Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Tóm tắt luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Con người Trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (696.57 KB, 28 trang )

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Văn học nhà nho là bộ phận cơ ban va quan tr
̉
̀
ọng, hàng đầu trong lịch sử văn học 
Việt Nam thơi trung đ
̀
ại (từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX). Bô phân văn hoc nay hiên con
̣
̣
̣ ̀ ̣
̀ 
nhiêu vân đê ch
̀ ́ ̀ ưa được tim hiêu, nghiên c
̀
̉
ưu ho
́ ặc có được tìm hiểu, nghiên cứu nhưng  
chưa hẳn đã sát, đúng với bản chất của nó. Chẳng hạn, ngay phạm trù Nho gia (nhà nho) 
ở  Việt Nam có phải chỉ giới hạn trong “cộng đồng” những người tôn thờ  học thuyết 
Khổng ­ Mạnh?; nhà nho Việt Nam cũng như văn học nhà nho Việt Nam có gì khác biệt 
so với nhà nho và văn học nhà nho Trung Quốc?; Cũng là nhà nho Việt Nam nhưng tùy 
theo từng vùng miền (Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ) mà trong sáng tác của họ có những 
điểm khác biệt nhau?, đâu là mô hình chung và đâu là những biến thức từ mô hình chung?,  
v.v... Thiết nghĩ, mọi tìm hiểu, nghiên cứu về văn học nhà nho Việt Nam ở từng thời kỳ,  
từng giai đoạn lịch sử, ở từng vùng miền khác nhau của đất nước đều ít nhiều có thể góp 
phần trả lời cho các câu hỏi trên.
1.2. Văn học nhà nho Nam Bộ mà chúng tôi đề cập ở đây chỉ bộ phận văn học phát 
triển trong bối cảnh đặc biệt của lịch sử dân tộc nửa sau thế kỷ XIX ­ giai đoạn mà 
Nam Bộ nói riêng, Việt Nam nói chung phải đối mặt với sự xâm lược của thực dân 


Pháp. Việc đi sâu nghiên cưu văn h
́
ọc nhà nho không chỉ xuất phát từ nhưng bi ân cua qua
̃
́̉
̉
́ 
khư ch
́ ưa co ĺ ơi giai thoa đang ma con h
̀ ̉
̉ ́
̀ ̀ ướng tới việc tim kiêm, xây đăp nh
̀
́
́ ưng gia tri tinh
̃
́ ̣
 
thân cho hiên tai va t
̀
̣ ̣ ̀ ương lai. Văn hoc nha nho Nam Bô 
̣
̀
̣ ở giai đoan n
̣ ửa sau thê ky XIX có
́ ̉
 
vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng trong lịch sử văn học dân tộc. Ngoai nh
̀ ưng điêm chung
̃

̉
 
cua văn hoc nha nho, văn h
̉
̣
̀
ọc nhà nho Nam Bộ  con co nh
̀ ́ ưng đăc điêm riêng do nhiêu
̃
̣
̉
̀ 
nguyên nhân tac đông b
́ ̣
ởi bôi canh lich s
́ ̉
̣ ử, xa hôi, văn hoa vung mi
̃ ̣
́ ̀
ền,… Còn nhiêu vân đê
̀ ́ ̀ 
cua văn hoc nha nho Nam Bô ch
̉
̣
̀
̣ ưa được đi sâu tìm hiểu nghiên cứu, trong đó có vấn đề 
con người trung nghĩa. 
1.3. Con người bao giờ cũng là đối tượng chính yếu, đối tượng trung tâm của văn 
học. Thành công hay đóng góp của văn học cho lịch sử ­ văn hóa ­ xã hội loài người, trước 
hết phải là ở sự tìm hiểu, khám phá con người, ở cái nhìn và sự lý giải về con người.  

Đành rằng ở từng tác giả văn học đều có những nét riêng trong tìm hiểu, khám phá về con  
người nhưng cùng một loại hình tác giả và loại hình văn học, nhất là cùng một bối cảnh  
lịch sử ­ văn hóa ­ xã hội, có thể tìm thấy mẫu số chung (hay những nét chung) về một  
dạng thái con người chủ đạo trong văn học. Dạng thái con người chủ đạo ấy trong văn 
học nhà nho Nam Bộ giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX là con người trung nghĩa. Con người 
trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX vừa mang tính phức tạp  
của lịch sử, vừa mang nét đặc thù của vùng miền. Đây là vấn đề đòi hỏi phải có cái nhìn  
hệ thống, bao quát, chuyên sâu với những khảo sát, phân tích xác thực để xác định đúng 
bản chất và ý nghĩa xã hội ­ thẩm mỹ sâu sắc của nó. Con người trung nghĩa trở thành 
hình tượng thẩm mỹ có sức khái quát lớn, là mẫu hình con người có cái đẹp và sức sống 
riêng của vùng đất Nam Bộ. Cho đến nay, nhìn chung đây vẫn là vấn đề mới, chưa được  
quan tâm nghiên cứu một cách thỏa đáng. 
1


1.4. Trong chương trình Ngữ văn ở trung học phổ thông và các trường đại học, văn 
học Việt Nam chiếm dung lượng lớn mà phần văn học yêu nước của các nhà nho cuối 
thế kỷ XIX là một bộ phận hết sức quan trọng, đặc biệt là văn học nhà nho Nam Bộ. 
Nghiên cứu vấn đề này có ý nghĩa giúp cho việc tìm hiểu văn học nhà nho nói chung, văn 
học nhà nho Nam Bộ nói riêng được tốt hơn. Nghiên cứu văn học nhà nho và con người 
trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX còn có ý nghĩa quan trọng 
thiết thực trong thực tiễn giáo dục hiện nay, nhất là đối với việc tìm kiếm mẫu hình con  
người Việt Nam trong thời kỳ  đổi mới trên cơ  sở  biết tiếp thu những giá trị  truyền 
thống. 
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu vấn đề  con người trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ  nửa 
sau thế  kỷ  XIX, luận án nhằm chỉ  ra, làm rõ những đặc trưng của mẫu hình con  
người trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ ở môt giai đoan đăc biêt cua lich s
̣

̣
̣
̣ ̉ ̣
ử 
dân tôc̣ ; xác định những đóng góp có ý nghĩa xã hội ­ thẩm mỹ của văn học nhà nho 
Nam Bộ qua việc thể hiện con người trung nghĩa; từ đây đề xuất một số vấn đề về 
nghiên cứu và tiếp nhận văn học nhà nho ở một vùng miền có nhiều đặc điểm riêng.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích đề ra, luận án thực hiện nhiệm vụ cơ bản sau:
2.2.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu và nêu cơ sở lý thuyết của đề tài.
2.2.2. Xác định vai trò, vị trí của văn học nhà nho Nam Bộ trong lịch sử văn học dân 
tộc giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX. 
2.2.3. Khảo sát, phân tích, luận giải con người trung nghĩa với các dạng thái và 
đặc điểm của nó trong văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX.
2.2.4. Khảo sát, phân tích, chỉ ra những nét chính, nổi bật trong phương thức thể 
hiện của văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX. 
Cuối cùng rút ra một số kết luận về con người trung nghĩa trong văn học nhà nho  
Nam Bộ và đề xuất một số vấn đề nghiên cứu có liên quan. 
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu của luận án là Con người trung nghĩa trong văn học nhà nho  
Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Luân an tâp trung tim hiêu, nghiên c
̣ ́ ̣
̀
̉
ưu con ng
́
ươi trung nghĩa trong văn h
̀

ọc nhà nho 
Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX. Bộ phận văn hoc 
̣ này rât phong phu va cung đây ph
́
́ ̀ ̃
̀ ưc tap,
́ ̣  
do nhiêu kiêu tac gia nha nho thuôc nhiêu khuynh h
̀
̉ ́
̉
̀
̣
̀
ương t
́ ư tưởng khac nhau
́
, viêt́  băng
̀  
nhiêu thê loai
̀
̉ ̣  và ngôn ngữ khác nhau. Quan tâm tât ca, nh
́ ̉ ưng luân an tâp trung vao sáng
̣ ́ ̣
̀
 
tác của các tac gia nhà nho vi
́
̉
ết bằng chữ  Hán, chữ  Nôm (tiêu biêu nh

̉
ư: Phan Thanh 
Giản, Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Thông, Phan Văn 
Trị, Nguyễn Hữu Huân, Nhiêu Tâm, Học Lạc,...). Về văn ban sang tac cua cac nha nho
̉
́
́ ̉
́
̀  
Nam Bô ̣ ở giai đoan n
̣ ửa sau thê ky XIX, luân án d
́ ̉
̣
ựa vao cac tai liêu: 
̀ ́ ̀ ̣ Thơ văn yêu nươć  
nửa sau thê ky XIX
́ ̉
 (1858 ­ 1900); Thơ văn yêu nước Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX do Bảo 
Định Giang biên soạn, Ca Văn Thỉnh giới thiệu;  Nguyễn Đình Chiểu toàn tập do Ca Văn 
2


