1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi.
Các số liệu, kết quả trong luận án là trung thực.
Tác giả
Đặng Quốc Minh Dương
2
MỤC LỤC
Lời cam đoan
2
Mục lục
3
Các chữ viết tắt
5
Các bảng biểu……………………………………………………………….. 5
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………... 6
0.1. Lý do chọn đề tài …….……………………………………………….... 6
0.2. Mục đích nghiên cứu…………………………………………………… 7
7
8
0.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...........................................................
0.4. Phương pháp nghiên cứu.....…………………………………………....
1.5. Đóng góp của luận án ……………………………………………...........
9
1.6. Kết cấu luận án..........................................................................................
10
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI………….
……........….. 11
1.1. Tổng quan về tình hình sưu tầm, biên dịch và tình hình nghiên cứu...
11
1.2. Một số khái niệm liên quan...…………………………............................
22
1.3. Sự phân bố, phân loại kiểu truyện.…......................................................
28
Tiểu kết.………………………………………………………………....
35
3
CHƯƠNG 2: KẾT CẤU CỦA KIỂU TRUYỆN CON VẬT TINH RANH
………………………………………………………………………………… 37
37
41
44
2.1. Về tên gọi của truyện.…………………...................................................
2.2. Cách mở đầu truyện……………………………......................................
2.3. Kết cấu của các nhóm truyện……………..............................................
2.3.1. Kết cấu nhóm truyện tự vệ…………………………..................
44
46
2.3.2. Kết cấu nhóm truyện thủ lợi……………………………………
2.3.3. Kết cấu nhóm truyện chơi khăm………………………………. 51
2.3.4. Kết cấu nhóm truyện trợ thủ………………………………….. 54
60
2.4. Về kết thúc truyện …………………........................................................
Tiểu kết………………………..................................................................
66
CHƯƠNG 3: NHÂN VẬT CỦA KIỂU TRUYỆN CON VẬT TINH RANH
……………………………………………………………………………….. 68
68
76
82
85
3.1. Nhân vật tinh ranh……………………....................................................
3.2. Nhân vật đối thủ……………………………………………....................
3.3. Nhân vật nạn nhân…………………………………………....................
3.4. Nhân vật trợ thủ tư tế…………………………………...........................
4
Tiểu kết………………………………………………………...................
93
CHƯƠNG 4: MỘT SỐ MOTIF THƯỜNG GẶP TRONG KIỂU
TRUYỆNCON VẬT TINH RANH………………………………………… 95
Motif suy nguyên…………………………………................................. 95
4.2.
Motif thi tài…………………………………………….......................... 97
4.3.
Motif xử kiện.………………………………………............................. 100
4.4.
Motif hoãn binh…………………………………………….................. 103
4.5.
Motif giả mạo………………………………………………................. 105
4.6.
Motif xui bẩy………………………………………………………….. 108
4.7.
Motif sự bắt chước……………………………………………………. 110
4.8.
Motif vi phạm điều ngăn cấm……………………………………….. 112
4.9.
Motif ăn vụng……………………………………………………….... 114
4.10. Motif trao đổi…………………………………………......................... 117
Tiểu kết………………………………………………………...............
119
4.1.
CHƯƠNG 5: KIỂU TRUYỆN CON VẬT TINH RANH VÀ BẢNG TRA
CỨU A – T……… ……………………………………………………...……….. 121
121
131
145
5.1. Các type truyện tương thích…………………………..........................
5.2. Các type truyện không có sự tương thích………………………….....
Tiểu kết………………………………………………………………....
KẾT LUẬN……………………………………………………………………… 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN……………………………………................................................. 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………….... 152
PHỤ LỤC 1: TÓM TẮT CÁC TRUYỆN KHẢO SÁT.........................................
161
PHỤ LỤC 2: CÁC TYPE TRUYỆN LOÀI VẬT TRONG BẢNG TRA CỨU
5
A – T VÀ CÁC TRUYỆN TƯƠNG THÍCH........................................................... 201
6
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. Châu Úc và châu Đại Dương: CU&CĐD
2. Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn: ĐH KHXH&NV
3. Giáo dục: GD
4. Hà Nội: HN
5. Khoa học Xã hội: KHXH
6. Nhà xuất bản: Nxb
7. Sách đã dẫn: sđd
8. Thành phố Hồ Chí Minh: Tp. HCM
9. Văn hóa Dân tộc: VHDT
10. Văn hóa thông tin: VHTT
11. Văn học: VH
12. Của, thuộc Việt Nam: /VN
CÁC BẢNG BIỂU
7
a.i.1.
Biểu đồ 1: Biểu đồ sự phân bố truyện kể theo châu lục
trang 29
a.i.2.
Biểu đồ 2: Biểu đồ chia nhóm kiểu truyện con vật tinh ranh
trang 35
a.i.3.
Biểu đồ 3: Biểu đồ về các cách gọi tên truyện
trang 40
a.i.4.
Bảng 5.1: Bảng các type tương thích và không tương thích của các châu
lục trang 144
8
MỞ ĐẦU
0.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Là một loại hình của nghệ thuật ngôn từ, truyện dân gian có những đặc trưng
riêng. Nó sinh ra, tồn tại và lưu truyền từ đời này sang đời khác, được sáng tạo và tái
tạo theo những quy luật riêng. Một trong những quy luật và cũng là đặc điểm của
truyện dân gian đó chính là việc sử dụng những công thức nghệ thuật có sẵn trong kho
tàng văn liệu dân gian như các kiểu mở đầu, các kiểu kết thúc, các dạng kết cấu, các
motif,…. Chính vì thế, khi nghiên cứu văn học dân gian theo phương pháp so sánh lịch
sử, B. N. Putilốp đã xem “tính lặp lại” như một đặc tính nổi bật của dòng văn học này
[55, tr. 7].
Từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, việc phát hiện “tính lặp lại” đã làm xuất
hiện khuynh hướng nghiên cứu truyện dân gian theo kiểu truyện (type). Thực tế
nghiên cứu đã cho thấy rằng: không chỉ dừng lại ở biên giới một dân tộc, quốc gia,
nhiều kiểu truyện còn mang các yếu tố tương đồng với các dân tộc rất xa nhau về địa
lý, văn hóa. Rất nhiều công trình đã thành công khi vận dụng các nguyên tắc này vào
việc tìm hiểu các kiểu truyện như kiểu truyện Thạch Sanh, kiểu truyện Cô tro bếp
(Cinderella), kiểu truyện người em út, kiểu truyện người con riêng, kiểu truyện người
mang lốt, kiểu truyện cậu bé tí hon,… Tiếp cận truyện kể theo hướng này sẽ giúp
thấy được những nguyên tắc sáng tác truyền thống của một thể loại qua cách xây
dựng nhân vật, cách xây dựng cốt truyện, cách dẫn dắt, xâu chuỗi những tình tiết,
motif trong truyện. Như vậy, hướng tiếp cận truyện dân gian theo type sẽ giúp ta hiểu
sâu hơn các kiểu tư duy, các nguyên tắc cấu tạo, tổ chức truyện và những vấn đề liên
quan như tính nhân loại, tính dân tộc,…
Trong kho tàng truyện dân gian Việt Nam và thế giới, kiểu truyện con vật tinh
ranh là một trong những kiểu truyện quen thuộc và tiêu biểu. Trong kiểu truyện này,
nhân vật chính – một con vật nhỏ bé nhưng tinh ranh thường sử dụng các mưu kế,
9
mánh lới để đánh lừa, chơi khăm hoặc giúp đỡ các nhân vật khác. Đây là kiểu truyện
mà tính duy lý chiếm ưu thế, nó chi phối quá trình hình thành cốt truyện, xây dựng
nhân vật. Bên cạnh tính duy lý, kiểu truyện còn hấp dẫn bởi các câu chuyện giàu tính
nhân văn và ý nghĩa thẩm mỹ. Nhận ra sức hấp dẫn của kiểu truyện con vật tinh ranh,
một số nhà nghiên cứu đã có những kiến giải mang tính chất gợi mở về một số khía
cạnh nổi bật của kiểu truyện. Tuy nhiên còn nhiều vấn đề cốt lõi như kết cấu, nhân
vật, motif,… cần phải được đào sâu và mở rộng hơn nữa nhằm đi đến những phát
hiện khoa học về cấu trúc tổng thể cũng như cấu trúc bộ phận của một kiểu truyện
tiêu biểu, qua đó giúp ta có “cái nhìn tham chiếu” đầy đủ, sáng tỏ về giá trị nội dung và
hình thức của kiểu truyện.
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài Kiểu truyện con vật tinh
ranh trong truyện dân gian Việt Nam và thế giới với mong muốn tìm đến những chứng
cứ xác thực minh chứng cho sự đặc sắc của kiểu truyện, qua đó có cái nhìn cơ bản, đa
diện, đa chiều về kiểu truyện từ những nền văn hóa khác nhau trên thế giới. Kết quả
khảo sát sẽ giúp bổ sung những kiến thức, nhận định về tiểu loại truyện loài vật cũng
như kiểu truyện con vật tinh ranh. Đồng thời, đề tài hy vọng sẽ đem lại nhiều điều
bổ ích và cần thiết cho việc nghiên cứu và giảng dạy văn học dân gian của bản thân.
Như vậy, việc nghiên cứu đề tài Kiểu truyện con vật tinh ranh trong truyện dân gian
Việt Nam và thế giới vừa có ý nghĩa khoa học, vừa có ý nghĩa thực tiễn.
0.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
0.2.1.Việc khảo sát một cách hệ thống về kiểu truyện con vật tinh ranh ở Việt
Nam và thế giới giúp chúng tôi thấy được sự phân bố của kiểu truyện. Hơn nữa, qua
tập hợp này cũng chứng minh sự phổ biến của kiểu truyện trên phạm vi toàn cầu,
cũng như thấy được diện mạo, đặc điểm, đặc trưng của nó bên cạnh những kiểu
truyện khác.
0.2.2. Nghiên cứu kết cấu, nhân vật, hệ thống motif,… để làm nổi rõ nét đặc
trưng của kiểu truyện. Bên cạnh đó, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi thường mở
rộng so sánh để thấy được những đặc trưng trong phương thức xây dựng nhân vật,
10
kết cấu truyện, các motif của Việt Nam cũng như của các khu vực, quốc gia, châu lục
khác.
0.2.3. Chúng tôi tiến hành đối chiếu kiểu truyện với Bảng tra cứu A – T để vừa
khẳng định tính ứng dụng của Bảng tra cứu, mặt khác góp phần bổ sung một số type
truyện của Việt Nam cũng như của một số nước mà công trình chưa “phủ sóng” đến.
0.3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Tất cả những truyện kể có nhân vật trung tâm là con vật tinh ranh trong truyện
dân gian Việt Nam và thế giới (đã được dịch mà người viết thu thập được) đều là đối
tượng nghiên cứu của đề tài. Như vậy, đối tượng nghiên cứu của đề tài là những
truyện kể thỏa mãn hai tiêu chí: Nhân vật chính của truyện là con vật và con vật này
phải có tính cách tinh ranh. Chúng tôi loại trừ những truyện có nhân vật trung tâm là
con vật nhưng không có tính cách tinh ranh hoặc những truyện có nhân vật tinh ranh là
con người.
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều cũng như được sự hỗ trợ từ nhiều nguồn khác
nhau trong việc tìm kiếm các nguồn tài liệu nhưng chúng tôi vẫn không dám chắc rằng
đã bao quát hết kho truyện kể của các nước trên thế giới. Bởi như đã biết, Việt Nam
là một quốc gia đa dân tộc, việc khai thác vốn truyện kể của tất cả các dân tộc là hết
sức khó khăn. Tương tự, việc tiếp cận vốn truyện cổ của tất cả các quốc gia trên thế
giới cũng là điều không hề dễ dàng. Vì vậy, chúng tôi chủ yếu triển khai đề tài trên cơ
sở thống kê nguồn truyện của các dân tộc thiểu số đã được dịch sang tiếng phổ thông
và truyện cổ của các nước đã được dịch sang tiếng Viêt.
Theo những tiêu chí trên, dựa vào 103 tuyển tập truyện kể dân gian (trong đó có
32 tập truyện, tuyển tập của Việt Nam, 71 tập truyện, tuy ển tập c ủa các nước, châu
lục), đến nay chúng tôi tập hợp được 512 truyện thuộc kiểu truyện con vật tinh ranh.
Đây là tài liệu chính để chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài.
