Tải bản đầy đủ (.pdf) (256 trang)

Luận án Tiến sĩ Văn học: Kiểu truyện con vật tinh ranh trong truyện dân gian Việt Nam và thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.18 MB, 256 trang )

1


LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. 
Các số liệu, kết quả trong luận án là trung thực.

Tác giả

      Đặng Quốc Minh Dương

2


MỤC LỤC
Lời cam đoan

    2

Mục lục

    3

Các chữ viết tắt

    5

Các bảng biểu………………………………………………………………..   5

MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………...  6


0.1. Lý do chọn đề tài …….………………………………………………....   6
0.2. Mục đích nghiên cứu……………………………………………………   7
7
8

0.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...........................................................  
0.4.   Phương   pháp   nghiên   cứu.....………………………………………….... 
1.5. Đóng   góp   của   luận   án   ……………………………………………........... 

9
1.6. Kết   cấu   luận   án..........................................................................................  
10

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ 
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI………….
……........…..  11
1.1. Tổng quan về  tình hình sưu tầm, biên dịch và tình hình nghiên cứu... 

11

1.2. Một số  khái niệm liên quan...…………………………............................  

22

1.3. Sự  phân bố, phân loại kiểu truyện.…......................................................  

28

Tiểu   kết.……………………………………………………………….... 
35


3


CHƯƠNG 2: KẾT CẤU CỦA KIỂU TRUYỆN CON VẬT TINH RANH 
…………………………………………………………………………………  37
37
41
44 

2.1. Về  tên gọi của truyện.…………………...................................................  
2.2. Cách mở  đầu truyện……………………………......................................  
2.3.  Kết cấu của các nhóm truyện…………….............................................. 
2.3.1. Kết cấu nhóm truyện tự  vệ………………………….................. 

44
46 

2.3.2. Kết cấu nhóm truyện thủ  lợi…………………………………… 
2.3.3. Kết cấu nhóm truyện chơi khăm………………………………. 51 
2.3.4. Kết cấu nhóm truyện trợ thủ…………………………………..  54

60

2.4. Về  kết thúc truyện …………………........................................................  
         Tiểu kết………………………..................................................................  
66

CHƯƠNG 3: NHÂN VẬT CỦA KIỂU TRUYỆN CON VẬT TINH RANH
………………………………………………………………………………..    68 

68 
76
82
85

3.1.   Nhân   vật   tinh   ranh……………………....................................................  
3.2.   Nhân   vật   đối  thủ…………………………………………….................... 
3.3.   Nhân   vật   nạn   nhân………………………………………….................... 
3.4. Nhân vật trợ  thủ  tư  tế…………………………………........................... 

4


          Tiểu kết………………………………………………………...................  
93 

CHƯƠNG   4:  MỘT   SỐ   MOTIF   THƯỜNG   GẶP   TRONG   KIỂU 
TRUYỆNCON VẬT TINH RANH…………………………………………  95 

Motif suy nguyên………………………………….................................  95
4.2.
Motif thi tài……………………………………………..........................  97
4.3.
Motif xử kiện.………………………………………............................. 100
4.4.
Motif hoãn binh…………………………………………….................. 103
4.5.
Motif giả mạo………………………………………………................. 105
4.6.
Motif xui bẩy………………………………………………………….. 108

4.7.
Motif sự bắt chước……………………………………………………. 110
4.8.
Motif vi phạm điều ngăn cấm………………………………………..  112
4.9.
Motif ăn vụng………………………………………………………....  114
4.10. Motif trao đổi…………………………………………......................... 117
  
Tiểu   kết………………………………………………………............... 
119
4.1.

CHƯƠNG 5: KIỂU TRUYỆN CON VẬT TINH RANH VÀ BẢNG TRA 

CỨU A – T……… ……………………………………………………...………..  121
121
131
145    

5.1.   Các   type   truyện   tương   thích………………………….......................... 
5.2. Các type truyện không có sự  tương thích…………………………..... 
              Tiểu kết……………………………………………………………….... 

KẾT LUẬN………………………………………………………………………  148 
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ  ĐàCÔNG BỐ LIÊN QUAN 
ĐẾN LUẬN ÁN……………………………………................................................. 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………….... 152
PHỤ   LỤC   1:  TÓM   TẮT   CÁC   TRUYỆN   KHẢO  SÁT.........................................  
161
PHỤ LỤC 2: CÁC TYPE TRUYỆN LOÀI VẬT TRONG BẢNG TRA CỨU 


5


A – T VÀ CÁC TRUYỆN TƯƠNG THÍCH........................................................... 201

6


CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. Châu Úc và châu Đại Dương: CU&CĐD
2. Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn: ĐH KHXH&NV
3. Giáo dục: GD
4. Hà Nội: HN
5. Khoa học Xã hội: KHXH
6. Nhà xuất bản: Nxb
7. Sách đã dẫn: sđd
8. Thành phố Hồ Chí Minh: Tp. HCM
9. Văn hóa Dân tộc: VHDT
10. Văn hóa thông tin: VHTT
11. Văn học: VH
12. Của, thuộc Việt Nam: /VN 

CÁC BẢNG BIỂU

7


a.i.1.


Biểu đồ 1: Biểu đồ sự phân bố truyện kể theo châu lục 

        trang 29
a.i.2.

Biểu đồ 2: Biểu đồ chia nhóm kiểu truyện con vật tinh ranh

        

trang 35
a.i.3.

Biểu đồ 3: Biểu đồ về các cách gọi tên truyện 

        trang 40
a.i.4.

Bảng 5.1: Bảng các type tương thích và không tương thích của các châu 

lục  trang 144

8


MỞ ĐẦU

0.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Là một loại hình của nghệ thuật ngôn từ, truyện dân gian có những đặc trưng 
riêng. Nó sinh ra, tồn tại và lưu truyền từ đời này sang đời khác, được sáng tạo và tái  
tạo theo những quy luật riêng. Một trong những quy luật và cũng là đặc điểm của 