Thỉnh, Nguyễn Sỹ  Lâm, Nguyễn Thạch Giang biên khảo và chú giải;   Thơ  văn Phan  
Thanh Giản do Phan Thị Minh Lễ, Chương Thâu biên soạn; Bộ sưu tập  Lương Khê Thi  
văn thảo do chính Phan Thanh Giản và các con trai của ông sưu tầm, biên tập và khắc in;  
Tác phẩm Nguyễn Thông do Cao Tự Thanh ­ Đoàn Lê Giang biên soạn nhân kỷ niệm lần  
thứ 100 ngày mất của Nguyễn Thông; Phan Văn Trị ­ cuộc đời và tác phẩm do Nguyễn 
Khắc Thuần, Nguyễn Quảng Tuân sưu tâm, biên soan;
̀
̣  Di cảo thơ  trào phúng Nhiêu  

Tâm do Nguyễn Xuân Hoanh sưu tâm, biên soan. Nhiêu tai liêu khac co th
̀
̣
̀ ̀ ̣
́ ́ ơ văn cua nha
̉
̀ 
nho Nam Bô n
̣ ửa sau thê ky XIX nh
́ ̉
ư: Văn học miền Nam Lục tỉnh, tập 3 với chủ đề Văn 
học Hán Nôm thời kháng Pháp và thuộc Pháp do Nguyễn Văn Hầu biên soạn.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  
Để thực hiện đề tài này, luận án sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu  
sau:
­ Phương pháp liên ngành: Phương pháp liên ngành giúp cho việc huy động các 
nguồn tri thức khác nhau (về  văn hóa, lịch sử, chính trị, xã hội, nhân học, văn học) 
nhằm tham chiếu, soi tỏ, phục vụ cho vấn đề được tập trung nghiên cứu (con người 
trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX).
­ Phương pháp lịch sử: Phương pháp này giúp trình bày vấn đề (quan niệm trung  
nghĩa và con người trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ) trong tiến trình vận 
động và phát triển của nó, đồng thời dùng để tái diễn những nét lớn của bối cảnh lịch 
sử ­ văn hóa ­ xã hội ảnh hưởng đến văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX.
­ Phương pháp thông diễn học: Phương pháp này được áp dụng, giúp giải thích  
các thuật ngữ, quan niệm trung nghĩa, con người trung nghĩa trong văn học nhà nho 
Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX.
­ Phương pháp thống kê ­ miêu tả: Phương pháp này được vận dụng nhằm thống 
kê, miêu tả, trình bày những nội dung cụ thể, chi tiết của văn học nhà nho Nam Bộ nửa  
sau thế kỷ XIX liên quan đến con người trung nghĩa.
­ Phương pháp phân tích ­ tổng hợp: Phương pháp này dùng để phân tích và tổng  

hợp các yếu tố qua tác phẩm và hệ thống các tác phẩm, nhằm làm rõ những đặc điểm  
của con người trung nghĩa và sự thể hiện con người trung nghĩa của các nhà nho Nam 
Bộ trong văn học nửa sau thế kỷ XIX.
­ Phương pháp so sánh ­ đối chiếu: Phương pháp này dùng để  chỉ  ra sự  tương 
đồng và khác biệt, sự đa dạng và thống nhất trong quan niệm (về trung nghĩa và con 
người trung nghĩa) của các tác giả nhà nho cùng vùng miền (Nam Bộ) cũng như khác 
vùng miền (Nam Bộ, Trung Bộ, Bắc Bộ). 
­ Phương pháp loại hình: Phương pháp này vận dụng tiêu chí loại hình (loại hình  
tác giả, loại hình tác phẩm, loại hình văn học) để nhìn vấn đề theo hệ “cộng đồng giá 
trị”.
­ Phương pháp cấu trúc ­ hệ thống: Phương pháp này được dùng để xâu chuỗi, hệ 
thống vấn đề nghiên cứu và nhìn chúng trong tính cấu trúc chỉnh thể...
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN

3


6.1. Luận án là công trình nghiên cứu về con người trung nghĩa trong văn học nhà 
nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX với cái nhìn tập trung và hệ thống.
6.2. Với vấn đề được nghiên cứu, luận án cố gắng bao quát, phác thảo bức tranh  
văn học nhà nho Nam Bộ  nửa sau thế  kỷ  XIX từ diện mạo đến đường hướng vận 
động, phát triển và vai trò, vị trí của nó trong lịch sử văn học dân tộc. 
6.3. Luận án là công trình đi sâu khảo sát, phân tích, xác định những đặc điểm nổi 
bật của con người trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX, từ 
đây góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề phức tạp, không dễ lĩnh hội về nội dung, tư 
tưởng của bộ phận văn học này. 
6.4. Luận án chỉ ra, xác định và làm rõ những đặc điểm chủ yếu trong phương thức 
thể hiện con người trung nghĩa của văn học nhà nho Nam Bộ giai đoạn nửa sau thế kỷ 
XIX.
6.5. Kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc tìm hiểu, 

nghiên cứu về con người trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ nói riêng, văn học 
nhà nho nói chung ở môt giai đoan đăc biêt cua lich s
̣
̣
̣
̣ ̉ ̣ ử dân tôc: giai đoan n
̣
̣ ửa sau thê ky XIX.
́ ̉
 
7. CẤU TRÚC LUẬN ÁN
Ngoài  Mở  đầu,  Kết luận  và  Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận án 
được triển khai trong bốn chương:
Chương 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu và cơ sở lý thuyết của đề tài
Chương 2. Cơ sở hình thành và vai trò, vị thế của văn học nhà nho Nam Bộ nửa  
sau thế kỷ XIX trong lịch sử văn học dân tộc 
Chương 3. Đặc điểm của con người trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ  
nửa sau thế kỷ XIX
Chương 4. Phương thức thể  hiện con người trung nghĩa của văn học nhà nho  
Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX
       Chương 1

                       TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 
                       VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Vấn đề nghiên cứu văn học nhà nho và văn học nhà nho Nam Bộ nửa  
sau thế kỷ XIX
1.1.1.1. Về văn học nhà nho trong lịch sử văn học Việt Nam trung đại nói chung
Văn học nửa sau thế kỷ XIX là một giai đoạn văn học có vai trò, vị trí quan trọng  
trong lịch sử văn học dân tộc. Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về văn 

học, trong đó có đê câp văn hoc Nam B
̀ ̣
̣
ộ nửa sau thế kỷ XIX. Vì vậy có bao nhiêu công  
trình nghiên cứu về văn học thời kỳ này, thì dường như có bấy nhiêu công trình đề cập 
văn học nhà nho, hoặc ở dạng khái quát, văn học sử; hoặc ở dạng đi sâu vào từng tác 
giả, tác phẩm cụ thể. Trước hết, có thể  thấy có các công trình nghiên cứu của Trần 
Trọng Kim, Phan Bội Châu, Ngô Tất Tố, Đào Duy Anh, Nguyễn Đăng Thục, Nguyễn 
4


Hiến Lê, Giản Chi, Nguyễn Duy Cần, Bùi Văn Nguyên,… nghiên cứu văn học Nho giáo,  
văn học nhà nho càng được chú ý hơn. Công trình của Dương Quảng Hàm nói về sự ảnh 
hưởng của văn hóa Tàu, chữ nho. Trong những năm 1945 ­ 1954, có thể kể thêm một số 
công trình của Nghiêm Toản, Nguyễn Tường Phượng ­ Bùi Hữu Sủng, Phạm Thế Ngũ, 
Thanh Lãng đã khẳng định sự tồn tại văn học nhà nho và có những nhận định đánh giá  
văn học nhà nho. 
Từ sau Cách mạng tháng Tám đến đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, đáng chú ý là 
công trình của Trần Văn Giàu nghiên cứu Nho giáo trên phương diện tư tưởng chứ chưa  
nhấn mạnh vai trò Nho giáo tới đời sống văn học. Trong những năm gần đây, giới 
nghiên cứu quan tâm nhiều về  loại hình nhà nho, tiêu biểu như  Nguyễn Khắc Viện, 
Trần Đình Hượu, Quang Đạm. Đặc biệt Trần Đình Hượu quan tâm đến mối quan hệ 
giữa văn học và Nho giáo với nhiều nhận định sâu sắc. Từ  sau ngày thống nhất đất  
nước, việc nghiên cứu văn học sử có những thay đổi lớn, đem lại cái nhìn mới và góp  
thêm tiếng nói phong phú và đa dạng về văn học nửa sau thế kỷ XIX.
Về văn học nửa sau thế kỷ XIX có thể kể tên một số nhà nghiên cứu tiêu biểu như:  
Nguyễn Lộc, tập thể tác giả Đại học Sư phạm I,  Trần Ngọc Vương, Trần Nho Thìn, 
Nguyễn Văn Thịnh, Trần Nghĩa, Đoàn Lê Giang, Kiều Thu Hoạch, Cao Tự Thanh,... Các 
tác giả bàn về văn học nhà nho, nghiên cứu về Nho giáo, nêu sơ lược về nguồn gốc, lịch  
sử hình thành cũng như quan niệm, tư tưởng và cách nghĩ của hai loại hình nhà nho chính 