0.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
11
Để thực hiện đề tài, trước hết trong điều kiện cho phép, chúng tôi tập hợp
những truyện kể thuộc kiểu truyện con vật tinh ranh của Việt Nam và thế giới. Trên
cơ sở đó, chúng tôi tiến hành khảo sát kiểu truyện theo các phương pháp sau:
1.4.1. Phương pháp thống kê phân loại
Phương pháp này được sử dụng trong việc khảo sát, phân loại và trong khi so
sánh đối chiếu. Nhờ phương pháp thống kê mà chúng tôi có được các số liệu để phân
loại các truyện kể; cũng qua đấy thấy được sự phân bố của kiểu truyện ở các dân tộc,
quốc gia, khu vực hay châu lục. Các số liệu thống kê cũng cho thấy tần số xuất hiện
của các con vật tinh ranh. Nhờ phương pháp này mà chúng tôi có những số liệu tin
cậy, làm cơ sở để đưa ra những lý giải thích hợp, những kết luận, khái quát khoa học.
1.4.2. Phương pháp phân tích – tổng hợp
Sau khi đã hoàn thành bước thống kê tư liệu – phân loại, chúng tôi sử dụng
phương pháp phân tích tư liệu. Các truyện kể sẽ được phân tích tỉ mỉ từng chi tiết và
đánh giá trên quan điểm phân tích một tác phẩm nghệ thuật dân gian hoàn chỉnh. Trong
quá trình khảo sát, chúng tôi chú ý phân tích nội dung các truyện, phân tích các nhân
vật tham gia vào diễn tiến truyện và một số motif của kiểu truyện để từ đó tổng hợp,
rút ra nhận xét, đánh giá bản chất, đặc trưng của kiểu truyện.
1.4.3. Phương pháp so sánh – loại hình
Phương pháp so sánh – loại hình được sử dụng trong suốt quá trình xử lí đề tài.
Phương pháp này giúp chúng tôi thấy được những tương đồng và dị biệt về nhân vật,
kết cấu, motif,… giữa các dân tộc, đất nước, khu vực khác nhau; so sánh nhằm phát
hiện và lý giải những vấn đề nguồn gốc xã hội, cội nguồn văn hóa, môi trường nảy
sinh… của kiểu truyện; so sánh để thấy được nét gặp gỡ, giao thoa trong kiểu truyện
con vật tinh ranh của các dân tộc do chịu (hoặc không chịu) ảnh hưởng về văn hóa, xã
hội, lịch sử…. Phương pháp so sánh sẽ được vận dụng một cách đặc biệt trong
chương 5 – chương so sánh đối chiếu các type trong Bảng tra cứu A – T với các type
trong kiểu truyện.
1.4.4. Phương pháp lịch sử địa lý
12
Chúng tôi không sử dụng phương pháp này để tìm “quê hương ban đầu” hay
“con đường di chuyển” của các truyện kể mà để nghiên cứu theo type và motif. Thực
chất của việc nghiên cứu này là nghiên cứu cấu trúc, nghiên cứu hình thức của tác
phẩm truyện dân gian, cụ thể hơn là tiến hành phân loại các tác phẩm thành các type
và motif, khảo sát cấu trúc – dạng thức của type và motif. Chúng tôi sử dụng phương
pháp lịch sử địa lý nhằm mô tả mô hình kết cấu của type truyện và các motif.
1.4.5. Phương pháp mô hình hóa
Trên cơ sở những phân tích, khảo sát về sự phân loại, phân bố, về cách gọi tên
truyện, các dạng kết cấu… chúng tôi mô hình hóa thành các công thức, sơ đồ, qua đó
giúp người đọc dễ dàng nắm được các nội dung trình bày.
0.5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
0.5.1. Như đã biết, đặt trong tương quan với các tiểu loại, các thể loại khác,
truyện loài vật “chưa được chú ý sưu tầm nghiên cứu – nhất là nghiên cứu chuyên
sâu” [186, tr. 50]. Kết quả nghiên cứu về kiểu truyện con vật tinh ranh sẽ giúp chúng
ta có cái nhìn một cách cơ bản, đa diện về kiểu truyện con vật tinh ranh của Việt Nam
và thế giới. Kết quả này sẽ là tiền đề giúp các nhà khoa học tìm hiểu, nghiên cứu
truyện loài vật nói chung – một tiểu loại vốn ít được quan tâm nghiên cứu cả ở Việt
Nam và thế giới.
0.5.2. Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi luôn chú ý đến việc so sánh
kiểu truyện giữa các nước, các khu vực, châu lục với nhau. Nhờ đó, chúng tôi phát
hiện các giá trị độc đáo riêng biệt, bản sắc cũng như nét chung, tương đồng mang tính
toàn cầu của kiểu truyện.
0.5.3. Hiện nay, trên bản đồ folklore thế giới, Việt Nam cũng như phần lớn các
nước Đông Nam Á đang là “một khu vực rộng lớn để trắng” [dẫn theo 148, tr. 170],
chưa có sự định vị. Việc luận án dành Chương 5 để so sánh, đối chiếu với Bảng tra
cứu A – T sẽ cung cấp thêm nguồn tư liệu cho các nhà nghiên cứu folklore Việt Nam
thực hiện hoài bão xây dựng Bảng chỉ dẫn về hệ thống type và motif truyện dân gian
Việt Nam, qua đó góp phần giúp khắc phục tình trạng nêu trên.
0.6. KẾT CẤU LUẬN ÁN
13
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án có
kết cấu gồm 5 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và những vấn đề lý luận liên quan đến
đề tài.
Chương 2: Kết cấu của kiểu truyện con vật tinh ranh.
Chương 3: Nhân vật của kiểu truyện con vật tinh ranh.
Chương 4: Một số motif thường gặp trong kiểu truyện con vật tinh ranh.
Chương 5: Kiểu truyện con vật tinh ranh và Bảng tra cứu A – T.
14
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
I.1.
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH SƯU TẦM, BIÊN DỊCH VÀ TÌNH
HÌNH NGHIÊN CỨU
I.1.1.