truyện dân gian đó chính là việc sử dụng những công thức nghệ thuật có sẵn trong kho 
tàng văn liệu dân gian như các kiểu mở đầu, các kiểu kết thúc, các dạng kết cấu, các  
motif,…. Chính vì thế, khi nghiên cứu văn học dân gian theo phương pháp so sánh ­ lịch 
sử, B. N. Putilốp đã xem “tính lặp lại” như một đặc tính nổi bật của dòng văn học này  
[55, tr. 7]. 
Từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, việc phát hiện “tính lặp lại” đã làm xuất 
hiện   khuynh   hướng   nghiên   cứu   truyện   dân   gian   theo   kiểu   truyện   (type).   Thực   tế 
nghiên cứu đã cho thấy rằng: không chỉ  dừng lại  ở  biên giới một dân tộc, quốc gia,  
nhiều kiểu truyện còn mang các yếu tố tương đồng với các dân tộc rất xa nhau về địa  
lý, văn hóa. Rất nhiều công trình đã thành công khi vận dụng các nguyên tắc này vào  
việc tìm hiểu các kiểu truyện như  kiểu truyện   Thạch Sanh, kiểu truyện  Cô tro bếp 
(Cinderella), kiểu truyện người em út, kiểu truyện người con riêng, kiểu truyện người  
mang lốt, kiểu truyện  cậu bé tí hon,… Tiếp cận truyện kể  theo hướng này sẽ  giúp 
thấy được những nguyên tắc sáng tác truyền thống của một thể  loại qua cách xây 
dựng nhân vật, cách xây dựng cốt truyện, cách dẫn dắt, xâu chuỗi những tình tiết,  
motif trong truyện. Như vậy, hướng tiếp cận truyện dân gian theo type sẽ giúp ta hiểu 
sâu hơn các kiểu tư duy, các nguyên tắc cấu tạo, tổ chức truyện và những vấn đề liên  
quan như tính nhân loại, tính dân tộc,… 
Trong kho tàng truyện dân gian Việt Nam và thế  giới, kiểu truyện con vật tinh  
ranh là một trong những kiểu truyện quen thuộc và tiêu biểu. Trong kiểu truyện này, 
nhân vật chính – một con vật nhỏ  bé nhưng tinh ranh thường sử  dụng các mưu kế,  
9


mánh lới để đánh lừa, chơi khăm hoặc giúp đỡ các nhân vật khác. Đây là kiểu truyện 
mà tính duy lý chiếm  ưu thế, nó chi phối quá trình hình thành cốt truyện, xây dựng 
nhân vật. Bên cạnh tính duy lý, kiểu truyện còn hấp dẫn bởi các câu chuyện giàu tính 
nhân văn và ý nghĩa thẩm mỹ. Nhận ra sức hấp dẫn của kiểu truyện con vật tinh ranh, 
một số nhà nghiên cứu đã có những kiến giải mang tính chất gợi mở về một số khía  
cạnh nổi bật của kiểu truyện. Tuy nhiên còn nhiều vấn đề  cốt lõi như  kết cấu, nhân  

vật, motif,… cần phải được đào sâu và mở  rộng hơn nữa nhằm đi đến những phát 
hiện khoa học về cấu trúc tổng thể  cũng như  cấu trúc bộ  phận của một kiểu truyện 
tiêu biểu, qua đó giúp ta có “cái nhìn tham chiếu” đầy đủ, sáng tỏ về giá trị nội dung và 
hình thức của kiểu truyện. 
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài Kiểu truyện con vật tinh  
ranh trong truyện dân gian Việt Nam và thế giới  với mong muốn tìm đến những chứng 
cứ xác thực minh chứng cho sự đặc sắc của kiểu truyện, qua đó có cái nhìn cơ bản, đa 
diện, đa chiều về kiểu truyện từ những nền văn hóa khác nhau trên thế giới. Kết quả 
khảo sát sẽ giúp bổ sung những kiến thức, nhận định về tiểu loại truyện loài vật cũng 
như  kiểu truyện con vật tinh ranh. Đồng thời, đề  tài hy vọng sẽ  đem lại nhiều điều  
bổ ích và cần thiết cho việc nghiên cứu và giảng dạy văn học dân gian của bản thân. 
Như vậy, việc nghiên cứu đề tài Kiểu truyện con vật tinh ranh trong truyện dân gian  
Việt Nam và thế giới vừa có ý nghĩa khoa học, vừa có ý nghĩa thực tiễn.
0.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
0.2.1.Việc khảo sát một cách hệ thống về kiểu truyện con vật tinh ranh  ở Việt  
Nam và thế giới giúp chúng tôi thấy được sự  phân bố của kiểu truyện. Hơn nữa, qua 
tập hợp này cũng chứng minh sự  phổ  biến của kiểu truyện trên phạm vi toàn cầu, 
cũng như  thấy được diện mạo, đặc điểm, đặc trưng của nó bên cạnh những kiểu  
truyện khác.
0.2.2. Nghiên cứu kết cấu, nhân vật, hệ  thống motif,… để  làm nổi rõ nét đặc 
trưng của kiểu truyện. Bên cạnh đó, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi thường mở 
rộng so sánh để  thấy được những đặc trưng trong phương thức xây dựng nhân vật, 

10


kết cấu truyện, các motif của Việt Nam cũng như của các khu vực, quốc gia, châu lục  
khác.
0.2.3. Chúng tôi tiến hành đối chiếu kiểu truyện với Bảng tra cứu A – T để vừa 
khẳng định tính ứng dụng của Bảng tra cứu, mặt khác góp phần bổ sung một số type 

truyện của Việt Nam cũng như của một số nước mà công trình chưa “phủ sóng” đến. 
0.3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Tất cả những truyện kể có nhân vật trung tâm là con vật  tinh ranh trong truyện 
dân gian Việt Nam và thế giới (đã được dịch mà người viết thu thập được) đều là đối 
tượng nghiên cứu của  đề  tài. Như  vậy, đối tượng nghiên cứu của đề  tài là những 
truyện kể thỏa mãn hai tiêu chí: Nhân vật chính của truyện là con vật và con vật này 
phải có tính cách tinh ranh. Chúng tôi loại trừ  những truyện có nhân vật trung tâm là 
con vật nhưng không có tính cách tinh ranh hoặc những truyện có nhân vật tinh ranh là 
con người. 
Mặc dù đã cố  gắng rất nhiều cũng như  được sự  hỗ  trợ  từ  nhiều nguồn khác 
nhau trong việc tìm kiếm các nguồn tài liệu nhưng chúng tôi vẫn không dám chắc rằng 
đã bao quát hết kho truyện kể của các nước trên thế giới. Bởi như đã biết, Việt Nam 
là một quốc gia đa dân tộc, việc khai thác vốn truyện kể của tất cả các dân tộc là hết 
sức khó khăn. Tương tự, việc tiếp cận vốn truyện cổ của tất cả các quốc gia trên thế 
giới cũng là điều không hề dễ dàng. Vì vậy, chúng tôi chủ yếu triển khai đề tài trên cơ 
sở thống kê nguồn truyện của các dân tộc thiểu số đã được dịch sang tiếng phổ thông 
và truyện cổ của các nước đã được dịch sang tiếng Viêt. 
Theo những tiêu chí trên, dựa vào 103 tuyển tập truyện kể dân gian (trong đó có  
32 tập truyện, tuyển tập của Việt Nam, 71 tập truyện, tuy ển tập c ủa các nước, châu  
lục), đến nay chúng tôi tập hợp được 512 truyện thuộc kiểu truyện con vật tinh ranh. 
Đây là tài liệu chính để chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài.
0.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

11


Để  thực hiện đề  tài, trước hết trong điều kiện cho phép, chúng tôi tập hợp  
những truyện kể thuộc kiểu truyện con vật tinh ranh của Việt Nam và thế  giới. Trên 
cơ sở đó, chúng tôi tiến hành khảo sát kiểu truyện theo các phương pháp sau: 
1.4.1. Phương pháp thống kê ­ phân loại