thống. Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đã giải quyết được các vấn đề cơ bản 
mang tính lý thuyết của văn học nhà nho từ góc nhìn xã hội học ­ lịch sử và văn hóa. Các 
nhà nghiên cứu đã xác lập được một số điểm quan trọng mang tính lý luận về văn học  
nhà nho nói chung. Tuy nhiên, còn nhiều vấn đề cụ thể cần phải được nghiên cứu thêm.
Cac bai viêt đê câp vân đê văn hoc nha nho Vi
́ ̀ ́ ̀ ̣
́ ̀
̣
̀
ệt Nam noi chung, tr
́
ước hết có thể kể 
đến: “Quan niệm văn học của một số nhà nho Việt Nam” (1963) của Nguyễn Đức Vân; 
“Tìm hiểu thiên đạo quan của triều đình và của các nhà nho trong thời Nguyễn” (1969) 
của Trần Văn Giàu; “Thử tìm hiểu quan niệm “Thi dĩ ngôn chí” của nhà Nho” (1973)  
của Trần Lê Sáng; “Tính chất phản kháng trong thơ  văn bình dân Nam Kỳ  thời Pháp  
thuộc” (1974) của Long Điền; “Mối quan hệ giữa cái tôi nhà nho và thực tại trong văn 
chương thời cổ” (1994) của Trần Nho Thìn; “Sự công phá bên trong của đạo đức nhân 
dân đối với đạo đức nho giáo ở một tác phẩm văn học cụ thể: Lục Vân Tiên” (1994) của 
Nguyễn Đình Chú;… Các bài viết trên đề cập tình hình nghiên cứu văn học của các nhà 
nho, quan niệm văn học của nhà nho, cái tôi nhà nho, đạo đức nhân dân đối với đạo đức  
Nho giáo, văn chương yêu nước của nhà nho trung nghĩa, sự hình thành, phát triển và kết  
thúc của loại hình tác giả nhà nho,…

5


Về cac công trình, bai viêt c
́
̀ ́ ủa tác giả nước ngoài nghiên cứu về Việt Nam như:  

The Birth of Vietnam  (1983) và  A History of the Vietnamese  (2013) của K.M. 
Taylor, được nhìn từ góc độ thân phận con người để nghiên cứu và viết lại lịch sử 
Việt Nam, đê câp con ng
̀ ̣
ười Việt Nam. Một số công trình khác nghiên cứu về 
Nho học, văn học nửa sau thế kỷ XIX như: Rethinking confucianism, Past and 
Present in China, Japan, Korea, and Vietnam (2002) của BA. Elman, JB. Duncan,  
H. Ooms bàn về nho học ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam từ 
th
quá khứ đến hiện đại;  A Mid­19    Century Southern Literature “L
 
ục Vân Tiên”,   
and the Anti ­ French Resistance của Choi Byung ­ Wook tìm hiểu về văn học nửa 
sau thế  kỷ  XIX có đề  cập  Lục Vân Tiên  và cuộc kháng chiến chống Pháp; 
Etudesur la littérature annamite poesies et chants populaires của E. Villard nghiên 
cứu về văn học An Nam, trong đó có phân tích truyện Lục Vân Tiên;… Tuy tình 
hình nghiên cứu cả ở trong và ngoài nước về văn học nhà nho khá đa dạng, sôi nổi 
nhưng cho đến nay vẫn chưa có một công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu 
con người trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX. Vì thế, 
luận án này có thể  coi là công trình đầu tiên tiếp cận vấn đề  trên theo hướng  
chuyên sâu và hệ thống. 
1.1.1.2. Về văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX 
Trong các công trình nghiên cứu, các tác giả đề cập văn học nhà nho nói chung, trong 
đó có văn học nhà nho Nam Bộ. Hầu hết các công trình đều khẳng định vai trò, vị trí của các 
nhà nho Nam Bộ đối với sự phát triển văn học dân tộc. Về loai công trinh đi sâu nghiên c
̣
̀
ứu 
thơ văn của nhà nho Nam Bộ có Thơ văn yêu nước Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX  do Bảo 
Định Giang biên soạn, Ca Văn Thỉnh giới thiệu. Ca Văn Thỉnh cho rằng: “Thơ văn Nam Bộ 

phản ánh đặc tính của nhân dân Nam Bộ: thơ văn đầy nhiệt tình yêu nước, tinh thần đấu  
tranh vì nghĩa cả, vì nước, vì dân”; “Thấy việc nghĩa phải làm, trước nạn ngoại xâm có 
nghĩa là phải cứu nước cứu nhà, dù phải hy sinh tính mạng cũng không lùi bước”… Bảo  
Định Giang trong tiểu luận Những ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Nam Bộ nửa sau thế  
kỷ XIX có giới thiệu các danh nhân văn học nửa sau thế kỷ XIX, để phổ biến di sản tinh  
thần của tiền nhân cho những thế hệ sau. Về Nguyễn Đình Chiểu, có Nguyễn Đình Chiểu  
­ Về tác gia và tác phẩm do Nguyên Ngoc Thiên tuy
̃
̣
̣
ển chọn các bài nghiên cứu, phê bình ­ 
tiểu luận, trích đoạn chương sách từ những công trình nghiên cứu tiêu biểu. Có những bài  
viết tiếp cận tác phẩm từ góc độ truyền thống văn hóa, mối quan hệ giữa đạo đức và thẩm 
mỹ, thế giới quan, hình tượng thời gian, chữ  dân và nước, giá trị nghệ thuật, ngôn ngữ 
nghệ thuật,… Đối với tác giả Nguyễn Thông, co:́ Nguyễn Thông ­ con người và tác phẩm  
do Ca Văn Thỉnh va B
̀ ảo Định Giang trich dich và gi
́ ̣
ơi thiêu. Khi đánh giá con ng
́ ̣
ười và tác 
phẩm của Nguyễn Thông, các nhà nghiên cứu đều cho rằng Nguyễn Thông có nhiều đóng 
góp trên nhiều lĩnh vực. Về Phan Thanh Giản và một số nhà nho khác, có  Chân dung Phan  
Thanh Giản của Nguyễn Duy Oanh; Ky yêu
̉ ́  Hôi thao khoa hoc vê Phan Thanh Gian
̣
̉
̣ ̀
̉ ; Nhận  
thức thêm một bước về thân thế, sự nghiệp, cuộc đời của Phan Thanh Giản đã tìm hiểu rõ 

hơn thân thế, sự  nghiệp cũng như  nhận thức, đánh giá sâu thêm về  Phan Thanh Giản;  
Nguyễn Hữu Huân nhà yêu nước kiên cường, nhà thơ bất khuất do Phạm Thiều chủ biên, 
Cao Tự Thanh, Lê Minh Đức khảo luận, dịch và sưu tầm… Cũng rất cần phải kể đến các  
bài viết khác đề cập các tác giả văn học nhà nho Nam Bộ… Việc nghiên cứu văn học nhà 
6


nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX có ý nghĩa tích cực về mặt quan điểm, phương pháp 
nghiên cứu,… góp phần làm rõ hơn những giá trị văn học nhà nho Nam Bộ và đóng góp của 
các tác giả vào quá trình phát triển của lịch sử văn học dân tộc. Những thành tựu đã có trong  
tìm hiểu, nghiên cứu, đặc biệt trong sưu tầm, tập hợp, biên dịch, biên soạn tư liệu về văn 
học nhà nho Nam Bộ là rất đáng khẳng định. Đấy là thuận lợi lớn cho người đến sau trong 
tiếp cận văn học nhà nho Nam Bộ ở một giai đoạn vào loại phức tạp nhất.
1.1.2. Vấn đề nghiên cứu con người trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam  
Bộ nửa sau thế kỷ XIX
1.1.2.1. Về khái niệm trung nghĩa, tư tưởng trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam  
Bộ nửa sau thế kỷ XIX
Tuy chưa lấy con người trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ 
XIX làm đối tượng nghiên cứu, nhưng khái niệm trung nghĩa, mẫu hình con người trung  
nghĩa đã được đề cập trong một số công trình nghiên cứu ở cả trong và ngoài nước. Có thể 
thấy khái niệm trung nghĩa, tư tưởng trung nghĩa,… được đề cập trong các công trình với  
các ý kiến đáng chú ý. Lê Trí Viễn có bài “Màu sắc Miền Nam trong thơ văn Nguyễn Đình 
Chiểu”; Nguyễn Trung Hiếu có bài “Cái nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu và tấm lòng ý chí  
Việt Nam”; E. Hoeffel có bài “Đức trung, hiếu, tiết, nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu”; Hà 
Huy Giáp có bài “Nguyễn Đình Chiểu nhà thơ lớn yêu nước, chống xâm lăng, một tâm hồn  
vằng vặc nhân nghĩa, một tấm gương kiên trung và bất khuất”; Vũ Đức Phúc có bài “Đạo 
nho và các nhân vật trí thức trong sáng tác Nguyễn Đình Chiểu”;  Trần Ngọc Vương có bài 
“Những đặc điểm mang tính quy luật của sự phát triển văn học nhìn nhận qua sáng tác của  
Nguyễn Đình Chiểu”;...
Năm 1961  ở  Hà Nội, cuốn Thơ  văn Nguyễn Thông do Ca Văn Thỉnh, Bảo Định 