Về tình hình sưu tầm, biên dịch các tập truyện
Ở Việt Nam, truyện cổ được ghi chép từ rất sớm trong các tác phẩm khởi đầu
của nền văn học viết như: Báo cực truyện, Giao Chỉ ký, Ngoại sử ký (thế kỷ XII),
Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên, Lĩnh Nam chích quái của Vũ Quỳnh, Kiều Phú (thế
kỷ XIVXV),... Thế kỷ XIX và thời kì cận đại của thế kỉ XX, hoạt động sưu tầm, biên
soạn truyện cổ càng được nhiều người chú ý, trong đó, có thể kể đến các công trình
như: Chuyện khôi hài (1882), Chuyện đời xưa (1886) của Trương Vĩnh Ký, Chuyện
giải buồn (1880: tập 1, 1885: tập 2) của Huỳnh Tịnh Của, Nam Hải dị nhân (1920) của
Phan Kế Bính,… Liên quan đến đề tài nghiên cứu, tập truyện đầu tiên xuất hiện
truyện kể của kiểu truyện này là tập Truyện cổ nước Nam (1932 – 1934) của Nguyễn
Văn Ngọc. Trên cơ sở nhận thức rằng: “trong khoa văn học dân gian, việc sưu tầm và
chỉnh lý tư liệu phải được coi là tiền đề hay cơ sở” [148, tr. 217] nên sau Cách mạng
tháng Tám (1945) hoạt động sưu tầm, biên soạn mới bắt đầu trở thành một hoạt động
mang tính khoa học và thành một ngành khoa học độc lập. Từ giai đoạn này, bên cạnh
các công trình sưu tầm truyện cổ người Việt, còn có các tuyển tập truyện cổ của các
dân tộc anh em như: Truyện cổ tích miền núi (1958), Truyện cổ Tây nguyên (1961),
Truyện cổ dân tộc Mèo (1963), Truyện cổ Việt Bắc (1963),… Một số công trình xuất
hiện nhiều truyện kể của kiểu truyện đang khảo sát như: Truyện cổ Xê Đăng, Truyện
cổ Cà Tu, Truyện cổ Mạ, Truyện cổ Cơ Ho, Truyện cổ Khơ me Nam Bộ, Truyện cổ
dân gian Chăm, Truyện cổ Ê Đê, Truyện cổ M’nông, Kho tàng truyện cổ tích Việt
Nam, Truyện cổ các dân tộc Trường Sơn Tây Nguyên, Truyện cổ các dân tộc Việt
15
Nam,… Gần đây, các nhà nghiên cứu có xu hướng tổng hợp thành các tổng tập như
Tổng tập văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam (4 tập, 6 quyển), Tổng tập Văn học
dân gian người Việt (19 tập, 20 quyển) và bộ Tổng tập Văn học dân gian các dân tộc
thiểu số Việt Nam (23 tập). Xin điểm qua một số công trình tiêu biểu:
Công trình Truyện cổ dân gian các dân tộc Việt Nam, gồm 4 tập do tổ Văn
học các dân tộc thuộc Viện Văn học chỉnh lý, biên soạn và xuất bản trong những năm
1963 – 1967. Đây là cột mốc quan trọng trong việc sưu tầm biên soạn truyện cổ dân
gian. Tuyển tập này tập hợp 234 truyện của hơn 30 dân tộc anh em.
Truyện cổ các dân tộc thiểu số miền Nam, gồm 2 tập. Công trình tập hợp 97
truyện của 20 dân tộc ít người ở miền Nam nước ta, do Hà Văn Thư, Võ Quang Nhơn
và Y Điêng biên soạn.
Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (5 tập) do Nguyễn Đổng Chi sưu tầm, biên
soạn, khảo dị, giới thiệu 200 truyện của dân tộc Kinh (Việt). Công trình được Nxb
Văn Sử Địa, Nxb Sử học, Nxb KHXH xuất bản từ năm 1958 đến năm 1985. Năm 1993,
viện Văn học xuất bản công trình này trọn bộ 5 tập; năm 2000, Nxb Giáo dục gộp lại
thành 2 tập và cho tái bản.
Từ năm 2002 2007, lần lượt các tập của bộ Tổng tập Văn học dân gian
người Việt (19 tập, 20 quyển) đã hoàn thành việc công bố trong đó chúng tôi chú ý
tập 6, tập 7 truyện cổ tích (do Nguyễn Thị Huế chủ biên). Đây là bộ tổng tập được
biên soạn dựa theo cách phân loại cốt truyện theo tiểu loại (cổ tích thần kỳ, cổ tích
loài vật và cổ tích sinh hoạt). Bên cạnh bản chính, tác giả còn tập hợp, giới thiệu các
bản khác có cùng cốt truyện của người Việt hoặc của các dân tộc thiểu số để so sánh,
đối chiếu.
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam phối hợp Viện Nghiên cứu Văn hóa tiến
hành biên soạn và xuất bản bộ Tổng tập Văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt
Nam (23 tập) – trong đó, chúng tôi chú ý đến tập 14 – truyện cổ tích do Nguyễn Thị
Yên chủ biên. Công trình này giới thiệu diện mạo văn học dân gian các dân tộc thiểu
số Việt Nam theo từng thể loại. Bên cạnh tính quy mô, công trình còn có điểm mới là:
16
các bản kể được xuất bản dưới hình thức song ngữ (chữ dân tộc hoặc phiên âm tiếng
dân tộc).
Tuy bắt đầu muộn hơn nhưng từ những năm 60 của thế kỷ trước, công tác biên
dịch truyện cổ cũng bắt đầu được chú ý. Liên quan đến đề tài nghiên cứu, bản dịch
sớm nhất là Truyện dân gian Lào (1962), kế đến là các tập truyện như Truyện dân
gian Trung Quốc (1963), Truyện cổ Cao Miên (1968),… Từ những năm 80 90, công
việc biên dịch càng được chú ý, đẩy mạnh. Có hàng trăm tập truyện, tuyển tập truyện
dân gian nước ngoài được chuyển dịch và xuất bản bằng tiếng Việt, trong đó, một số
công trình có liên quan đến đề tài như: Truyện cổ Grim, Truyện cổ dân gian
Bêlôrútxia, Truyện dân gian Nga, Truyện dân gian Ukraina, Truyện cổ dân gian Ấn
Độ, Truyện cổ Hàn Quốc, Truyện kể dân gian châu Phi, Truyện cổ Campuchia,
Truyện cổ Mã Lai, Truyện cổ Inđônêxia,… Nói về việc biên dịch, biên soạn không thể
không nhắc đến Ngô Văn Doanh. Ông đã có rất nhiều công trình về truyện dân gian
các nước, các châu lục khác nhau, trong số đó, phải kể đến bộ tuyển tập Truyện cổ
năm châu, tuyển tập Kho tàng truyện cổ thế giới cũng như tuyển tập về các nước
trong khu vực Đông Nam Á. Đây là kho tư liệu rất quý giúp cho các nhà nghiên cứu
Việt Nam dễ dàng tiếp cận với kho truyện kể của các nước.
Gần đây, một số tác giả đã biên soạn, tuyển chọn truyện kể theo đề tài, theo
nhân vật. Chúng tôi quan tâm đến các tập truyện như Truyện cổ tích về các loài vật
của Phạm Thu Yến, Truyện cổ tích về loài vật của Lan Anh, của Lê Châu, Truyện cổ
về các loài vật của Thúy Quỳnh, Truyện kể về những con vật thông minh của Sơn
Khê, Truyện kể về các loài vật của Thu Lan,...