Phương pháp này được sử  dụng trong việc khảo sát, phân loại và trong khi so 
sánh đối chiếu. Nhờ phương pháp thống kê mà chúng tôi có được các số liệu để phân 
loại các truyện kể; cũng qua đấy thấy được sự phân bố của kiểu truyện ở các dân tộc,  
quốc gia, khu vực hay châu lục. Các số liệu thống kê cũng cho thấy tần số xuất hiện  
của các con vật tinh ranh. Nhờ  phương pháp này mà chúng tôi có những số  liệu tin 
cậy, làm cơ sở để đưa ra những lý giải thích hợp, những kết luận, khái quát khoa học.
1.4.2. Phương pháp phân tích – tổng hợp

Sau khi đã hoàn thành bước thống kê tư  liệu – phân loại, chúng tôi sử  dụng  
phương pháp phân tích tư liệu. Các truyện kể sẽ được phân tích tỉ mỉ  từng chi tiết và 
đánh giá trên quan điểm phân tích một tác phẩm nghệ thuật dân gian hoàn chỉnh. Trong 
quá trình khảo sát, chúng tôi chú ý phân tích nội dung các truyện, phân tích các nhân 
vật tham gia vào diễn tiến truyện và một số motif của kiểu truyện để từ đó tổng hợp,  
rút ra nhận xét, đánh giá bản chất, đặc trưng của kiểu truyện.
1.4.3. Phương pháp so sánh – loại hình

Phương pháp so sánh – loại hình được sử dụng trong suốt quá trình xử lí đề tài. 
Phương pháp này giúp chúng tôi thấy được những tương đồng và dị  biệt về nhân vật,  
kết cấu, motif,… giữa các dân tộc, đất nước, khu vực khác nhau; so sánh nhằm phát 
hiện và lý giải những vấn đề  nguồn gốc xã hội, cội nguồn văn hóa, môi trường nảy 
sinh… của kiểu truyện; so sánh để thấy được nét gặp gỡ, giao thoa trong kiểu truyện  
con vật tinh ranh của các dân tộc do chịu (hoặc không chịu) ảnh hưởng về văn hóa, xã  
hội,   lịch  sử….   Phương  pháp  so  sánh  sẽ   được   vận  dụng  một  cách  đặc   biệt  trong  
chương 5 – chương so sánh đối chiếu các type trong Bảng tra cứu A – T với các type 
trong kiểu truyện. 
1.4.4. Phương pháp lịch sử ­ địa lý

12



Chúng tôi không sử  dụng phương pháp này để  tìm “quê hương ban đầu” hay 
“con đường di chuyển” của các truyện kể mà để nghiên cứu theo type và motif. Thực 
chất của việc nghiên cứu này là nghiên cứu cấu trúc, nghiên cứu hình thức của tác 
phẩm truyện dân gian, cụ thể hơn là tiến hành phân loại các tác phẩm thành các type  
và motif, khảo sát cấu trúc – dạng thức của type và motif. Chúng tôi sử dụng phương 
pháp lịch sử ­ địa lý nhằm mô tả mô hình kết cấu của type truyện và các motif.
1.4.5. Phương pháp mô hình hóa

Trên cơ sở những phân tích, khảo sát về sự phân loại, phân bố, về cách gọi tên 
truyện, các dạng kết cấu… chúng tôi mô hình hóa thành các công thức, sơ đồ, qua đó  
giúp người đọc dễ dàng nắm được các nội dung trình bày.
0.5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
0.5.1. Như  đã biết, đặt trong tương quan với các tiểu loại, các thể  loại khác, 
truyện loài vật “chưa được chú ý sưu tầm nghiên cứu – nhất là nghiên cứu chuyên 
sâu” [186, tr. 50]. Kết quả nghiên cứu về  kiểu truyện con vật tinh ranh sẽ giúp chúng 
ta có cái nhìn một cách cơ bản, đa diện về  kiểu truyện con vật tinh ranh của Việt Nam  
và thế  giới. Kết quả  này sẽ  là tiền đề  giúp các nhà khoa học tìm hiểu, nghiên cứu 
truyện loài vật nói chung – một tiểu loại vốn ít được quan tâm nghiên cứu cả  ở  Việt 
Nam và thế giới.
0.5.2. Trong quá trình thực hiện đề  tài, chúng tôi luôn chú ý đến việc so sánh  
kiểu truyện giữa các nước, các khu vực, châu lục với nhau. Nhờ  đó, chúng tôi phát  
hiện các giá trị độc đáo riêng biệt, bản sắc cũng như nét chung, tương đồng mang tính 
toàn cầu của kiểu truyện.
0.5.3. Hiện nay, trên bản đồ folklore thế giới, Việt Nam cũng như phần lớn các 
nước Đông Nam Á đang là “một khu vực rộng lớn để  trắng” [dẫn theo 148, tr. 170],  
chưa có sự  định vị. Việc luận án dành Chương 5 để  so sánh, đối chiếu với Bảng tra  
cứu A – T sẽ  cung cấp thêm nguồn tư  liệu cho các nhà nghiên cứu folklore Việt Nam  
thực hiện hoài bão xây dựng Bảng chỉ dẫn về hệ thống type và motif truyện dân gian  
Việt Nam, qua đó góp phần giúp khắc phục tình trạng nêu trên. 

0.6. KẾT CẤU LUẬN ÁN

13


Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ  lục, luận án có 
kết cấu gồm 5 chương:
­ Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và những vấn đề  lý luận liên quan đến  
đề tài.
­ Chương 2: Kết cấu của kiểu truyện con vật tinh ranh.
­ Chương 3: Nhân vật của kiểu truyện con vật tinh ranh.
­ Chương 4: Một số motif thường gặp trong kiểu truyện con vật tinh ranh.
­ Chương 5: Kiểu truyện con vật tinh ranh và Bảng tra cứu A – T.

14


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

I.1.

TỔNG QUAN VỀ  TÌNH HÌNH SƯU TẦM, BIÊN DỊCH VÀ TÌNH 

HÌNH NGHIÊN CỨU 
I.1.1.