Giang giới thiệu, Lê Thước, Phạm Khắc Khoan dịch.  Tác giả Cao Tự Thanh và Đoàn Lê 
Giang trong cuốn Tác phẩm Nguyễn Thông đã nhận định: “tiếng thơ Nguyễn Thông đã 
cất lên như tiếng lòng tha thiết,... rơi vào nghịch cảnh nhưng vẫn giữ vẹn tấm lòng son  
sắt với quê hương”. Có thể  tìm thấy những thông tin về  Nguyễn Thông qua sách 
Nguyễn Thông con người và tác phẩm của Ca Văn Thỉnh ­ Bảo Định Giang;... Các tác 
giả nghiên cứu thơ văn Nguyễn Thông trên phương diện cuộc đời và tác phẩm, còn vấn 
đề con người trung nghĩa trong thơ văn của Nguyễn Thông chưa được làm rõ. 
Tiếp theo, có bài viết, về Phan Văn Trị: “Trăm năm vẫn sáng ngời đạo nghĩa” của 
Đặng Duy Khôi; về Nhiêu Tâm: “Thơ trào phúng ở miền Nam” (1957), “Đỗ Minh Tâm ­ 
một nhà thơ trào phúng” (1958) của Thái Bạch; “Nhà thơ trào phúng của miền Nam” (1957) 
của Nguyễn Tử Năng; “Một ít tư liệu về Nhiêu Tâm nhà thơ trào phúng đất Nam Kỳ thời  
cận đại” (2013) của Phan Mạnh Hùng; về Học Lạc: “Học Lạc ­ nhà thơ trào phúng miền 
Nam”  (1957) của Nguyễn Tử Năng;  “Học Lạc ­ Thi sĩ trào phúng của miền Nam nước  
Việt” (2008) của Lê Minh Quốc;... Ngoài ra, còn khá nhiều bài biết nghiên cứu, đánh giá giá 
trị thơ văn của một số nhà nho Nam Bộ khác như Trương Định, Bùi Hữu Nghĩa,... C ác nhà 
nghiên cứu đều khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của các nhà nho Nam Bộ trong nền văn  
học nước nhà. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu con người trung nghĩa  
trong văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX. 

7


Cũng đánh giá về văn học giai đoạn này, gần đây có một số luận án Tiến sĩ văn học 
nghiên cứu về văn học nhà nho. Nhìn chung các luận văn, luận án tuy có nhắc đến vấn  
đề trung nghĩa, con người trung nghĩa trong văn học nhà nho, nhưng đấy chưa phải là  
vấn đề trung nghĩa, con người trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ 
XIX.
Con người trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX con là
̀  
vấn đề có ý nghĩa sâu sắc về nhiều mặt, cần được nghiên cứu một cách đầy đủ, hệ 

thống. Luân an nghiên c
̣ ́
ưu 
́ Con người trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ nửa  
sau thế kỷ XIX vơi t
́ ư cach la môt vân đê chuyên biêt.
́ ̀ ̣ ́ ̀
̣
1.1.2.2. Về mẫu hình con người trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ nửa  
sau thế kỷ XIX
Có thể thấy mẫu hình con người trung nghĩa được đề cập trong các công trình với 
các ý kiến đáng chú ý của Phạm Văn Đồng, Cao Tự Thanh, Đoàn Lê Giang... Các tác giả 
Lê Trí Viễn, Phan Côn, Nguyễn Đình Chú, Huỳnh Lý, Lê Hoài Nam,… trong cuốn  Lịch sử 
văn học Việt Nam cho rằng nhân vật chính trong thơ văn yêu nước chống Pháp là “người  
chiến sĩ nhân dân”, “thể hiện lòng trung với nước, với dân”; “vì nghĩa quên mình”. Ca Văn 
Thỉnh trong “Lời mở đầu” tiểu luận Những ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Nam Bộ  
nửa sau thế kỷ XIX nói đến con người trung nghĩa yêu nước: “thấy việc nghĩa phải làm, 
trước nạn ngoại xâm có nghĩa là phải cứu nước cứu nhà, dù phải hy sinh tính mạng cũng  
không lùi bước”. Nguyễn Khắc Thuần, Nguyễn Quảng Tuân trong “Lời tựa” cuốn  Phan 
Văn Trị ­ cuộc đời và tác phẩm cũng nhắc đến “những tấm gương chiến đấu, hy sinh  
mẫu mực”...
Các bài viết của một số tác giả nước ngoài như: A. Delvaux trong  L’ambassade 
de Phan ­ Thanh ­ Gian en 1863  (1926)  đã tìm hiểu con người Phan Thanh Giản; 
MW. McLeod trong  Trương Định and Vietnamese Anti­Colonialism  (1993) đề  cập 
người anh hùng Trương Định và chủ  nghĩa chống chủ  nghĩa thực dân; cũng trong 
Lettre autographe de Legrand de la Liraye au sujet de la distribution des bằng cấp  
par Quản Định  nói về  người anh hùng Trương Định đã không theo lệnh ngưng 
chiến, lại còn giả  truyền mật chỉ hay phát bằng cấp của triều đình để  cổ  vũ nhân 
dân kháng chiến.
1.2. Cơ sở lý thuyết của đề tài

1.2.1. Các lý thuyết về nghiên cứu, tìm hiểu con người trong văn học
Văn chương lấy con người làm đối tượng miêu tả, phản ánh, đặc biệt trong văn 
học trung đại phương Đông con người được quan niệm như  “tầm nhìn của nhà văn và 
chiều sâu triết lý của tác phẩm”. Các lý thuyết nghiên cứu, tìm hiểu về con người trong  
văn học trung đại thường chú ý sự thay đổi tư duy và quan niệm thẩm mỹ về con người.  
Nhiều lý thuyết thời trung đại (tiêu biểu như Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo) khi đề cập 
đến con người, đều bàn đến các phạm trù: vô ngã, hữu ngã, bản ngã, tha nhân,... xem xét 
tính đa dạng và phong phú của con người trong mối quan hệ với chính trị, đạo đức. Văn 
chương Nho giáo chú trọng con người nghĩa khí, hành động vì nghĩa, xác lập mẫu hình lý  
tưởng nhân vật chính diện: sống theo ý thức bổn phận và trách nhiệm với vua, với nước,  
với các quan hệ ngũ luân. Con người trong văn chương nhà nho nói như Nguyễn Đình  
8


Chiểu là phải “năm phẩm rừng Nho săn sóc lấy” (năm phẩm chất: nhân, nghĩa, lễ, trí, 
tín). Con người còn bị chi phối bởi một hệ thống tôn giáo, tâm linh, tín ngưỡng, đạo đức,  
luân lí. Cùng với mô hình con người vũ trụ và con người đạo đức là quan niệm về con 
người “đấng bậc”... Con người cá nhân phương Đông ở chiều sâu nhất là con người 
hướng thượng, hướng thiện, hướng tới cái thiêng liêng và siêu việt. Đó có thể  là  
“mệnh”, “đạo”, “vô thượng”,… Tùy theo từng giai đoạn, thời kỳ văn học, con người có 
những đặc điểm khác nhau. Nói đến các lý thuyết về con người thời trung đại ở phương  
Đông, cũng cần nói đến thuyết “tính thiện”, “nhân trị”, “tính ác”, “lễ trị”; thuyết “thiên 
nhân tương cảm” và thuyết “tai dị”; thuyết “tam giáo đồng nguyên”, “tam giáo hợp 
nhất”,… Tất cả  các lý thuyết đó đã  ảnh hưởng đến việc xây dựng hình tượng con 
người trong văn học Việt Nam trung đại.
1.2.2. Nho giáo và sự ảnh hưởng, chi phối đến tư tưởng nhà nho và văn học nhà  
nho
Văn chương trung đại thiên về chức năng tác động, truyền cảm hơn là phản ánh, vì ảnh  
hưởng bởi ba phạm trù chi phối: tâm, chí, đạo (“văn dĩ tải đạo”, “văn dĩ minh đạo”, “thi dĩ 
ngôn chí”), mang tính giáo huấn, bác học, cao quý, trang nhã, quy phạm,… Nho giáo từng 