Như vậy, có thể khẳng định rằng tình hình sưu tập, biên dịch truyện dân gian
luôn được các nhà nghiên cứu folklore Việt Nam quan tâm, chú ý. Nhờ vậy, nó đã giúp
cho người viết có được những cốt truyện cùng các bản kể về kiểu truyện để khảo sát
và nghiên cứu. Điểm qua các công trình trên có thể thấy rằng, phần lớn các tập truyện,
tuyển tập được biên dịch là truyện dân gian của các nước trong khối Xã hội chủ nghĩa
trước đây, các nước trong khu vực Đông Nam Á khối Asean, các nước gần gũi với
Việt Nam về mặt địa lý và các nước có quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Đây cũng là
điều dễ hiểu bởi vì tình hữu nghị của các nước dựa trên sự hiểu biết lẫn nhau – mà
17
một trong những điều cần biết đầu tiên đó là vốn quý của dân tộc: kho tàng văn hóa
dân gian.
I.1.2.
Về tình hình nghiên cứu
Theo Chu Xuân Diên, năm 1865, O. Mile là người đầu tiên xem truyện loài vật
như một tiểu loại. Trong cách phân loại này, “truyện cổ tích thần kỳ”, “truyện cổ tích
động vật” và “truyện cổ tích sinh hoạt” đã được xác định như ba thể loại cơ bản [21,
tr.241]. Giới thiệu về tiểu loại này, Từ điển Văn học – bộ củ, cho rằng “Truyện cổ
tích loài vật có sự kết hợp những điều quan sát hiện thực về các con vật với trí tưởng
tượng nhân cách hóa giới tự nhiên. Ở nhiều nước, tính chất cổ xưa của truyện loài vật
đã bị pha trộn với khuynh hướng của người đời sau, mượn truyện loài vật để nói về
xã hội loài người. Do đó giữa loại truyện này với truyện ngụ ngôn có những trường
hợp không có sự phân biệt thật rạch ròi” [125, tr. 1840]. Hiện nay, các nhà nghiên cứu
folklore đều thống nhất cho rằng, truyện cổ tích loài vật thường có 3 lớp chính [149,
tr. 115 119]:
Lớp truyện hình thành sớm nhất là những truyện vật tổ gắn với tín
ngưỡng, tô tem giáo của người nguyên thủy. Lớp truyện này còn bảo lưu khá nhiều
trong các dân tộc còn ở trình độ phát triển bán khai;
Lớp truyện phản ánh đặc điểm của loài vật. Qua đặc tính đó, người ta
muốn truyền lại cho nhau những tri thức về thế giới tự nhiên nhằm chinh phục nó, sử
dụng nó phục vụ cho đời sống con người;
Lớp truyện đồ chiếu quan hệ xã hội loài người vào quan hệ của các
con vật. Lớp truyện này có xu hướng ngụ ngôn hóa.
Tuy được biết đến như một tiểu loại từ sớm nhưng truyện loài vật nói chung,
kiểu truyện con vật tinh ranh nói riêng vẫn chưa được nghiên cứu một cách chuyên
sâu, đầy đủ. Thực trạng này đã được V. Ia. Propp chỉ ra, khi ông cho rằng tiểu loại
truyện cổ tích loài vật ở Nga và các nước phương Tây “chưa từng được coi là đối
tượng nghiên cứu” [210, tr. 310]. Ở Việt Nam, vào những năm 90 của thế kỷ trước,
Hoàng Tiến Tựu cũng nhận định: “Bộ phận truyện kể về loài vật chưa được chú ý
sưu tầm nghiên cứu, nhất là nghiên cứu chuyên sâu” [186, tr. 50]. Năm 2002, Phạm
18
Thu Yến cũng nhận thấy thực trạng đó. Nhà nghiên cứu cho rằng: “việc nghiên cứu
đặc điểm nội dung và nghệ thuật của thể loại này chưa được đầu tư đúng mức” [200,
tr. 84]. Đến nay, tình hình nghiên cứu tiểu loại cũng như kiểu truyện con vật tinh ranh
vẫn chưa được cải thiện là bao. Tuy thế, đây đó đã có một số bài viết nghiên cứu về
một vấn đề nào đó của kiểu truyện hoặc một vài ý kiến nhận xét, đánh giá với mục
đích minh họa cho các công trình nghiên cứu về những kiểu truyện khác, những vấn
đề khác. Chúng tôi điểm qua một số bài viết đó.
1. Bảng chỉ dẫn về các kiểu truyện [203] của Anti Aarne và Stith Thompson chia
truyện kể thành 5 cụm lớn: Truyện cổ tích động vật, Những truyện kể thông thường,
Truyện cười và giai thoại, Truyện kể theo công thức và Những truyện còn lại chưa
phân loại. Trong phần I. Animal tales truyện cổ tích động vật lại được hai tác giả
sắp xếp theo trình tự sau:
Từ 1 – 99: Động vật hoang dã
100 – 149: Động vật hoang dã và vật nuôi
150 – 199: Người và động vật hoang dã
200 – 219: Vật nuôi
220 – 249: Chim
250 – 274: Cá
275 – 299: Các con vật khác và các vật dụng.
Trong các nhóm type truyện trên, A. Aarne và S. Thompsom lại phân cấp và gọi
tên các type truyện từ 1 – 69 là tiểu nhóm “con vật thông minh” ( the clever animal).
Như vậy, trong Bảng chỉ dẫn về các kiểu truyện, các type truyện con vật thông minh
thuộc nhóm truyện động vật hoang dã. Cách phân nhóm này chỉ có giá trị tương đối.
Bởi thực tế các type truyện kể về mưu kế của loài vật còn xuất hiện khá nhiều ở các
nhóm khác. Tiểu nhóm “con vật thông minh” có 138 type truyện, trong đó có cả type
truyện mở rộng của vùng phủ sóng (truyện cổ Phần Lan, một phần của các nước Bắc
Âu, các nước Nam châu Âu, Đông Nam châu Âu và Ấn Độ). Ở đây, hai tác giả chú ý
19
khảo sát và giới thiệu những đơn vị truyện trọn vẹn, lưu truyền trong một vùng địa lý
nhất định. Vì vậy, nó rất giới hạn trong phạm vi khảo sát và mang tính chọn lựa.