Về tình hình sưu tầm, biên dịch các tập truyện 


Ở Việt Nam, truyện cổ được ghi chép từ  rất sớm trong các tác phẩm khởi đầu  
của nền văn học viết như:  Báo cực truyện,  Giao Chỉ  ký, Ngoại sử  ký  (thế  kỷ  XII), 
Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên, Lĩnh Nam chích quái của Vũ Quỳnh, Kiều Phú (thế 
kỷ XIV­XV),... Thế kỷ XIX và thời kì cận đại của thế kỉ XX, hoạt động sưu tầm, biên  
soạn truyện cổ càng được nhiều người chú ý, trong đó, có thể kể đến các công trình 
như:  Chuyện khôi hài  (1882),  Chuyện đời xưa  (1886) của Trương Vĩnh Ký,  Chuyện  
giải buồn (1880: tập 1, 1885: tập 2) của Huỳnh Tịnh Của,  Nam Hải dị nhân (1920) của 
Phan Kế  Bính,…  Liên quan đến đề  tài nghiên cứu, tập truyện đầu tiên xuất hiện 
truyện kể của kiểu truyện này là tập Truyện cổ nước Nam (1932 – 1934) của Nguyễn 
Văn Ngọc. Trên cơ sở nhận thức rằng: “trong khoa văn học dân gian, việc sưu tầm và 
chỉnh lý tư liệu phải được coi là tiền đề hay cơ  sở” [148, tr. 217] nên sau Cách mạng 
tháng Tám (1945) hoạt động sưu tầm, biên soạn mới bắt đầu trở thành một hoạt động 
mang tính khoa học và thành một ngành khoa học độc lập. Từ giai đoạn này, bên cạnh  
các công trình sưu tầm truyện cổ người Việt, còn có các tuyển tập truyện cổ của các 
dân tộc anh em như:  Truyện cổ  tích miền núi  (1958),  Truyện cổ  Tây nguyên  (1961), 
Truyện cổ dân tộc Mèo (1963), Truyện cổ  Việt Bắc (1963),… Một số công trình xuất 
hiện nhiều truyện kể của kiểu truyện đang khảo sát như: Truyện cổ Xê Đăng, Truyện  
cổ  Cà Tu, Truyện cổ  Mạ, Truyện cổ Cơ Ho, Truyện cổ Khơ me Nam Bộ, Truyện cổ  
dân gian Chăm, Truyện cổ  Ê Đê, Truyện cổ  M’nông, Kho tàng truyện cổ  tích Việt  
Nam,  Truyện cổ  các dân tộc Trường Sơn Tây Nguyên,  Truyện cổ  các dân tộc Việt  
15


Nam,… Gần đây, các nhà nghiên cứu có xu hướng tổng hợp thành các tổng tập như 
Tổng tập văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam  (4 tập, 6 quyển), Tổng tập Văn học  
dân gian người Việt (19 tập, 20 quyển) và bộ  Tổng tập Văn học dân gian các dân tộc  
thiểu số Việt Nam (23 tập). Xin điểm qua một số công trình tiêu biểu:
­ Công trình  Truyện cổ  dân gian các dân tộc Việt Nam,  gồm 4 tập do tổ  Văn 
học các dân tộc thuộc Viện Văn học chỉnh lý, biên soạn và xuất bản trong những năm 
1963 – 1967. Đây là cột mốc quan trọng trong việc sưu tầm biên soạn truyện cổ  dân  

gian. Tuyển tập này tập hợp 234 truyện của hơn 30 dân tộc anh em. 
­ Truyện cổ các dân tộc thiểu số miền Nam, gồm 2 tập. Công trình tập hợp 97 
truyện của 20 dân tộc ít người ở miền Nam nước ta, do Hà Văn Thư, Võ Quang Nhơn  
và Y Điêng biên soạn.
­ Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (5 tập) do Nguyễn Đổng Chi sưu tầm, biên 
soạn, khảo dị, giới thiệu 200 truyện của dân tộc Kinh (Việt). Công trình được Nxb  
Văn Sử Địa, Nxb Sử học, Nxb KHXH xuất bản từ năm 1958 đến năm 1985. Năm 1993, 
viện Văn học xuất bản công trình này trọn bộ 5 tập; năm 2000, Nxb Giáo dục gộp lại  
thành 2 tập và cho tái bản. 
­  Từ  năm 2002 ­ 2007, lần lượt các tập của bộ  Tổng tập Văn học dân gian  
người Việt (19 tập, 20 quyển) đã hoàn thành việc công bố  ­ trong đó chúng tôi chú ý  
tập 6, tập 7 ­ truyện cổ tích (do Nguyễn Thị Huế chủ biên). Đây là bộ tổng tập được  
biên soạn dựa theo cách phân loại cốt truyện theo tiểu loại (cổ  tích thần kỳ, cổ  tích  
loài vật và cổ tích sinh hoạt). Bên cạnh bản chính, tác giả còn tập hợp, giới thiệu các 
bản khác có cùng cốt truyện của người Việt hoặc của các dân tộc thiểu số để so sánh, 
đối chiếu.
­ Viện Khoa học Xã hội Việt Nam phối hợp Viện Nghiên cứu Văn hóa tiến  
hành biên soạn và xuất bản bộ  Tổng tập Văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt  
Nam (23 tập) – trong đó, chúng tôi chú ý đến tập 14 – truyện cổ tích do Nguyễn Thị 
Yên chủ biên. Công trình này giới thiệu diện mạo văn học dân gian các dân tộc thiểu  
số Việt Nam theo từng thể loại. Bên cạnh tính quy mô, công trình còn có điểm mới là:  

16


các bản kể được xuất bản dưới hình thức song ngữ (chữ dân tộc hoặc phiên âm tiếng  
dân tộc).
Tuy bắt đầu muộn hơn nhưng từ những năm 60 của thế kỷ trước, công tác biên 
dịch truyện cổ  cũng bắt đầu được chú ý. Liên quan đến đề  tài nghiên cứu, bản dịch 
sớm nhất là  Truyện dân gian Lào  (1962), kế  đến là các tập truyện như   Truyện dân  

gian Trung Quốc (1963), Truyện cổ  Cao Miên (1968),… Từ  những năm 80 ­ 90, công 
việc biên dịch càng được chú ý, đẩy mạnh. Có hàng trăm tập truyện, tuyển tập truyện 
dân gian nước ngoài được chuyển dịch và xuất bản bằng tiếng Việt, trong đó, một số 
công   trình   có   liên   quan   đến   đề   tài   như:  Truyện   cổ   Grim,  Truyện   cổ   dân   gian  
Bêlôrútxia,  Truyện dân gian Nga,  Truyện dân gian Ukraina,  Truyện cổ  dân gian  Ấn  
Độ,  Truyện   cổ   Hàn   Quốc,  Truyện   kể   dân   gian   châu   Phi,  Truyện   cổ   Campuchia, 
Truyện cổ Mã Lai, Truyện cổ Inđônêxia,… Nói về việc biên dịch, biên soạn không thể 
không nhắc đến Ngô Văn Doanh. Ông đã có rất nhiều công trình về  truyện dân gian  
các nước, các châu lục khác nhau, trong số  đó, phải kể  đến bộ  tuyển tập  Truyện cổ 
năm châu,  tuyển tập  Kho tàng truyện cổ  thế  giới  cũng như  tuyển tập về  các nước 
trong khu vực Đông Nam Á. Đây là kho tư  liệu rất quý giúp cho các nhà nghiên cứu 
Việt Nam dễ dàng tiếp cận với kho truyện kể của các nước.
Gần đây, một số  tác giả  đã biên soạn, tuyển chọn truyện kể theo đề  tài, theo  
nhân vật. Chúng tôi quan tâm đến các tập truyện như  Truyện cổ  tích về  các loài vật 
của Phạm Thu Yến, Truyện cổ tích về loài vật của Lan Anh, của Lê Châu, Truyện cổ  
về  các loài vật  của Thúy Quỳnh,  Truyện kể  về  những con vật thông minh   của Sơn 
Khê, Truyện kể về các loài vật của Thu Lan,...
Như  vậy, có thể  khẳng định rằng tình hình sưu tập, biên dịch truyện dân gian  
luôn được các nhà nghiên cứu folklore Việt Nam quan tâm, chú ý. Nhờ vậy, nó đã giúp 
cho người viết có được những cốt truyện cùng các bản kể về kiểu truyện để khảo sát 
và nghiên cứu. Điểm qua các công trình trên có thể thấy rằng, phần lớn các tập truyện, 
tuyển tập được biên dịch là truyện dân gian của các nước trong khối Xã hội chủ nghĩa  
trước đây, các nước trong khu vực Đông Nam Á ­ khối Asean, các nước gần gũi với 
Việt Nam về mặt địa lý và các nước có quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Đây cũng là 
điều dễ  hiểu bởi vì tình hữu nghị  của các nước dựa trên sự  hiểu biết lẫn nhau – mà 
17