bước ảnh hưởng sâu đậm đến thơ văn của tác giả nhà nho. Tiếp xúc với Nho học chính 
thống, ngay từ đầu các nhà nho sơ kỳ trung đại đã rất thấm những điều “Tử viết” và các quan  
điểm văn chương của Khổng ­ Mạnh (các quan điểm về khả năng “hưng”, “quan”, “quần”, 
“oán” của thơ ca; các quan điểm về chức năng của văn học “văn dĩ tải đạo”, “thi dĩ ngôn chí”,
…). Nhìn chung đại bộ phận nhà nho thích nghi với chính sách thân dân, tư tưởng dân vi quý. 
Họ đề cao nhân nghĩa, tôn trọng vương quyền, củng cố giềng mối đạo đức xã hội. Văn học 
nhà nho sử dụng những quan niệm định giá phẩm chất thơ ca rất phong phú như: chí, khí, 
tâm, đạo và thể hiện cảm hứng yêu nước, thân dân, nhân văn, đạo lý thông qua những hình 
tượng nhà nho (phẩm chất, cảnh ngộ). Có thể nói mẫu hình nam nhi chí với các chuẩn mực 
giá trị nghĩa, tiết,… là mẫu hình thẩm mỹ có sức hấp dẫn, khái quát lớn trong văn học nhà 
nho. Con người trong văn học trung đại từ đó mang đậm dấu ấn của quan niệm Nho giáo;  
con người sống không thể không theo những quy định chặt chẽ của  ngũ luân (5 mối quan hệ 
cơ bản: Quân ­ thần, phụ ­ tử, phu ­ phụ, huynh ­ đệ, bằng ­ hữu) và ngũ thường (5 phẩm 
chất thường hằng: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín),…
1.2.3. Truyền thống tư tưởng của con người Việt Nam nói chung, Nam Bộ nói  
riêng
Truyền thống tư tưởng của con người Việt Nam là yêu nước, anh dũng, cần cù, nhân  
đạo, thương người, vì nghĩa, thủy chung,… Đây là những giá trị truyền thống quý báu của 
dân tộc được thể hiện chân thực, sinh động trong văn học. Cảm hứng yêu nước thể hiện ở 
nhiều khía cạnh, sắc thái, cung bậc khác nhau: ý thức tự cường, tự tôn dân tộc, khát vọng  
xây dựng đất nước thanh bình, ý chí quyết chiến với kẻ thù, bảo vệ chủ quyền dân tộc,… 
Chủ nghĩa anh hùng phát triển trên cơ sở của chủ nghĩa yêu nước: Kiên trì, bất khuất, chịu 
đựng gian khổ, giành thắng lợi cuối cùng, đó là sự thống nhất của trí và dũng. Yêu nước và 
thương người hay nói bao quát hơn là yêu nước và nhân đạo thực sự là những tư tưởng lớn  
của con người Việt Nam. Những tư tưởng này rõ ràng cũng chi phối sâu sắc đến văn học 
nhà nho nói chung, văn học nhà nho Nam Bộ nói riêng. Cũng không khó để thấy rằng trong 
9


truyền thống tư tưởng, tinh thần của người Việt, ý thức vì nghĩa, khái niệm nghĩa cũng rất 

được chú trọng đề cao…
1.2.4. Một số lý thuyết về nghiên cứu ­ phê bình văn học
Hiện nay đã có nhiều lý thuyết về nghiên cứu phê bình văn học được giới thiệu và được  
ứng dụng vào nghiên cứu văn học ở Việt Nam (ngoài các lý thuyết Mác­xít, có: hình thức  
luận, cấu trúc luận, hậu cấu trúc luận, liên văn bản, thuyết người đọc, phân tâm học,…).  
Chúng tôi đặc biệt chú trọng một số lý thuyết và phương pháp thích hợp, mang tính hữu hiệu:  
Huấn hỗ  học, Thông diễn học, Loại hình học… Nghiên cứu văn học theo lý thuyết và  
phương pháp loại hình được giới nghiên cứu thế giới đề xuất và ứng dụng có hiệu quả từ 
những năm 70 của thế kỷ XX. Có thể kể đến các tác giả với các công trình tiêu biểu như:  
V.M. Girmunxki với Vấn đề nghiên cứu so sánh lịch sử các nền văn học; D.X. Likhachop với 
Bảy thế kỷ trong văn học Nga; M. Bakhtin với Tác giả và nhân vật trong hoạt động thẩm mỹ  
­ Vấn đề tác giả;... Ở nước ta, phương pháp nghiên cứu này cũng được nhiều học giả vận  
dụng và đạt được thành tựu đáng kể: Trương Tửu với Nhà nho tài tử Nguyễn Công Trứ; 
Trần Đình Hượu với Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại; Trần Ngọc Vương với 
Loại hình học tác giả văn học nhà nho tài tử và văn học Việt Nam ; Lê Văn Tấn với Hành 
trình nghiên cứu ngữ văn (viết chung với Nguyễn Thị Hưởng); Nguyễn Hữu Sơn với “Đặc 
điểm loại hình tác gia văn học trung đại”,… Các công trình cũng đã có những kiến giải về 
mối quan hệ cơ hữu giữa lịch sử ­ văn hóa “thời trung đại” với tác gia văn học trung đại”, về 
loại hình văn học và loại hình tác giả văn học trung đại,…  Trên cơ sở một số nguyên tắc 
trong nghiên cứu văn học theo phương pháp loại hình, Biện Minh Điền với công trình Loại  
hình văn học trung đại Việt Nam đã xác định những vấn đề cơ bản của loại hình văn học 
trung đại Việt Nam… Nhìn chung các công trình nghiên cứu tiếp cận vấn đề khá lý thú, đặc 
biệt là vận dụng phương pháp loại hình trong nghiên cứu văn chương nhà nho.
Tiểu kết Chương 1 
Văn học nhà nho nói chung và văn học nhà nho Nam Bộ nói riêng đã được giới nghiên  
cứu tiếp cận, tìm hiểu ở các mức độ nhất định. Nhìn chung các hướng nghiên cứu đều 
nhận thấy vai trò, ảnh hưởng của Nho giáo; của truyền thống tư tưởng dân tộc đến tư 
tưởng, quan niệm của nhà nho và văn học nhà nho. Quan niệm  trung, nghĩa của các nhà nho 
Nam Bộ trong bối cảnh đặc biệt của lịch sử dân tộc cũng đã được ít nhiều chú ý. Các triết 
thuyết, lý thuyết về con người thời trung đại (trong đó có con người trung nghĩa) đã được 

một số nhà nghiên cứu có một vài đánh giá ở mức độ chung nhất trong các bài viết khái quát  
về văn học nửa sau thế kỷ XIX… Chừng ấy chưa đủ để làm nổi bật văn học nhà nho Nam  
Bộ và con người trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX. Nhưng 
đấy là những tiền đề quan trọng giúp tác giả luận án xác lập cơ sở lý thuyết của đề tài. 
Cũng trên cơ sở đó mà luận án có đường hướng và điều kiện đi sâu khảo sát con người  
trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX ­ một vấn đề có ý  
nghĩa sâu sắc trên nhiều phương diện nhưng cũng hết sức phức tạp…
  

            Chương 2

                     CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ VAI TRÒ, VỊ THẾ
     CỦA VĂN HỌC NHÀ NHO NAM BỘ NỬA SAU THÊ KY XIX
́ ̉
10


