập bởi hành động của nhà nước thông qua các chính sách kinh
tế. Nhà nước buộc phải có vai trò dẫn đầu, trực tiếp vì nhu cầu ưu tiên các mục tiêu
chính sách, giải quyết các thất bại của thị trường, cải cách các hệ thống pháp luật và
thuế, và đối phó với sự phản kháng của các nhóm lợi ích. Mục tiêu của việc tái cơ cấu



16

doanh nghiệp có quy mô lớn là điều cơ bản để tái cơ cấu các tập đoàn kinh tế khả thi
và thanh lý các khoản nợ, khôi phục sức khoẻ của khu vực tài chính, tạo điều kiện
cho tăng trưởng kinh tế dài hạn. Các chính sách tái cơ cấu doanh nghiệp cần thực
hiện theo trình tự. Thứ nhất là xây dựng chính sách kinh tế vĩ mô và pháp luật làm
nền tảng cho việc tái cơ cấu thành công. Sau đó, cơ cấu lại tài chính phải bắt đầu thiết
lập các ưu đãi phù hợp để các ngân hàng có thể có vai trò trong việc cơ cấu lại và
nhận tín dụng lại. Chỉ sau đó, việc tái cấu trúc doanh nghiệp mới bắt đầu một cách
nghiêm túc với sự tách biệt khỏi các tập đoàn kinh tế phi vật thể - tái cấu trúc nền
kinh tế cũ và thanh lý nó. Các công cụ tái cơ cấu doanh nghiệp do chính phủ lãnh đạo
chính là trung gian, kế hoạch khích lệ, tăng vốn của ngân hàng, các công ty quản lý
tài sản, và chỉ định các giám đốc để lãnh đạo cơ cấu lại. Sau khi đạt được mục tiêu,
nhà nước phải cắt giảm sự can thiệp của mình để doanh nghiệp hoạt động theo bản
chất kinh tế. Trong nghiên cứu của mình, tác giả đã đưa ra nhiều nội dung hữu ích đối
với việc tái cơ cấu doanh nghiệp như nhiệm vụ tái cơ cấu, lựa chọn nội dung mà nhà
nước cần tham gia tái cơ cấu, cách thức giảm vai trò của nhà nước khi thực hiện xong
tái cơ cấu và một số ví dụ cụ thể ở các nước Mexico, Chile, Hungary.
1.2. CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC

1.2.1. Công trình nghiên cứu liên quan đến cơ cấu nền kinh tế và tái cơ
cấu nền kinh tế
Các công trình nghiên cứu liên quan đến cơ cấu và tái cơ cấu nền kinh tế rất
nhiều và phong phú về thể loại. Đó có thể là sách, bài báo khoa học, Luận án Tiến
sĩ, giáo trình và những công trình mang tính lý luận và thực tiễn khác trong đó các
công trình nghiên cứu, phân tích thực tiễn chiếm số lượng lớn. Những công trình
nghiên cứu tiêu biểu có liên quan có thể kể đến là:
Cuốn Giáo trình kinh tế học phát triển của tập thể tác giả [84] do nhà xuất

bản Chính trị - Hành chính phát hành. Trong cuốn giáo trình này, các tác giả đã đưa
ra khái niệm về cơ cấu nền kinh tế với tính chất và các nhân tố ảnh hưởng, phân biệt
tái cơ cấu nền kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đưa ra tiêu chí về cơ cấu kinh
tế hợp lý. Cuốn Giáo trình cũng đề cập đến nội dung về cơ cấu nền kinh tế Việt
Nam tiếp cận theo quy mô, trình độ kỹ thuật công nghệ, cơ cấu theo ngành, lĩnh vực
kinh tế, vùng kinh tế, thành phần kinh tế.
Cuốn Tái cấu trúc kinh tế theo mô hình tăng trưởng xanh - kinh nghiệp quốc
tế và gợi ý cho Việt Nam của tập thể tác giả [83]. Cuốn sách biên tập 18 bài tham