một trong những điều cần biết đầu tiên đó là vốn quý của dân tộc: kho tàng văn hóa 
dân gian.

I.1.2.

Về tình hình nghiên cứu

Theo Chu Xuân Diên, năm 1865, O. Mile là người đầu tiên xem truyện loài vật  
như một tiểu loại. Trong cách phân loại này, “truyện cổ tích thần kỳ”, “truyện cổ tích 
động vật” và “truyện cổ tích sinh hoạt” đã được xác định như ba thể loại cơ bản [21,  
tr.241]. Giới thiệu về  tiểu loại này, Từ  điển Văn học – bộ  củ, cho rằng “Truyện cổ 
tích loài vật có sự kết hợp những điều quan sát hiện thực về các con vật với trí tưởng 
tượng nhân cách hóa giới tự nhiên. Ở nhiều nước, tính chất cổ xưa của truyện loài vật  
đã bị  pha trộn với khuynh hướng của người đời sau, mượn truyện loài vật để  nói về 
xã hội loài người. Do đó giữa loại truyện này với truyện ngụ  ngôn có những trường  
hợp không có sự phân biệt thật rạch ròi” [125, tr. 1840]. Hiện nay, các nhà nghiên cứu  
folklore đều thống nhất cho rằng, truyện cổ tích loài vật thường có 3 lớp chính  [149, 
tr. 115 ­ 119]:
­

Lớp truyện hình thành sớm nhất là những truyện vật tổ  gắn với tín  
ngưỡng, tô tem giáo của người nguyên thủy. Lớp truyện này còn bảo lưu khá nhiều 
trong các dân tộc còn ở trình độ phát triển bán khai;

­

Lớp truyện phản ánh đặc điểm của loài vật. Qua đặc tính đó, người ta 
muốn truyền lại cho nhau những tri thức về thế giới tự nhiên nhằm chinh phục nó, sử 
dụng nó phục vụ cho đời sống con người; 

­

Lớp truyện đồ  chiếu quan hệ  xã hội loài người vào quan hệ  của các  

con vật. Lớp truyện này có xu hướng ngụ ngôn hóa.
Tuy được biết đến như  một tiểu loại từ  sớm nhưng truyện loài vật nói chung,  
kiểu truyện  con vật tinh ranh  nói riêng  vẫn chưa được nghiên cứu một cách chuyên 
sâu, đầy đủ. Thực trạng này đã được V. Ia. Propp chỉ  ra, khi ông cho rằng tiểu loại  
truyện cổ  tích loài vật  ở  Nga và các nước phương Tây “chưa từng được coi là đối 
tượng nghiên cứu” [210, tr. 310].  Ở  Việt Nam, vào những năm 90 của thế  kỷ  trước,  
Hoàng Tiến Tựu cũng nhận định: “Bộ  phận truyện kể  về  loài vật chưa được chú ý  
sưu tầm nghiên cứu,  nhất là nghiên cứu chuyên sâu” [186, tr. 50]. Năm 2002, Phạm 
18


Thu Yến cũng nhận thấy thực trạng đó. Nhà nghiên cứu cho rằng: “việc nghiên cứu  
đặc điểm nội dung và nghệ thuật của thể loại này chưa được đầu tư đúng mức” [200,  
tr. 84]. Đến nay, tình hình nghiên cứu tiểu loại cũng như kiểu truyện  con vật tinh ranh 
vẫn chưa được cải thiện là bao. Tuy thế, đây đó đã có một số bài viết nghiên cứu về 
một vấn đề  nào đó của kiểu truyện hoặc một vài ý kiến nhận xét, đánh giá với mục 
đích minh họa cho các công trình nghiên cứu về  những kiểu truyện khác, những vấn  
đề khác. Chúng tôi điểm qua một số bài viết đó.
1. Bảng chỉ dẫn về các kiểu truyện [203] của Anti Aarne và Stith Thompson chia 
truyện kể thành 5 cụm lớn: Truyện cổ tích động vật, Những truyện kể thông thường,  
Truyện cười và giai thoại, Truyện kể  theo công thức và Những truyện còn lại chưa  
phân loại. Trong phần I. Animal tales  ­ truyện cổ  tích động vật lại được hai tác giả 
sắp xếp theo trình tự sau: 
­

Từ 1 – 99: Động vật hoang dã

­

100 – 149: Động vật hoang dã và vật nuôi


­

150 – 199: Người và động vật hoang dã

­

200 – 219: Vật nuôi

­

220 – 249: Chim

­

250 – 274: Cá

­

275 – 299: Các con vật khác và các vật dụng.

Trong các nhóm type truyện trên, A. Aarne và S. Thompsom lại phân cấp và gọi  
tên các type truyện từ  1 – 69 là tiểu nhóm “con vật thông minh” ( the clever animal). 
Như vậy, trong Bảng chỉ dẫn về các kiểu truyện, các type truyện con vật thông minh 
thuộc nhóm truyện động vật hoang dã. Cách phân nhóm này chỉ  có giá trị  tương đối. 
Bởi thực tế các type truyện kể về mưu kế của loài vật còn xuất hiện khá nhiều ở các  
nhóm khác. Tiểu nhóm “con vật thông minh” có 138 type truyện, trong đó có cả  type 
truyện mở rộng của vùng phủ sóng (truyện cổ Phần Lan, một phần của các nước Bắc 
Âu, các nước Nam châu Âu, Đông Nam châu Âu và  Ấn Độ).  Ở  đây, hai tác giả  chú ý  