Gắn liền với Bảng chỉ dẫn về các kiểu truyện là công trình gồm 6 cuốn Mục
lục các motif của văn học dân gian [205] của S. Thompson. Ở đây, Thompson tiếp cận
truyện kể từ đơn vị motif. Ông sắp xếp các motif theo logic từ các motif huyền thoại,
siêu nhiên đến các motif hiện thực, hài hước. Ông ký hiệu 23 chương theo các chữ cái
La tinh từ A đến Z. Trong mỗi chương, các mục được sắp thành từng nhóm lớn, cứ
mỗi nhóm được trao cho 100 số hoặc những bội số của 10, ví dụ: B0 – B99: con vật
huyền thoại, B100 B199: con vật ma thuật. Kế đến, tác giả cũng chia các nhóm lớn
này thành từng cụm theo hàng chục. Cụm hàng chục đầu tiên trong một nhóm lớn dành
cho những ý tưởng chung (general idea), những ý tưởng riêng biệt sẽ xếp tiếp theo.
Cách làm này được thực hiện tiếp tục trong mỗi cụm nhỏ. Liên quan đến vấn đề
nghiên cứu là nội dung chương K Deceptions (trò lừa dối, mưu mẹo gian dối, mánh
khóe lừa bịp), gồm hơn 2300 motif nói về các mánh lừa dối, việc làm của kẻ cắp và
tên đểu cáng, những việc lừa phỉnh để bắt giữ hoặc để trốn thoát, sự dụ dỗ, ngoại
tình, trá hình, đánh lừa,…
Nhìn chung, đây là hai công trình có tính ứng dụng cao. Nó tỏ ra có ích cho
những ai nghiên cứu, tìm hiểu các vấn đề liên quan – nhất là giúp cho việc “tra cứu”
(index) được nhanh chóng, thuận tiện.
2. Năm 1960, Tập san nghiên cứu Châu Phi (Cahiers d’Études africaines) có hai
bài viết liên quan đến vấn đề đang nghiên cứu. Đó là bài viết của Denise Paulme bàn
về việc Phân loại truyện kể về kẻ ranh mãnh ở châu Phi [209] (nội dung bài viết này
sẽ được chúng tôi đề cập đến nhiều hơn trong phần 1.3.2 Sự phân loại) và bài viết
Mưu mẹo: những nguyên tắc tra cứu [207] của Claude Braymond. Trong bài viết, nhà
nghiên cứu lần lượt tìm hiểu các vấn đề như: mục tiêu của bẫy (les fins du piège),
chiến lược bảo vệ (stratégies de protection), bẫy trung gian của bẫy (le piège moyen
d’un piège), cơ chế bên trong của bẫy (mécanisme interne du piège),… Với cách làm
trên, ông đã phân loại cái bẫy (mưu mẹo) dựa vào mục đích mà nó hướng đến. Hướng
tiếp cận này giúp cho người đọc dễ dàng tra cứu về hệ thống mưu mẹo trong truyện
kể dân gian châu Phi cũng như áp dụng để nghiên cứu kiểu truyện con vật tinh ranh ở
20
các đất nước, châu lục khác. Đây là bài viết đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu về mưu
mẹo. Bài viết có giá trị học thuật cao, hữu ích cho những người nghiên cứu về kiểu
truyện mang tính duy lý.
Cũng nói về truyện kể châu Phi, nhà nghiên cứu người Nga, E. X. Kốtlia có bài
giới thiệu khá chi tiết về truyện kể của châu lục này. Kốtlia cho rằng: “Truyện kể về
loài vật chiếm một vị trí rất lớn trong văn học dân gian các dân tộc châu Phi và nếu so
sánh với truyện cổ tích thần kỳ hay truyện cổ tích thế tục thì loại truyện này tỏ ra là
một thể loại đã hoàn toàn phát triển và định hình rõ rệt, với đặc điểm riêng của mình,
với một cụm chủ đề, với các kiểu nhân vật chính” [94, tr. 29]. Theo ông, kiểu truyện
con vật tinh ranh là “hình thức cổ điển của thể loại này, là một chuỗi khá đầy đủ các
chủ đề truyện cổ xoay quanh một nhân vật phổ biến kẻ láu cá (ranh mãnh, lừa đảo,
bịp bợm), truyện kể các cuộc phiêu lưu và thủ đoạn của nhân vật này. Nhờ có sự láu
cá và khôn khéo mà nhân vật này đã thắng cuộc trong các tính huống khác nhau” [sđd,
tr. 29]. Bài viết là những gợi mở, mách bảo rất đáng quý để tìm hiểu kiểu truyện con
vật tinh ranh.
3. Trong Sáng tác thơ ca dân gian Nga (tập 1), A. M. Nôvicôva dành một phần
để bàn về kiểu truyện con vật tinh ranh. Nhà nghiên cứu cho rằng: “Trong loại truyện
kể về loài vật ở Nga, các truyện cổ tích về con cáo nhiều hơn cả” [138, tr. 277]. Gắn
liền với con vật này là một chuỗi các motif cáo ăn trộm cá, cáo lừa bịp (bắt cá), cáo
xưng tội, cáo làm bà đỡ, cáo làm quan tòa, cáo làm mẹ đỡ đầu cho sói,… Nôvicôva
nhận thấy tính hai mặt của nhân vật con vật tinh ranh mà theo nhà nghiên cứu là
“không phải tiêu biểu với phônclo”. Bà nói thêm “Trong tất cả các truyện, con cáo đều
được miêu tả là khéo léo, giỏi giang, nhanh trí, mưu mẹo – đó là những tính cách không
thể không thán phục. Song đồng thời con cáo cũng được miêu tả như là một tên dối
trá, trộm cắp, tính toán, hay thù oán, tàn nhẫn,… Thái độ hai mặt đối với nhân vật
không phải là tiêu biểu đối với phônclo, vì phônclo mang tính chuẩn mực rất chặt chẽ
và có khuynh hướng bộc lộ thái độ hết sức phân minh” [sđd, tr. 277 – 278]. Những
nhận xét của Nôvicôva không chỉ đúng cho truyện dân gian Nga mà nó còn phù hợp với
kiểu truyện con vật tinh ranh ở nhiều quốc gia, khu vực khác.