17

luận tham dự hội thảo với các nội dung chính là tái cấu trúc nền kinh tế sau khủng
hoảng tài chính toàn cầu, khuôn khổ lý thuyết và kinh nghiệm quốc tế về kinh tế
xanh, hướng tới nền kinh tế - lựa chọn chính sách cho Việt Nam.
Cuốn Tập đoàn kinh tế trong việc thúc đẩy tái cơ cấu nền kinh tế của Nguyễn
Hữu Đạt và Ngô Tuấn Nghĩa [21] đã khái quát một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế. Quá trình hình thành và hoạt động của
một số tập đoàn kinh tế ở Việt Nam. Quan điểm, phương hướng, giải pháp phát huy
vai trò của các tập đoàn kinh tế trong thúc đẩy tái cơ cấu nền kinh tế.
Báo cáo tổng quan Đề tài khoa học cấp bộ Tái cấu trúc kinh tế thế giới trong
thời kỳ hậu khủng hoảng kinh tế toàn cầu của Nguyễn Mạnh Hùng [36] đưa ra phần
lý thuyết với các nội dung về tái cơ cấu nền kinh tế. Trong đề tài, tác giả thống nhất
cụm từ "tái cơ cấu" và "tái cấu trúc" có ý nghĩa như nhau. Tác giả đưa ra một số
định nghĩa về cơ cấu nền kinh tế, tái cơ cấu nền kinh tế của các tổ chức, trích dẫn
khái niệm ở một số tài liệu nghiên cứu khác nhau hoặc quan niệm của một số nhà
nghiên cứu nước ngoài. Đề tài cũng đã tổng hợp lịch sử tái cơ cấu nền kinh tế thế
giới, và tái cơ cấu nền kinh tế ở một số quốc gia nhìn từ các góc độ.
Cuốn Giám sát và đánh giá quá trình thực hiện Đề án tái cơ cấu tổng thể
nền kinh tế của Nguyễn Đình Cung và Nguyễn Tú Anh [9] đưa ra nội dung mang

tính tổng quan về tái cơ cấu. Đó là khái niệm và nội hàm của tái cơ cấu nền kinh tế,
mục tiêu tổng quát, định hướng và điều kiện tiền đề của tái cơ cấu nền kinh tế,
nguyên tắc chỉ đạo và những định hướng, giải pháp tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam.
Cuốn Những vấn đề chủ yếu về kinh tế phát triển của Ngô Doãn Vịnh [123]
đề cập đến nhiều nội dung mang tính lý luận về kinh tế phát triển. Đó là các vấn đề
lý luận về nền kinh tế quốc dân, lý thuyết về phát triển, tăng trưởng kinh tế, phát
triển bền vững, đầu tư phát triển và cơ cấu kinh tế. Về cơ cấu nền kinh tế, tác giả đã
đưa ra những vấn đề mang tính lý thuyết tổng quan như khái niệm và bản chất cơ
cấu nền kinh tế, các nhân tố ảnh hưởng tới sự hình thành cơ cấu nền kinh tế, tiêu chí
phân tích, nội dung đánh giá, phân loại cơ cấu nền kinh tế. Theo tác giả, "nền kinh
tế quốc dân là một hệ thống. Khi đã là một hệ thống thì nhất quyết sẽ có tính cơ
cấu. Cơ cấu của nền kinh tế biểu thị nội dung, cách thức liên kết, phối hợp giữa các
phần tử cấu thành nên hệ thống kinh tế" [123, tr.96]. Hai phạm trù nền kinh tế và cơ
cấu nền kinh tế luôn gắn liền với nhau.


18

Một số công trình có cách tiếp cận vấn đề tái cơ cấu nền kinh tế theo hai
hướng là tổng thể và cụ thể gồm: Quyết định số 339/QĐ-TTg ngày 19-02-2013 của
Chính phủ phê duyệt Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình
tăng trưởng theo hướng nâng cao hiệu quả, năng suất và năng lực cạnh tranh giai
đoạn 2013 - 2020; Các quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt: Đề án cơ
cấu lại hệ thống tín dụng giai đoạn 2011-2015; Đề án tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà
nước mà trọng tâm là các tập đoàn, các Tổng công ty Nhà nước giai đoạn 20112015; Kế hoạch đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016 - 2020 của Chính
phủ; Cuốn Tái cơ cấu kinh tế để phục hồi tốc độ tăng trưởng của Bùi Tất Thắng,
Trần Hồng Quang, Lưu Đức Hải [90], bài báo "Tái cơ cấu kinh tế: góc nhìn từ
khung phân tích những nền tảng tăng trưởng" của Tô Trung Thành [87, tr.21-30],
cuốn Đối diện thách thức tái cơ cấu kinh tế của Nguyễn Đức Thành [88], cuốn Kinh
tế Việt Nam năm 2012: Ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tái cơ cấu kinh tế của