19


khảo sát và giới thiệu những đơn vị truyện trọn vẹn, lưu truyền trong một vùng địa lý 
nhất định. Vì vậy, nó rất giới hạn trong phạm vi khảo sát và mang tính chọn lựa. 
Gắn liền với Bảng chỉ  dẫn về  các kiểu truyện là công trình gồm 6 cuốn Mục  
lục các motif của văn học dân gian [205] của S. Thompson. Ở đây, Thompson tiếp cận 
truyện kể từ đơn vị motif. Ông sắp xếp các motif theo logic từ các motif huyền thoại,  
siêu nhiên đến các motif hiện thực, hài hước. Ông ký hiệu 23 chương theo các chữ cái 
La tinh từ  A đến Z. Trong mỗi chương, các mục được sắp thành từng nhóm lớn, cứ 
mỗi nhóm được trao cho 100 số hoặc những bội số của 10, ví dụ: B0 – B99: con vật  
huyền thoại, B100 ­ B199: con vật ma thuật. Kế đến, tác giả  cũng chia các nhóm lớn 
này thành từng cụm theo hàng chục. Cụm hàng chục đầu tiên trong một nhóm lớn dành 
cho những  ý tưởng chung  (general idea), những ý tưởng riêng biệt sẽ  xếp tiếp theo.  
Cách làm này được thực hiện tiếp tục trong mỗi cụm nhỏ. Liên quan đến vấn đề 
nghiên cứu là nội dung chương K ­  Deceptions (trò lừa dối, mưu mẹo gian dối, mánh 
khóe lừa bịp), gồm hơn 2300 motif nói về  các mánh lừa dối, việc làm của kẻ cắp và  
tên đểu cáng, những việc lừa phỉnh để  bắt giữ  hoặc để  trốn thoát, sự  dụ  dỗ, ngoại  
tình, trá hình, đánh lừa,… 
Nhìn chung, đây là hai công trình có tính  ứng dụng cao. Nó tỏ  ra có ích cho  
những ai nghiên cứu, tìm hiểu các vấn đề  liên quan – nhất là giúp cho việc “tra cứu”  
(index) được nhanh chóng, thuận tiện. 
2. Năm 1960, Tập san nghiên cứu Châu Phi (Cahiers d’Études africaines) có hai 
bài viết liên quan đến vấn đề  đang nghiên cứu. Đó là bài viết của Denise Paulme bàn 
về việc Phân loại truyện kể về kẻ ranh mãnh ở châu Phi [209] (nội dung bài viết này 
sẽ  được chúng tôi đề  cập đến nhiều hơn trong phần  1.3.2 Sự  phân loại) và bài viết 
Mưu mẹo: những nguyên tắc tra cứu [207] của Claude Braymond. Trong bài viết, nhà 
nghiên cứu lần lượt tìm hiểu các vấn đề  như:  mục tiêu của bẫy  (les fins du piège), 
chiến lược bảo vệ  (stratégies de protection), bẫy trung gian của bẫy (le piège moyen 
d’un piège), cơ  chế  bên trong của bẫy (mécanisme interne du piège),… Với cách làm 

trên, ông đã phân loại cái bẫy (mưu mẹo) dựa vào mục đích mà nó hướng đến. Hướng  
tiếp cận này giúp cho người đọc dễ dàng tra cứu về hệ thống mưu mẹo trong truyện  
kể dân gian châu Phi cũng như áp dụng để nghiên cứu kiểu truyện con vật tinh ranh  ở 
20


các đất nước, châu lục khác. Đây là bài viết đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu về  mưu 
mẹo. Bài viết có giá trị  học thuật cao, hữu ích cho những người nghiên cứu về  kiểu  
truyện mang tính duy lý. 
Cũng nói về truyện kể châu Phi, nhà nghiên cứu người Nga, E. X. Kốtlia có bài 
giới thiệu khá chi tiết về truyện kể của châu lục này. Kốtlia cho rằng: “Truyện kể về 
loài vật chiếm một vị trí rất lớn trong văn học dân gian các dân tộc châu Phi và nếu so 
sánh với truyện cổ tích thần kỳ hay truyện cổ tích thế  tục thì loại truyện này tỏ ra là  
một thể loại đã hoàn toàn phát triển và định hình rõ rệt, với đặc điểm riêng của mình, 
với một cụm chủ đề, với các kiểu nhân vật chính” [94, tr. 29]. Theo ông, kiểu truyện  
con vật tinh ranh là “hình thức cổ điển của thể loại này, là một chuỗi khá đầy đủ  các 
chủ  đề  truyện cổ  xoay quanh một nhân vật phổ  biến kẻ  láu cá (ranh mãnh, lừa đảo,  
bịp bợm), truyện kể các cuộc phiêu lưu và thủ  đoạn của nhân vật này. Nhờ  có sự  láu  
cá và khôn khéo mà nhân vật này đã thắng cuộc trong các tính huống khác nhau” [sđd,  
tr. 29]. Bài viết là những gợi mở, mách bảo rất đáng quý để tìm hiểu kiểu truyện con  
vật tinh ranh.
3. Trong Sáng tác thơ  ca dân gian Nga (tập 1), A. M. Nôvicôva dành một phần 
để bàn về kiểu truyện con vật tinh ranh. Nhà nghiên cứu cho rằng: “Trong loại truyện 
kể về loài vật ở Nga, các truyện cổ tích về con cáo nhiều hơn cả” [138, tr. 277]. Gắn 
liền với con vật này là một chuỗi các motif cáo ăn trộm cá, cáo lừa bịp (bắt cá), cáo 
xưng tội, cáo làm bà đỡ, cáo làm quan tòa, cáo làm mẹ  đỡ  đầu cho sói,… Nôvicôva 
nhận thấy tính hai mặt của nhân vật con vật tinh ranh mà theo nhà nghiên cứu là  
“không phải tiêu biểu với phônclo”. Bà nói thêm “Trong tất cả các truyện, con cáo đều 
được miêu tả là khéo léo, giỏi giang, nhanh trí, mưu mẹo – đó là những tính cách không 
thể  không thán phục. Song đồng thời con cáo cũng được miêu tả  như  là một tên dối  

trá, trộm cắp, tính toán, hay thù oán, tàn nhẫn,… Thái độ  hai mặt đối với nhân vật  
không phải là tiêu biểu đối với phônclo, vì phônclo mang tính chuẩn mực rất chặt chẽ 
và có khuynh hướng bộc lộ  thái độ  hết sức phân minh” [sđd, tr. 277 – 278]. Những  
nhận xét của Nôvicôva không chỉ đúng cho truyện dân gian Nga mà nó còn phù hợp với  
kiểu truyện con vật tinh ranh ở nhiều quốc gia, khu vực khác. 