21
Trước đó, trong công trình Truyện cổ tích [210], V. Ia. Propp dành chương VI để
nghiên cứu về truyện cổ tích loài vật. Trong chương này nhà nghiên cứu đã tìm hiểu
các vấn đề như tính đa dạng, tính quy tắc, nguồn gốc, cách phân loại của truyện loài
vật. Propp nhận định rằng: “Trung tâm của thể loại truyện cổ tích về loài vật là
những con vật khôn ngoan, hay có thể gọi là tinh ranh, và bao giờ cũng là kẻ chiến
thắng nhờ ưu thế vượt trội đó của mình” [210, tr. 307]. Theo Propp, ở Nga thời Trung
đại đã từng tồn tại một dòng văn học về loài cáo. Nhận xét về các mưu kế của con
cáo, ông cho rằng: “Sự lừa dối ở đây thể hiện ưu thế vượt trội của kẻ khôn ranh so
với người ngu đần hay nhẹ dạ, cả tin. Theo quan điểm của chúng tôi, sự lừa dối
thường bị phán xét và định kiến về mặt đạo đức. Nhưng trong truyện cổ tích về loài
vật, ngược lại, sự lừa dối lại tạo sự thán phục, như là một hình thức thể hiện sự khôn
ngoan vượt trội của kẻ yếu so với kẻ mạnh” [sđd, tr. 310]. Đây là công trình rất có giá
trị cho những ai nghiên cứu tìm hiểu về truyện loài vật nói chung – kiểu truyện con
vật tinh ranh nói riêng.
4. Với truyện kể Mã Lai – Inđônêxia thì con can chi (Kancil, Pêlanđúc, mang
lửa, hươu, hoẵng) là con vật tiêu biểu của trí thông minh, ranh mãnh. Đức Ninh trong
bài viết Truyện cổ tích Mã Lai – Inđônêxia [136] đã có những giới thiệu khái quát về
nhóm truyện đang khảo sát. Theo Đức Ninh, can chi “là con vật nhỏ bé nhưng thông
minh, lanh lợi, nhanh nhẹn. Đây là hình tượng nhân vật đại diện cho trí thông minh
của nhân dân. Biết mình nhỏ bé, sức yếu nên con can chi đã phát huy trí thông minh
để giải thoát mình trong những tình huống sống còn, khi phải đối mặt với những kẻ
mạnh, hung dữ, tàn ác” [136, tr. 92]. Với dung lượng của một bài viết ngắn, người đọc
cũng không thể nào đòi hỏi một sự giải quyết toàn vẹn, thấu đáo hết mọi vấn đề.
5. Trong quan niệm dân gian của Ấn Độ, vẹt được xem là một con vật tinh
khôn. Khái quát về chùm truyện con vẹt trong Truyện cổ dân gian Ấn Độ [46],
Nguyễn Tấn Đắc cho rằng: “Truyện dân gian Ấn Độ có khá nhiều mẩu chuyện kể về
những con vẹt thông minh khôn ngoan, biết cách đối phó trong những cảnh ngộ cực kỳ
khó khăn” [46, tr. 25]. Ở một bài viết khác, khi giới thiệu về truyện dân gian
Campuchia, nhà nghiên cứu nhắc đến chùm truyện con thỏ của đất nước này. Bên
cạnh những nét chung về tính cách tinh ranh của con vật tinh ranh, ông còn phát hiện ra
22
ở kiểu truyện đặc điểm “không còn có yếu tố thần kỳ nào cả, mà chỉ có trí tuệ. Trí
tuệ dân gian đã bịa ra hay nói đúng hơn đã sáng tạo ra tình huống oái ăm, lắt léo, khó
gỡ, những “tình huống câu đố”, rồi trí tuệ dân gian lại tự mình gỡ giải những tình
huống đó một cách bất ngờ, dễ dàng, gây hứng thú đặc biệt cho người nghe” [44, tr.
392]. Tuy chỉ là bài viết ngắn nhưng nó chứa đựng những nhận định có giá trị, gợi mở
nhiều vấn đề thú vị liên quan đến đề tài nghiên cứu.
6. Ở Việt Nam, trước năm 1990, các giáo trình văn học dân gian vẫn chưa xem
truyện loài vật như là một tiểu loại truyện cổ tích. Có thực tế này bởi vì tình hình sưu
tầm truyện cổ tích loài vật lúc đó chưa đủ số lượng tạo nên “vấn đề” để các nhà
nghiên cứu tách riêng tìm hiểu. Chính vì thế mà sau này, khi tiếp cận thêm nguồn tư
liệu, phương pháp nghiên cứu mới, Võ Quang Nhơn đã thay đổi quan điểm phân loại
truyện cổ tích. Ông thẳng thắn thừa nhận: “Vấn đề phân loại văn học dân gian nói
chung và phân loại truyện cổ tích nói riêng còn nhiều cách lý giải và xử lý chưa thống
nhất, chưa phù hợp với yêu cầu khoa học” [121, tr. 436]. Từ nhận thức đó, ông điều
chỉnh lại cách phân loại truyện cổ tích các dân tộc thiểu số, gồm: Truyện cổ tích thần
kỳ, cổ tích loài vật và cổ tích sinh hoạt. Đây là quá trình tự luận chiến để thay đổi
quan niệm phân loại. Võ Quang Nhơn thực sự là người có nhiều đóng góp trong việc
sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian các dân tộc thiểu số.
Thực ra thì từ năm 1984, trong mục từ “truyện cổ tích” ( Từ điển văn học – tập
2, bộ cũ), Chu Xuân Diên đã xem truyện cổ tích loài vật là một tiểu loại. Nhận định về
tiểu loại này, nhà nghiên cứu khái quát: “Ở loại truyện cổ tích về loài vật, có sự kết
hợp những điều quan sát hiện thực về các con vật với trí tưởng tượng nhân cách hóa
giới tự nhiên” [125, tr. 453]. Những khái quát ngắn gọn này có tính gợi mở cao.
Kế thừa thành quả của bộ giáo trình do Đinh Gia Khánh chủ biên, đồng thời
vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu tiên tiến trong và ngoài nước, năm 1990, bộ
giáo trình Văn học dân gian của trường Đại học Tổng hợp do Lê Chí Quế chủ biên
được xuất bản. Cùng thời điểm này, Hoàng Tiến Tựu (1990) cũng cho xuất bản bộ
giáo trình của ông. Cả hai bộ giáo trình đều xem truyện cổ tích loài vật là một tiểu
loại riêng. Nhắc đến kiểu truyện này, Lê Chí Quế đã có những nhận định gợi mở rất
đáng quý. Theo tác giả “kết cấu phổ biến của những câu chuyện về con vật thông
23
minh (đôi khi láu cá) là sự chiến thắng của con vật bé hơn với con vật lớn hơn không
phải bằng sức lực mà bằng trí”. Từ nhận định đó, nhà nghiên cứu đề cập đến kiểu
truyện con thỏ tinh ranh, ông cho rằng “con thỏ bé nhỏ nhưng nhanh nhẹn, thông minh
đã lập mưu lừa được cả voi, hổ, cá sấu là những con vật to khoẻ và độc ác” [149, tr.