                         TRONG LỊCH SỬ VĂN HỌC DÂN TỘC        
2.1. Văn học Việt Nam nói chung và văn học nhà nho nói riêng giai đoan n
̣ ửa sau  
thế kỷ XIX
2.1.1. Văn học nửa sau thế kỷ XIX trong lịch sử văn học dân tộc
2.1.1.1. Bôi canh sinh thanh va phat triên 
́ ̉
̀
̀ ́ ̉
Văn học nửa sau thế kỷ XIX là giai đoạn văn học có vai trò, vị trí đặc biệt trong  
lịch sử văn học dân tộc và cũng là giai đoạn cuối cùng chịu sự chi phối của ý thức hệ 
phong kiến, thuộc loại hình văn học trung đại. Văn học giai đoạn này sinh thành và phát 
triển trong một bối cảnh đặc biệt: xã hội phong kiến Việt Nam lâm vào khủng hoảng 

toàn diện, lại có thêm sự xâm lăng của chủ nghĩa thực dân phương Tây. Cuộc xâm lăng 
của thực dân Pháp đã tạo nên những xáo trộn, thay đổi chưa từng có đối với đời sống  
dân tộc, trong đó có văn học. Chưa bao giờ vận mệnh đất nước, sự tồn vong của dân  
tộc lại đặt ra gay gắt như vậy. Nhân dân tuy chưa phải là người nắm quyền lãnh đạo  
các phong trào chống Pháp nhưng họ tiêu biểu cho tinh thần đấu tranh yêu nước, tiêu 
biểu cho khí phách, bản lĩnh của dân tộc. Nhiều phong trào yêu nước đã diễn ra khắp 
Nam Bộ, khích lệ mạnh mẽ tinh thần yêu nước chống xâm lược của nhân dân. Tuy các 
cuộc khởi nghĩa đều thất bại nhưng đã chứng tỏ  được khí phách, bản lĩnh của con 
người Nam Bộ, nhà nho Nam Bộ. Các nhà nho yêu nước tham gia sáng tác, giãi bày  
những tình cảm trước cảnh nước mất, nhà tan, thể hiện nỗi niềm yêu nước, đề  cao 
con người trung nghĩa…
2.1.1.2. Diên mao va các b
̣
̣
̀
ước phát triển 
Văn học giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX có diện mạo văn học khác so với văn học  
những giai đoạn trước. Trước hết đó là sự phát triển lực lượng sáng tác, chủ yếu là những  
nhà nho mang hệ tư tưởng nho gia, vừa chịu sự chi phối của ý thức hệ phong kiến, vừa 
chịu sự chi phối của truyền thống tư tưởng, văn hóa dân tộc. Chủ thể trữ tình ­ hình tượng  
tác giả hiện lên trong sáng tác với tư cách là con người hành động, ưu thời mẫn thế, sẵn 
sàng xả thân vì nghĩa. Đặc điểm nổi bật làm nên nét mới của văn học giai đoạn này chính  
là tính chất thời sự của nó, văn học theo sát tình hình chính trị, phục vụ cuộc đấu tranh 
chính trị và phản ánh những vấn đề trung tâm của thời đại. Văn học nhà nho đi sâu ngợi ca 
con người trung nghĩa với những phẩm chất, khí tiết anh hùng, bày tỏ lòng yêu nước sâu 
sắc với những lời lẽ thiết tha chân thành. Văn học nửa sau thế kỷ XIX chuyển biến về 
chủ đề và đề tài rất nhanh chóng, theo sát các biến cố chính trị để phản ánh kịp thời cuộc 
đấu tranh chống Pháp xâm lược…
2.1.1.3. Vi tri c
̣ ́ ủa văn học nửa sau thế kỷ XIX trong lịch sử văn học dân tộc 

Văn học nửa sau thế kỷ XIX có một vị trí, vai trò rất đặc thù trong lịch sử văn học  
dân tộc. Đây là giai đoạn văn học có vai trò khép lại một thời kỳ văn học được sáng tác  
dưới sự chi phối của ý thức hệ phong kiến. Những quy luật của văn học truyền thống  
vẫn còn phát huy tác dụng, mặc dù bị khúc xạ do điều kiện lịch sử mới nhưng nó mang 
nét đặc thù khác hẳn với các giai đoạn trước và sau đó, là bước chuyển mình chuẩn bị 
một số điều kiện cho sự thay đổi phạm trù văn học dân tộc. Văn học giai đoạn này có 
quy luật phát triển, diện mạo và đặc điểm riêng, có những đóng góp vào sự phát triển  
11


của lịch sử  văn học dân tộc, thể  hiện tinh thần dân tộc sâu sắc. Có thể  nói việc xây 
dựng, khắc họa hình tượng con người yêu nước, chống xâm lược, chống nô dịch trong 
văn học nửa sau thế kỷ XIX là một bước phát triển của văn học, góp phần quan trọng  
thể hiện bản sắc và bản lĩnh dân tộc. 
2.1.2. Văn học nhà nho giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX
2.1.2.1. Khái niệm về văn học nhà nho và phân loại kiểu tác giả nhà nho
Ở Trung Quốc, các khái niệm “Nho giáo”, “Nho gia”, “Nho học”, đã được các nhà  
nghiên cứu cận hiện đại cắt nghĩa từ  nhiều khía cạnh, khu biệt khá rõ... Nho giáo ảnh  
hưởng và chi phối đến văn học Việt Nam, cũng từ đây hình thành một loại hình tác giả ­ 
nhà nho, một loại hình văn học ­ văn học nhà nho. Chủ thể sáng tác văn học nhà nho là  
những tác giả chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, có thế “xuất” hay “xử”, “hành” hay  
“tàng”… Có thể chia nhà nho ra làm ba loại: nhà nho hành đạo, nhà nho ẩn dật và nhà nho 
tài tử. Nhà nho đề cao các phẩm chất như: “tâm, chí, đạo, nghĩa, khí”. Văn chương nhà nho  
“về cơ bản đều dựa vào mô hình thẩm mỹ “nam nhi chí” và các chuẩn mực trung, hiếu, 
tiết, nghĩa để xây dựng hình tượng, phản ánh và biểu hiện. Tuy văn học nhà nho vẫn chịu  
ảnh hưởng sâu sắc mô hình này nhưng phần lớn các nhà nho chân chính ở giai đoạn nửa sau  
thế kỷ XIX lại nhìn các chuẩn mực giá trị của nó theo một logic “ngược”: nghĩa, tiết, hiếu, 
trung”. Văn học nhà nho nửa sau thế kỷ XIX nhấn mạnh tinh thần yêu nước chống thực 
dân xâm lược, chống sự thỏa hiệp, đầu hàng của triều đình phong kiến và ngợi ca tấm  
gương trung nghĩa hy sinh vì đất nước.

2.1.2.2. Nhưng đăc điêm n
̃
̣
̉ ổi bật cua văn h
̉
ọc nhà nho giai đoạn nửa sau thê ky
́ ̉ 
XIX
Một trong những đặc điểm nổi bật của văn học nhà nho giai đoạn nửa sau thế kỷ 
XIX là tinh thần yêu nước, chống xâm lược, chống đầu hàng, “chống cả triều lẫn Tây” 
một cách mạnh mẽ, quyết liệt. Đây là đặc điểm làm nên nét mới của dòng văn học yêu  
nước nói chung, văn học nhà nho yêu nước nói riêng. Trong bối cảnh đó, tư tưởng trung 
nghĩa luôn được đặt ra đối với các nhà nho nửa sau thế kỷ XIX. Theo thời gian và diễn 
biến lịch sử, nội dung của tư tưởng trung nghĩa có biến dịch, đổi thay. Trên phương diện  
hình thức nghệ thuật, hệ thống thi pháp cũng có những thay đổi quan trọng.
2.2. Văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX       
2.2.1. Một số giới thuyết về văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX
2.2.1.1. Giới thuyết về vung Nam Bô va văn h
̀
̣ ̀
ọc nha nho Nam Bô n
̀
̣ ửa sau thế kỷ  
XIX 
Vùng đất Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX được chia thành các trấn thuộc phủ Gia Định, 
dưới thời vua Minh Mệnh được chia thành 6 tỉnh trực thuộc trung ương. Với truyền thống 
kiên cường, bất khuất và tinh thần lao động cần cù của người dân Nam Bộ, các thế hệ 
người dân Nam Bộ đã viết nên những trang sử hào hùng trong quá trình xây dựng, bảo vệ và  
phát triển vùng đất Nam Bộ. Khi triều đình nhà Nguyễn nhượng đất cho giặc, nhân dân 
Nam Bộ yêu nước đã đồng lòng đứng lên đấu tranh chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp, 

bảo vệ vùng đất Nam Bộ. Con người Nam Bộ với tính cách cương trực, thẳng thắn, nghĩa 
hiệp, quyết hy sinh để giữ vững nền độc lập của nước nhà. 