21


Trước đó, trong công trình Truyện cổ tích [210], V. Ia. Propp dành chương VI để 
nghiên cứu về  truyện cổ  tích loài vật. Trong chương này nhà nghiên cứu đã tìm hiểu  
các vấn đề như  tính đa dạng, tính quy tắc, nguồn gốc, cách phân loại của truyện loài 
vật. Propp nhận định rằng: “Trung tâm của thể  loại truyện cổ  tích về  loài vật là  
những con vật khôn ngoan, hay có thể  gọi là tinh ranh, và bao giờ  cũng là kẻ  chiến 
thắng nhờ ưu thế vượt trội đó của mình” [210, tr. 307]. Theo Propp, ở Nga thời Trung  
đại đã từng tồn tại một dòng văn học về  loài cáo. Nhận xét về  các mưu kế  của con  
cáo, ông cho rằng: “Sự lừa dối  ở đây thể  hiện  ưu thế vượt trội của kẻ  khôn ranh so  
với người ngu đần hay nhẹ  dạ, cả  tin. Theo quan điểm của chúng tôi, sự  lừa dối  
thường bị  phán xét và định kiến về  mặt đạo đức. Nhưng trong truyện cổ  tích về  loài 
vật, ngược lại, sự lừa dối lại tạo sự thán phục, như là một hình thức thể hiện sự khôn  
ngoan vượt trội của kẻ yếu so với kẻ mạnh” [sđd, tr. 310]. Đây là công trình rất có giá  
trị  cho những ai nghiên cứu tìm hiểu về  truyện loài vật nói chung – kiểu truyện con 
vật tinh ranh nói riêng.
 4. Với truyện kể Mã Lai – Inđônêxia thì con can ­ chi (Kancil, Pêlanđúc, mang  
lửa, hươu, hoẵng) là con vật tiêu biểu của trí thông minh, ranh mãnh. Đức Ninh trong  
bài viết Truyện cổ  tích Mã Lai – Inđônêxia [136] đã có những giới thiệu khái quát về 
nhóm truyện đang khảo sát. Theo Đức Ninh, can ­ chi “là con vật nhỏ bé nhưng thông 
minh, lanh lợi, nhanh nhẹn. Đây là hình tượng nhân vật đại diện cho trí thông minh  
của nhân dân. Biết mình nhỏ bé, sức yếu nên con can ­ chi đã phát huy trí thông minh  
để  giải thoát mình trong những tình huống sống còn, khi phải đối mặt với những kẻ 

mạnh, hung dữ, tàn ác” [136, tr. 92]. Với dung lượng của một bài viết ngắn, người đọc 
cũng không thể nào đòi hỏi một sự giải quyết toàn vẹn, thấu đáo hết mọi vấn đề. 
5. Trong quan niệm dân gian của  Ấn Độ, vẹt được xem là một con vật tinh  
khôn.   Khái   quát   về   chùm   truyện   con   vẹt   trong  Truyện   cổ   dân   gian   Ấn   Độ  [46], 
Nguyễn Tấn Đắc cho rằng: “Truyện dân gian Ấn Độ có khá nhiều mẩu chuyện kể về 
những con vẹt thông minh khôn ngoan, biết cách đối phó trong những cảnh ngộ cực kỳ 
khó   khăn”   [46,   tr.   25].   Ở   một   bài   viết   khác,   khi   giới   thiệu   về   truyện   dân   gian 
Campuchia, nhà nghiên cứu nhắc đến chùm truyện con thỏ  của đất nước này. Bên  
cạnh những nét chung về tính cách tinh ranh của con vật tinh ranh, ông còn phát hiện ra 
22


ở  kiểu truyện đặc điểm “không còn có yếu tố  thần kỳ  nào cả, mà chỉ  có trí tuệ. Trí  
tuệ  dân gian đã bịa ra hay nói đúng hơn đã sáng tạo ra tình huống oái ăm, lắt léo, khó  
gỡ, những “tình huống câu đố”, rồi trí tuệ  dân gian lại tự  mình gỡ  giải những tình 
huống đó một cách bất ngờ, dễ dàng, gây hứng thú đặc biệt cho người nghe” [44, tr. 
392]. Tuy chỉ là bài viết ngắn nhưng nó chứa đựng những nhận định có giá trị, gợi mở 
nhiều vấn đề thú vị liên quan đến đề tài nghiên cứu.
6. Ở Việt Nam, trước năm 1990, các giáo trình văn học dân gian vẫn chưa xem 
truyện loài vật như là một tiểu loại truyện cổ tích. Có thực tế này bởi vì tình hình sưu  
tầm truyện cổ  tích loài vật lúc đó chưa đủ  số  lượng tạo nên “vấn đề” để  các nhà  
nghiên cứu tách riêng tìm hiểu. Chính vì thế  mà sau này, khi tiếp cận thêm nguồn tư 
liệu, phương pháp nghiên cứu mới, Võ Quang Nhơn đã thay đổi quan điểm phân loại  
truyện cổ  tích. Ông thẳng thắn thừa nhận: “Vấn đề  phân loại văn học dân gian nói  
chung và phân loại truyện cổ tích nói riêng còn nhiều cách lý giải và xử lý chưa thống 
nhất, chưa phù hợp với yêu cầu khoa học” [121, tr. 436]. Từ  nhận thức đó, ông điều 
chỉnh lại cách phân loại truyện cổ tích các dân tộc thiểu số, gồm:  Truyện cổ tích thần  
kỳ, cổ  tích loài vật và cổ  tích sinh hoạt. Đây là quá trình tự  luận chiến để  thay đổi 
quan niệm phân loại. Võ Quang Nhơn thực sự là người có nhiều đóng góp trong việc 
sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian các dân tộc thiểu số.    

Thực ra thì từ năm 1984, trong mục từ “truyện cổ tích” ( Từ điển văn học – tập 
2, bộ cũ), Chu Xuân Diên đã xem truyện cổ tích loài vật là một tiểu loại. Nhận định về 
tiểu loại này, nhà nghiên cứu khái quát: “Ở  loại truyện cổ tích về loài vật, có sự kết 
hợp những điều quan sát hiện thực về các con vật với trí tưởng tượng nhân cách hóa  
giới tự nhiên” [125, tr. 453]. Những khái quát ngắn gọn này có tính gợi mở cao.
Kế  thừa thành quả  của bộ  giáo trình do Đinh Gia Khánh chủ  biên, đồng thời  
vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu tiên tiến trong và ngoài nước, năm 1990, bộ 
giáo trình Văn học dân gian của trường Đại học Tổng hợp do Lê Chí Quế  chủ  biên 
được xuất bản. Cùng thời điểm này, Hoàng Tiến Tựu (1990) cũng cho xuất bản bộ 
giáo trình của ông. Cả  hai bộ  giáo trình đều xem truyện cổ  tích loài vật là một tiểu 
loại riêng. Nhắc đến kiểu truyện này, Lê Chí Quế đã có những nhận định gợi mở rất  
đáng quý. Theo tác giả  “kết cấu phổ  biến của những câu chuyện về  con vật thông  
23