Nguyễn Kế Tuấn [113], cuốn Giám sát và đánh giá quá trình thực hiện Đề án tái cơ
cấu tổng thể nền kinh tế của Nguyễn Đình Cung, Nguyễn Tú Anh [9]. Theo hướng
nghiên cứu tổng thể, các nhà nghiên cứu tập trung chỉ ra tính cấp thiết phải tái cơ
cấu nền kinh tế, chỉ ra những khiếm khuyết của nền kinh tế vĩ mô Việt Nam, của
quá trình điều hành nền kinh tế của nhà nước kèm theo những dẫn chứng như vấn
đề thị trường tài chính, thị trường bất động sản, nợ xấu, tồn kho hàng hóa, về đầu tư
công, về hệ thống doanh nghiệp nhà nước… Đồng thời nêu ra và thảo luận làm rõ
những nội hàm mang tính lý luận của vấn đề tái cơ cấu như tái cơ cấu là gì, xu
hướng và phương pháp tái cơ cấu, những tiền đề và mục tiêu tái cơ cấu… Các
nghiên cứu đều đi sâu phân tích khiếm khuyết của nền kinh tế Việt Nam hiện nay,
chỉ ra nguyên nhân chủ quan, khách quan, nguyên nhân dài hạn và ngắn hạn. Về nội
dung này, nhiều nghiên cứu đã thể hiện sự thống nhất trong nhận định nguyên nhân
chủ yếu dẫn đến bất ổn hiện nay của nền kinh tế vĩ mô là do các vấn đề thuộc về cơ
cấu nền kinh tế và mô hình tăng trưởng.
Tiếp cận theo hướng nghiên cụ thể là những nội dung của từng ngành, từng
lĩnh vực, từng phạm vi và đối tượng cần tái cơ cấu. Các nhà khoa học, nhà quản lý
cũng chỉ ra những bất cập, những hạn chế của từng ngành, từng lĩnh vực kinh tế,
những ảnh hưởng của chúng tới nền kinh tế chung của đất nước. Tổng hợp các
nghiên cứu theo nội dung cụ thể của từng ngành, từng lĩnh vực, từng phạm vi và đối
tượng, có ba nhóm đối tượng tái cơ cấu được đề cập nhiều nhất, đó là: tái cơ cấu


19

doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là các tập đoàn, các tổng công ty nhà nước; tái
cơ cấu thị trường tài chính mà trọng tâm là hệ thống ngân hàng thương mại và tổ
chức tài chính; tái cơ cấu đầu tư mà trọng tâm là đầu tư công.
Thông qua việc phân tích thực trạng chung của nền kinh tế cũng như từng
vấn đề cụ thể, các nhà nghiên cứu đều đưa ra nhận định chắc chắn phải tái cơ cấu
nền kinh tế như một giải pháp sống còn mà Đảng, Nhà nước Việt Nam phải thực

hiện trong quá trình điều hành nền kinh tế trong thời gian tới nhằm ổn định kinh tế
vĩ mô và phát triển kinh tế bền vững. Các tác giả cũng đưa ra phương hướng, giải
pháp khắc phục khủng hoảng, thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế với những mục tiêu,
yêu cầu cụ thể. Mục tiêu chung của việc tái cơ cấu nền kinh tế mà các công trình
đưa ra là thay đổi thể chế, cơ chế, công cụ phân bố, quản lý và sử dụng nguồn lực
quốc gia theo mô hình tăng trưởng mới với cơ cấu kinh tế hợp lý hơn, hiệu quả hơn,
nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo đảm phát triển bền vững và phù hợp với xu
hướng toàn cầu hóa.
1.2.2. Công trình nghiên cứu liên quan đến vai trò của nhà nước trong
tái cơ cấu nền kinh tế
Mặc dù không được đề cập đến như một đối tượng nghiên cứu độc lập nhưng
vai trò của nhà nước trong tái cơ cấu kinh tế luôn được các tác giả đề cập với mức
độ, phạm vi và những khía cạnh khác nhau. Cùng chung nội dung đề cập đến vai trò
của nhà nước trong phát triển kinh tế nói chung, trong tái cơ cấu kinh tế nói riêng có
cuốn Mỹ điều chỉnh chính sách kinh tế của Nguyễn Thiết Sơn [79], cuốn Điều chỉnh
cơ cấu kinh tế ở Hàn Quốc, Malaysia và Thái Lan của Hoàng Thị Thanh Nhàn [57],
cuốn Nhật Bản trên con đường cải cách của Dương Phú Hiệp và Phạm Hồng Thái
[31], Luận án Tiến sĩ Kinh tế Vai trò của nhà nước đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam của Vũ Hải Nam [53], Luận án Tiến sĩ Triết học Vai trò của nhà nước trong chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay của Hoàng Thị Kim
Oanh [58], Luận án Tiến sĩ Kinh tế Vai trò nhà nước trong việc hạn chế các khuyết
tật của cơ chế thị trường ở Việt Nam của Phạm Văn Linh [43], cuốn Vai trò của nhà
nước trong phát triển kinh tế: Kinh nghiệm Pháp của Chu Đức Dũng [11], cuốn Vai
trò của nhà nước đối với hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam của Mai Lan Hương
[35]. Một số công trình nghiên cứu có nội dung rất cụ thể và hữu ích như:
Cuốn sách Chủ nghĩa tư bản hiện đại: Khủng hoảng kinh tế và điều chỉnh
của Lê Bộ Lĩnh [44] đề cập đến những khủng hoảng mang tính cơ cấu của chủ