12


Nhà nho Nam Bộ là nhà nho sinh ra và lớn lên trong môi trường Nam Bộ và chịu ảnh 
hưởng của văn hóa, văn học Nam Bộ. Sáng tác của họ giúp chúng ta hiểu hơn về một  
vùng đất có nhiều tấm gương gắn với địa danh cụ thể. Đó là những con người trung nghĩa  
như Trương Định, Phan Tòng, Phan Tam, Phan Ngũ, Nguyễn Hữu Huân, Nguyễn Trung  
Trực,... đã thúc đẩy quá trình phát triển văn học và cổ vũ tinh thần đấu tranh của nhân dân 
ta trước những biến động đặc biệt của lịch sử dân tộc. Văn học nhà nho Nam Bộ phát 
triển phong phú, rực rỡ trong giai đoạn đặc biệt của lịch sử dân tộc và đạt được nhiều  
thành tựu với những đỉnh cao như: Phan Thanh Giản, Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Đình 
Chiểu, Nguyễn Thông, Phan Văn Trị, Nguyễn Hữu Huân, Nhiêu Tâm, Học Lạc,… Các 
sáng tác của họ được đánh giá là những áng văn chương tiêu biểu, xuất sắc trong lịch sử 
văn học, xây dựng con người trung nghĩa đa dạng: người nông dân chân lắm tay bùn, 
người có học thức, người lãnh binh yêu nước… Tất cả  đều có chung lý tưởng trung  
nghĩa, vì nhân dân, đất nước.
2.2.1.2. Vai trò của văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX
Văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX có vai trò quan trọng đối với lịch sử văn  
học dân tộc, phản ánh phong trào đấu tranh của nhân dân chống Pháp xâm lược và bọn tay 
sai phong kiến bán nước bằng hình tượng nhân vật có thật gắn với những địa danh cụ thể. 
Thơ văn yêu nước Nam Bộ mang đặc tính của nhân dân Nam Bộ, ngợi ca phẩm chất, khí  
tiết người Nam Bộ. Văn học nhà nho Nam Bộ tiếp thu truyền thống tư tưởng dân tộc và 
đưa vào văn học những yếu tố mới phù hợp với giai đoạn đấu tranh chống xâm lược, “ca 
ngợi những người anh hùng suốt đời tận trung với nước và than khóc những người liệt sĩ đã  
trọn nghĩa với dân”.
2.2.2. Các khuynh hướng tư  tưởng và nghệ  thuật trong văn học nhà nho  
Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX

Có thể nói đến các khuynh hướng tư tưởng, nghệ thuật cơ bản trong văn học nhà 
nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX: Khuynh hướng văn học yêu nước chống Pháp, khuynh 
hướng văn học hiện thực ­ trào phúng, khuynh hướng văn học mang màu sắc trữ tình ­  
lãng mạn, khuynh hướng văn học “vọng ngoại”, “thân Pháp” (Khuynh hướng này, trước 
đây thường được/ bị  gọi là “khuynh hướng nô dịch”, chúng tôi tạm dùng từ  “vọng 
ngoại” thay cho “nô dịch”, vì nhận thấy từ “nô dịch” quá nặng nề). 
Khuynh hướng văn học yêu nước chống Pháp được xem là khuynh hướng chủ đạo,  
phát triển rộng khắp với một lực lượng sáng tác đông đảo chủ yếu là những lãnh tụ và 
quần chúng nghĩa quân các phong trào chống Pháp, có người làm quan trong triều đình, có  
người là trí thức có tên tuổi, có người thuộc tầng lớp dưới của xã hội,… Họ sáng tác mọi 
lúc, mọi nơi, có khi trên chiến trận quyết chiến với quân thù, ngay cả trước lúc hy sinh.  
Điểm chung nổi bật ở các sáng tác là đều thể hiện tinh thần yêu nước, chiến đấu quên 
mình vì nghĩa lớn đối với đất nước, nhân dân. Chủ thể sáng tác là các tác giả thuộc loại nhà 
nho hành đạo, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia phong trào chiến đấu chống Pháp, họ sáng 
tác vừa để giãi bày nỗi lòng yêu nước, vừa kêu gọi động viên chống Pháp xâm lược. Lực 
lượng sáng tác của khuynh hướng văn học này đông đảo, nhiều thành phần, góp phần cổ vũ 
công cuộc đánh giặc cứu nước, động viên, khích lệ mọi người tham gia chiến đấu.

13


 Khuynh hướng văn học hiện thực ­ trào phúng ra đời, phát triển trong bối cảnh 
triều đình phong kiến ngày càng nhượng bộ đầu hàng và Pháp đã chiếm toàn bộ Nam 
Kỳ, tiến hành khai thác thuộc địa. Khuynh hướng văn học này thể hiện sự phản tỉnh, trào 
phúng và phủ định thực tại; bày tỏ nỗi đau gắn với tiếng cười trước thực tại trớ trêu,  
vừa đáng cười vừa đáng khóc; vạch trần những luận điệu hèn nhát, bac nh
̣
ược của bọn  
vua quan vô trách nhiệm cùng bè lũ Việt gian bán nước băng nh
̀

ững sáng tác châm biếm  
sâu sắc. Khuynh hướng văn học hiện thực ­ trào phúng có sự đa dạng, phong phú hơn về 
thể loại, đề tài, chủ đề, có sự vận dụng linh hoạt các bút pháp, giọng điệu và ngôn ngữ. 
Trong văn học nhà nho Nam Bộ, cũng có thể nói đến một số khuynh hướng khác:  
khuynh hướng (ít nhiều) “thoát ly” hiện thực, khuynh hướng “vọng ngoại”, “thân Pháp”. 
Mặt tích cực của các tác giả trong khuynh hướng này là ý thức cầu tiến, muốn cải cách  
văn học dân tộc theo hướng hiện đại, gắn với mô hình phương Tây.
2.2.3. Vấn đề  con người trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ  nửa  
sau thế kỷ XIX
2.2.3.1. Tinh ph
́
ưc tap c
́ ̣ ủa vấn đề va cac h
̀ ́ ương nhân th
́
̣ ưc ­ nghiên c
́
ứu
“Trung nghĩa” là chỉ đức tính, tấm lòng con người vì trung, nghĩa của văn thân yêu nước 
đối với vua, lòng trung thành đối với quốc gia, xã tắc.  Các nhà nho Nam Bộ đã vận dụng chữ 
trung vào việc giải quyết những vấn đề của đời sống. Họ không đứng trên lập trường của 
giai cấp thống trị mà đứng trên lập trường của nhân dân, cải biến chữ  trung làm cho nó mới 
mẻ, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX. Quan niệm về con người trung  
nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ không phải không phức tạp. Đạo trung quân rất cần 
thiết, nhưng vua phải được mọi người tôn thờ, vua phải thống nhất với nước.  Con ngươì 
được nhìn trong môi quan hê ly t
́
̣ ́ ưởng trung quân, ly t́ ưởng ai quôc, g
́ ́ ắn với lợi ich c
́ ủa dân tôc̣  

va công đông. T
̀ ̣
̀
rung nghĩa gắn liền với nợ nước ­ tình nhà, trong lúc nước nhà gặp nguy biến 
thì trung với vua phải có điều kiện, vua phải thống nhất với nước, yêu nước thương dân.  
Tính phức tạp trong nhận thức vấn đề là vấn đề trung quân ­ ái quốc, nhân cách đạo đức, sự 
lựa chọn của con người đặt trong khuôn khổ của Nho giáo phong kiến hay đứng trước bài 
toán của lịch sử dân tộc, vùng miền Nam Bộ,… Mọi hướng lựa chọn đều không dễ dàng, 
thuận chiều.
2.2.3.2. Ban chât cua vân đê con ng
̉
́ ̉
́ ̀
ười trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ  
nửa sau thê ky XIX
́ ̉
 
Không thể không thấy tính phức tạp của vấn đề con người trung nghĩa để hiểu 
hơn về bản chất con người trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ. Có thể nhìn  
con người trung nghĩa trong văn học nhà nho từ nhiều góc nhìn khác nhau, từ nhiều mối 
liên hệ khác nhau, mang những nét tiêu biểu của vùng miền Nam Bộ: yêu nước, suy  
nghĩ và hành động quyết liệt “ngay chúa” nhưng cũng dám “nghịch thần” khi lịch sử đòi 
hỏi và cho phép. Nhưng lắt léo, mâu thuẫn đầy phức tạp trong nhận thức, tư tưởng và 
hành động của con người trung nghĩa, ngày nay hậu thế có thể khó thấu hiểu, không ít 
trường hợp, người trung nghĩa hoàn toàn bế tắc khi phải đi giữa hai yêu cầu “ái quốc”  
và “trung quân”…
2.2.3.3. Y nghia cua vi
́
̃ ̉ ệc nghiên cứu vân đê con ng
́ ̀