minh (đôi khi láu cá) là sự chiến thắng của con vật bé hơn với con vật lớn hơn không 
phải bằng sức lực mà bằng trí”. Từ  nhận định đó, nhà nghiên cứu đề  cập đến kiểu  
truyện con thỏ tinh ranh, ông cho rằng “con thỏ bé nhỏ nhưng nhanh nhẹn, thông minh 
đã lập mưu lừa được cả voi, hổ, cá sấu là những con vật to khoẻ và độc ác” [149, tr. 
116 ­ 117]. Lê Chí Quế cũng cho rằng, truyện kể về con thỏ không chỉ xuất hiện nhiều  
trong truyện dân gian Việt Nam mà còn là con vật tiêu biểu trong truyện dân gian 
Campuchia, vùng Đông Nam Á và nhiều nước trên thế giới.
Năm 2000, Lê Trường Phát biên soạn tài liệu  Thi pháp văn học dân gian cũng 
nhắc đến nhân vật con thỏ  tinh ranh. Ông cho rằng “nhân vật con thỏ  nổi tiếng tinh  
khôn, hiểu biết về nhiều lĩnh vực trong truyện của các dân tộc thiểu số, nhất là ở các  
dân tộc miền núi Trường sơn và các dân tộc Khơ me Nam Bộ, Chăm…” [140, tr. 61].  
Tiếp nối công trình trên, năm 2002, Phạm Thu Yến công bố  bài viết   Vấn đề  giới  
thiệu, nghiên cứu đặc điểm truyện cổ tích loài vật với việc sáng tác cho thiếu nhi hiện  
nay. Phạm Thu Yến cho rằng: “chúng ta có một kho truyện cổ tích loài vật phong phú 
về số lượng, đặc sắc về nghệ thuật”. Tuy vậy, nhà nghiên cứu cũng nhận thấy “việc 

nghiên cứu đặc điểm nội dung và nghệ thuật của thể loại này chưa được đầu tư đúng 
mức. Hầu như  chưa có một công trình nào lấy truyện cổ  tích loài vật làm đối tượng  
nghiên cứu riêng  biệt  (…) chưa  có  bài  nghiên  cứu nào  hướng  đến  việc  khảo sát, 
nghiên cứu truyện cổ  tích loài vật một cách độc lập như  một đối tượng nghiên cứu 
riêng” [200, tr. 84]. Sau khi có những nhận xét khái quát, nhà nghiên cứu lần lượt tìm 
hiểu các nội dung như: vấn đề  tuyển chọn và giới thiệu truyện cổ  loài vật, vấn đề 
phân biệt truyện loài vật với truyện ngụ ngôn hay những đặc điểm về  nhân vật, kết 
cấu….của thể loại này.
7. Gần đây, dưới sự chủ trì của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện nghiên 
cứu Văn hóa đã lần lượt cho  ấn bản bộ  Tổng tập Văn học dân gian người Việt  (19 
tập, 20 quyển) va b
̀ ộ  Tổng tập Văn học dân gian các dân tộc thiểu số  Việt Nam (23 
tập). Bên cạnh nội dung chính là các truyện kể, Nguyễn Thị  Huê và Nguy
́
ễn Thị  Yên 
đã có những bài tổng thuật, giới thiệu về tình hình sưu tập, nghiên cứu truyện cổ Việt 
Nam từ trước đến nay. Trong bài Khai luân
̉
̣  (dung chung cho ca hai tâp 6 va 7), 
̀
̉
̣
̀ khi giới 
thiệu về tiểu loại truyên cô tich loai vât, Nguy
̣
̉ ́
̀ ̣
ễn Thị Huế đã có kết luận rất cô đọng –  
24



mà chúng tôi gọi là tổng kết “ba không – một có”. Nhà nghiên cứu cho rằng kiểu 
truyện này “không có nhân vật lý tưởng, không có kết thúc có hậu, không có công thức  
và mang tính chất hiện thực” [74, tr. 33]. Đây là những đúc kết có tính gợi mở rất cao.  
Con Nguy
̀
ễn Thị Yên trong baì Dẫn luận truyện cổ tích các dân tộc thiểu số Việt Nam 
đã có những nhận định mang tính tổng kết đầu tiên về  tiểu loại này trong kho tàng  
truyện cổ  các dân tộc thiểu số Việt Nam.  Ở đây, nhà nghiên cứu chú ý đến tính đối  
lập giữa con vật thông minh và các đối thủ: “Đặc điểm tính cách của loài vật cũng 
được đưa vào nhóm truyện về những con vật thông minh như thỏ, khỉ, cáo mà đối lập 
với nó là những loài vật to xác nhưng hữu dũng vô mưu như hổ, sư tử, sói, cá sấu và 
đôi khi còn có cả  voi mà  ở  mỗi dân tộc lại có những sáng tạo riêng” [198, tr. 62]. So  
với truyện cổ tích loài vật của người Việt thì truyện của các dân tộc thiểu số đa dạng,  
phong phú về nội dung hơn, cốt truyện sinh động, mộc mạc và có phần chân thực hơn 
[sđd, tr. 66 ­ 67]. Đây  là “bộ sách đầu tiên tập hợp được số lượng lớn truyện cổ tích  
của các dân tộc thiểu số  dưới dạng song ngữ  và “được sắp xếp theo các tiểu loại”  
[sđd, tr. 80].
8. Năm 2005, dưới sự hướng dẫn khoa học của Chu Xuân Diên, chúng tôi thực  
hiện đề  tài  Kiểu truyện con thỏ  tinh ranh trong truyện cổ  Việt Nam   [40]. Qua công 
trình này chúng tôi đã phác thảo chân dung về kiểu truyện ở Việt Nam. Thỏ ­ nhân vật 
chính của kiểu truyện, luôn đóng vai là kẻ chủ động đánh lừa, chơi khăm các nhân vật 
to lớn, có sức mạnh hơn nó. Phần thắng lợi trong những lần “chạm trán” thường 
thuộc về thỏ. Với số lượng bản kể có hạn (58 truyện) và trong phạm vi giới hạn (loài  
thỏ và chủ yếu khảo sát ở Việt Nam) nên công trình vẫn bỏ ngỏ nhiều điều thú vị và 
buộc phải mở rộng nghiên cứu khi có điều kiện.
9. Ngoài ra, trong khá nhiều tập truyện, bên cạnh nội dung chính là các bản kể,  
chúng tôi cũng ghi nhận được nhiều nhận định, khái quát rất đáng quý qua các  lời giới  
thiệu  của các tập truyện này. Chẳng hạn như  nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng  
trong lời giới thiệu của Truyện cổ  Khơ me Nam Bộ cho rằng con thỏ tinh ranh thuộc  

“nhóm nhân vật nhỏ  bé, có nhiều đức tính đáng quý như  thông minh, mưu trí, dũng  
cảm” [174, tr.13]; Y Thi trong Truyện cổ  M’nông lại khái quát về  cách  ứng xử  thông 
minh của nhân vật con thỏ. Ông cho rằng “nhân vật con thỏ tinh ranh có cách ứng xử 
25


×