20


nghĩa tư bản và những hình thái biểu hiện của nó, phân tích một số cuộc khủng
hoảng tiêu biểu cùng những tác động của nó tới sự phát triển của chủ nghĩa tư bản,
giải pháp khắc phục khủng hoảng và ý nghĩa của nó đối với Việt Nam. Theo tác giả,
"trong lịch sử kinh tế học, cho đến nay hầu như đã không có nền kinh tế nào kể cả
kinh tế kế hoạch không bị khủng hoảng" [44, tr.665]. Khủng hoảng kinh tế là hiện
tượng đồng hành trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, thậm chí ở ngay
những nước tư bản phát triển nhất như Mỹ, Nhật Bản, châu Âu. "Nhưng chính trong
khủng hoảng, vai trò tái cơ cấu kinh tế của nhà nước mới được phát huy. Có thể nói
rằng không có sức ép của các cuộc khủng hoảng kinh tế, các chính phủ của các
quốc gia khó có thể đã thực hiện những cải cách" [44, tr.656]. Tác giả cũng đưa ra
các nhân tố có thể dẫn tới khủng hoảng kinh tế ở Việt Nam như cơ chế phân bổ
nguồn lực, khu vực doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, vấn đề tham nhũng đã là
một nguy cơ thực sự. Cuối cùng, tác giả đưa ra những bài học kinh nghiệm đối với
Việt Nam trong việc phòng ngừa khủng hoảng kinh tế.
Cuốn sách Cấu trúc lại nền kinh tế Mỹ từ thập kỷ 70 của thế kỷ trước đến
nay của Vũ Đăng Hinh [29] đề cập đến những hoạt động tái cơ cấu nền kinh tế Mỹ
từ thập kỷ 70 của thế kỷ trước đến nay. Theo tác giả, "cơ cấu kinh tế của một nền
kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào nhu cầu của thị trường đó" [29, tr.17] và "cấu trúc lại
nền kinh tế là hoạt động mang tính quy luật để duy trì tốc độ phát triển và đáp ứng
nhu cầu xã hội trong từng giai đoạn" [29, tr.369]. Tác giả đưa ra nguyên nhân cần tái
cơ cấu nền kinh tế. Đó là khi một bộ phận sản xuất nào đó không hiệu quả, hoặc để
khai thác lợi thế cạnh tranh khi tham gia vào phân công lao động thế giới. Vì nhiều lý
do, hoạt động tái cơ cấu đã và đang diễn ra ở Mỹ và nhiều nơi trong thế giới hiện đại.
Từ đó tác giả đi sâu phân tích, miêu tả quá trình tái cơ cấu nền kinh tế Mỹ qua các đời
Tổng thống từ thập kỷ 70 của thế kỷ trước đến nay. Xuyên suốt các hoạt động tái cơ
cấu đó, vai trò của Nhà nước Mỹ mà cụ thể là của các Tổng thống Mỹ được thể hiện
rõ nét qua các quyết định chính sách. Nhà nước Mỹ thông qua các công cụ quyền lực
chính trị, công cụ quản lý kinh tế để thực hiện tái cơ cấu. Từ đó các cơ quan nhà nước
trực tiếp tham gia tái cơ cấu với những kịch bản điều hành cụ thể, đặc biệt là hoạt

động của Cục dự trữ quốc gia liên bang Mỹ với những chính sách tiền tệ, tài chính
hiệu quả, hiệu lực. Thông qua việc phân tích hoạt động tái cơ cấu nền kinh tế Mỹ, tác
phẩm đã cho thấy vai trò cốt yếu của Nhà nước Mỹ trong tái cơ cấu, đồng thời chỉ ra
cách thức, nội dung cụ thể mà Nhà nước Mỹ đã làm trong quá trình tái cơ cấu nền
kinh tế, giúp Mỹ duy trì vị thế cường quốc kinh tế trong hàng chục năm qua.


×