116 117]. Lê Chí Quế cũng cho rằng, truyện kể về con thỏ không chỉ xuất hiện nhiều
trong truyện dân gian Việt Nam mà còn là con vật tiêu biểu trong truyện dân gian
Campuchia, vùng Đông Nam Á và nhiều nước trên thế giới.
Năm 2000, Lê Trường Phát biên soạn tài liệu Thi pháp văn học dân gian cũng
nhắc đến nhân vật con thỏ tinh ranh. Ông cho rằng “nhân vật con thỏ nổi tiếng tinh
khôn, hiểu biết về nhiều lĩnh vực trong truyện của các dân tộc thiểu số, nhất là ở các
dân tộc miền núi Trường sơn và các dân tộc Khơ me Nam Bộ, Chăm…” [140, tr. 61].
Tiếp nối công trình trên, năm 2002, Phạm Thu Yến công bố bài viết Vấn đề giới
thiệu, nghiên cứu đặc điểm truyện cổ tích loài vật với việc sáng tác cho thiếu nhi hiện
nay. Phạm Thu Yến cho rằng: “chúng ta có một kho truyện cổ tích loài vật phong phú
về số lượng, đặc sắc về nghệ thuật”. Tuy vậy, nhà nghiên cứu cũng nhận thấy “việc
nghiên cứu đặc điểm nội dung và nghệ thuật của thể loại này chưa được đầu tư đúng
mức. Hầu như chưa có một công trình nào lấy truyện cổ tích loài vật làm đối tượng
nghiên cứu riêng biệt (…) chưa có bài nghiên cứu nào hướng đến việc khảo sát,
nghiên cứu truyện cổ tích loài vật một cách độc lập như một đối tượng nghiên cứu
riêng” [200, tr. 84]. Sau khi có những nhận xét khái quát, nhà nghiên cứu lần lượt tìm
hiểu các nội dung như: vấn đề tuyển chọn và giới thiệu truyện cổ loài vật, vấn đề
phân biệt truyện loài vật với truyện ngụ ngôn hay những đặc điểm về nhân vật, kết
cấu….của thể loại này.
7. Gần đây, dưới sự chủ trì của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện nghiên
cứu Văn hóa đã lần lượt cho ấn bản bộ Tổng tập Văn học dân gian người Việt (19
tập, 20 quyển) va b
̀ ộ Tổng tập Văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam (23
tập). Bên cạnh nội dung chính là các truyện kể, Nguyễn Thị Huê và Nguy
́
ễn Thị Yên
đã có những bài tổng thuật, giới thiệu về tình hình sưu tập, nghiên cứu truyện cổ Việt
Nam từ trước đến nay. Trong bài Khai luân
̉
̣ (dung chung cho ca hai tâp 6 va 7),
̀
̉
̣
̀ khi giới
thiệu về tiểu loại truyên cô tich loai vât, Nguy
̣
̉ ́
̀ ̣
ễn Thị Huế đã có kết luận rất cô đọng –
24
mà chúng tôi gọi là tổng kết “ba không – một có”. Nhà nghiên cứu cho rằng kiểu
truyện này “không có nhân vật lý tưởng, không có kết thúc có hậu, không có công thức
và mang tính chất hiện thực” [74, tr. 33]. Đây là những đúc kết có tính gợi mở rất cao.
Con Nguy
̀
ễn Thị Yên trong baì Dẫn luận truyện cổ tích các dân tộc thiểu số Việt Nam
đã có những nhận định mang tính tổng kết đầu tiên về tiểu loại này trong kho tàng
truyện cổ các dân tộc thiểu số Việt Nam. Ở đây, nhà nghiên cứu chú ý đến tính đối
lập giữa con vật thông minh và các đối thủ: “Đặc điểm tính cách của loài vật cũng
được đưa vào nhóm truyện về những con vật thông minh như thỏ, khỉ, cáo mà đối lập
với nó là những loài vật to xác nhưng hữu dũng vô mưu như hổ, sư tử, sói, cá sấu và
đôi khi còn có cả voi mà ở mỗi dân tộc lại có những sáng tạo riêng” [198, tr. 62]. So
với truyện cổ tích loài vật của người Việt thì truyện của các dân tộc thiểu số đa dạng,
phong phú về nội dung hơn, cốt truyện sinh động, mộc mạc và có phần chân thực hơn
[sđd, tr. 66 67]. Đây là “bộ sách đầu tiên tập hợp được số lượng lớn truyện cổ tích
của các dân tộc thiểu số dưới dạng song ngữ và “được sắp xếp theo các tiểu loại”
[sđd, tr. 80].
8. Năm 2005, dưới sự hướng dẫn khoa học của Chu Xuân Diên, chúng tôi thực
hiện đề tài Kiểu truyện con thỏ tinh ranh trong truyện cổ Việt Nam [40]. Qua công
trình này chúng tôi đã phác thảo chân dung về kiểu truyện ở Việt Nam. Thỏ nhân vật
chính của kiểu truyện, luôn đóng vai là kẻ chủ động đánh lừa, chơi khăm các nhân vật
to lớn, có sức mạnh hơn nó. Phần thắng lợi trong những lần “chạm trán” thường
thuộc về thỏ. Với số lượng bản kể có hạn (58 truyện) và trong phạm vi giới hạn (loài
thỏ và chủ yếu khảo sát ở Việt Nam) nên công trình vẫn bỏ ngỏ nhiều điều thú vị và
buộc phải mở rộng nghiên cứu khi có điều kiện.
9. Ngoài ra, trong khá nhiều tập truyện, bên cạnh nội dung chính là các bản kể,
chúng tôi cũng ghi nhận được nhiều nhận định, khái quát rất đáng quý qua các lời giới
thiệu của các tập truyện này. Chẳng hạn như nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng
trong lời giới thiệu của Truyện cổ Khơ me Nam Bộ cho rằng con thỏ tinh ranh thuộc
“nhóm nhân vật nhỏ bé, có nhiều đức tính đáng quý như thông minh, mưu trí, dũng
cảm” [174, tr.13]; Y Thi trong Truyện cổ M’nông lại khái quát về cách ứng xử thông
minh của nhân vật con thỏ. Ông cho rằng “nhân vật con thỏ tinh ranh có cách ứng xử
25