ười trung nghĩa trong văn học nhà  
nho Nam Bộ nửa sau thê ky XIX
́ ̉
 
14


Con người trung nghĩa và sự biểu hiện con người trung nghĩa trong văn học nhà nho 
Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử văn học dân 
tộc. Văn học nhà nho Nam Bộ xây dựng con người trung nghĩa có tác dụng cổ vũ tinh  
thần yêu nước, giúp nhân dân nhận thức đầy đủ hơn về tính chất chính nghĩa của cuộc  
kháng chiến cứu nước. Con người trung nghĩa là sự kết tinh những giá trị tinh thần của 
kẻ sỹ Nam Bộ. Con người trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ thực sự là hình 
tượng đẹp, là mẫu hình nhân cách đáng trân trọng nhưng không dễ tiếp cận, thấu hiểu 
đối với hậu thế,…
Tiểu kết Chương 2
Văn học nửa sau thế kỷ XIX là giai đoạn cuối cùng của văn học Việt Nam trung đại,  
hình thành và phát triển trong bối cảnh với nhiều sự kiện đặc biệt chi phối. Lực lượng  
sáng tác văn học thuộc nhiều tầng lớp nhưng chủ yếu là nhà nho, mang hệ tư tưởng nho 
gia, chịu sự chi phối ý thức của hệ phong kiến và truyền thống tư tưởng dân tộc. Trong  
cuộc chiến đấu chống Pháp xâm lược, hầu hết họ đứng về phía nhân dân, về phía chính 
nghĩa, họ được kích thích bởi nhiệt tình yêu nước, “nhà văn cũng là chiến sĩ”, dùng ngòi 
bút như một vũ khí để chống giặc cứu nước. Hiện thực kháng chiến chống Pháp, ý thức 
dân tộc chính là ngọn nguồn cho sự phong phú của văn học. Có nhiều tác giả xuất hiện,  
không những tiêu biểu cho văn học Nam Bộ, mà còn tiêu biểu chung cho văn học cả nước.  
Văn học theo sát tình hình, phục vụ cuộc đấu tranh chính trị và phản ánh những vấn đề 
trung tâm của thời đại: phong trào đấu tranh của nhân dân dưới ngọn cờ khởi nghĩa của 
các lãnh binh và nghĩa sĩ; tố cáo tội ác của giặc và kêu gọi nhân dân đứng lên chống Pháp  
xâm lược. Văn học đi sâu thể hiện con người trung nghĩa với những phẩm chất, khí tiết  
cao đẹp, bày tỏ lòng yêu nước sâu sắc với những lời lẽ thiết tha chân thành. Các nhà nho 

khắc họa mẫu hình con người trung nghĩa, ca ngợi những tấm gương yêu nước, “nghịch 
chỉ” triều đình, chống lại Pháp xâm lược và bọn tay sai phong kiến phản quốc. Vấn đề 
con người trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX là vấn đề phức 
tạp, phải có hướng nhận thức ­ nghiên cứu mới, một mặt có thể đứng từ quan điểm hiện  
đại để nhìn nhận nó, nhưng mặt khác phải có quan điểm lịch sử đúng đắn mới có thể 
đánh giá đúng thực chất, bản chất của vấn đề.
                                                             Chương 3 
   
        ĐẶC ĐIỂM CỦA CON NGƯỜI TRUNG NGHĨA

    TRONG VĂN HỌC NHÀ NHO NAM BỘ NỬA SAU THẾ KỶ XIX
3.1. Quan niệm về trung nghĩa và con người trung nghĩa
3.1.1. Quan niệm về trung nghĩa, con người trung nghĩa trong học thuyết Nho  
giáo và Nho giáo triều Nguyễn
Quan niệm trung, nghĩa có một vị trí quan trọng trong học thuyết Nho giáo với tư 
cách là học thuyết chính trị ­ đạo đức… Trung là đạo trung quân, trung với vua của bề 
tôi, thường mang tính biện chứng, biến dịch và hàm chứa nhiều nội dung. Trong Ngũ 
luân, quan hệ vua tôi được biểu thị bằng chữ trung, nhấn mạnh vào nghĩa vụ của bề tôi 
đối với vua. Quan niệm trung gắn liền với nghĩa và đi từ nhận thức đến hành động. Nó 
15


không chỉ đơn giản là một quy phạm đạo đức, mà còn được pháp chế hóa thành quy tắc  
ứng xử  xã hội, dưới dạng các luật tục bất thành văn hoặc thành văn. Gắn trung với 
nghĩa thành trung nghĩa, trở thành phạm trù vừa mang tính nghĩa vụ chính trị, vừa là bổn 
phận đạo đức của con người, để ổn định trật tự xã hội, quản lý con người, tập trung 
quyền lực của giai cấp phong kiến. Quan niệm  trung nghĩa thời Hán bị thần bí hóa. Theo 
đó trung có nghĩa vâng mệnh trời, trung với vua, với trời; trái mệnh vua thì trời bắt phạt, 
bởi thế ai cũng phải vâng mệnh trời. Chính việc thần bí hóa làm cho  trung biến thành 
phương tiện phục vụ cho giai cấp phong kiến, gia tăng tính cứng nhắc, chuyên quyền  

trong xử lý các mối quan hệ xã hội. Trong Nho giáo Việt Nam,  nghĩa được đặt nhiều 
hơn trong mối quan hệ khái niệm kép: trung nghĩa, hiếu nghĩa, lễ nghĩa. Các nhà nho 
Việt Nam đã kết hợp trung và nghĩa với nhau, tạo nên những nét khác biệt, hành động  
trung nghĩa đều thống nhất vì lẽ phải, tập thể, cộng đồng, Tổ quốc.
3.1.2. Quan niệm về trung nghĩa và con người trung nghĩa trong truyền thống  
tư tưởng dân tộc
Quan niệm trung nghĩa và con người trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ 
không thoát ly khỏi những giá trị truyền thống tư tưởng của dân tộc, mà ngược lại được 
xây dựng trên nền tảng giá trị truyền thống ấy. Theo Trần Văn Giàu, đó là: “yêu nước, 
cần cù, anh dũng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa”. Các truyền thống ấy đã 
góp phần hình thành thế ứng xử của con người trung nghĩa, là thói quen hình thành lâu 
đời trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền từ thế hệ này sang thế  hệ  khác. Truyền 
thống tư  tưởng dân tộc góp phần nuôi dưỡng tâm hồn, tư  tưởng, tình cảm của con  
người trung nghĩa, con người giàu lòng nhân ái, nhân đạo, sống có tình, có nghĩa. Các nhà 
nho đã vận dụng sáng tạo phạm trù “trung”, “nghĩa” của Nho giáo để thích ứng với đời  
sống đương thời, hội nhập với tư tưởng truyền thống dân tộc, đi theo con đường xuyên 
qua môi trường ý thức nhân dân. Khi hoàn cảnh đất nước mất chủ quyền và bị thống trị 
bởi quân xâm lược, văn học thể hiện tinh thần chống đối, bất hợp tác, bày tỏ cảm xúc, 
giãi bày tâm sự đối với thời cuộc. Con người trung nghĩa trở thành hình tượng thẩm mỹ 
trung tâm trong văn chương nhà nho với các phẩm chất, tính cách: cương trực, thẳng  
thắn, trung nghĩa, yêu nước. Quan niệm trung nghĩa trong truyền thống tư tưởng dân tộc 
đặt nước cao hơn vua, được xác lập trên cơ sở chủ nghĩa yêu nước gắn bó chặt chẽ với 
lòng thương dân, nhân ái của dân tộc.
3.1.3. Quan niệm về trung nghĩa và con người trung nghĩa trong văn học Việt  
Nam trung đại
Văn học Việt Nam trung đại thời kỳ đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo, quan 
niệm trung nghĩa trong văn học Thiền tông không phong phú bằng thơ  văn của các 
nhà nho sau này. Nho giáo ảnh hưởng nhiều mặt đến đời sống xã hội, văn hóa, đặc 
biệt là văn học, ảnh hưởng đến quan niệm xây dựng con người trong văn học. Con 
người được xây dựng theo hình mẫu người lý tưởng, với tinh thần “thiên ­ nhân hợp 

nhất”, “nhân nghĩa”, “thân dân”, “đạo đức”, “tình cảm”. Trung trở thành cảm hứng 
chủ đạo nổi bật, thống nhất với tinh thần yêu nước. Văn học nhà nho giai đoạn này 
nói nhiều đến “nhân, nghĩa, trung hiếu, tiết liệt”… Từ cuối thế kỷ XV, thơ văn đề 
cập con người trung, nghĩa bớt đi những hồn nhiên ban đầu. Chữ  trung phần nhiều 
16


được sử dụng như một cách thức để ngợi ca nhà vua, nhấn mạnh vào nhiệm vụ của 
bề  tôi đối với vua. Từ thế  kỷ  XVI trở đi, quan niệm  trung, nghĩa có màu sắc khác 
hơn, có sự  rạn nứt từng bước về tư tưởng trung quân. Con người lựa chọn thái độ 
sống cho phù hợp với hoàn cảnh đất nước: xả thân vì nước nhiều hơn là trung với  
một ông vua bất chính. Các vua nhà Nguyễn sau này đòi hỏi bề tôi phải  trung nhiều 
hơn với mình. Khi lịch sử dân tộc có sự thay đổi quan trọng ở giai đoạn nửa sau thế 
kỷ  XIX, quan niệm  trung,  nghĩa  có ý nghĩa khác: hướng đến nhân dân, đất nước  
nhiều hơn; con người trung nghĩa được khắc họa đa dạng hơn.
3.1.4. Tư tưởng trung nghĩa và nhận thức về con người trung nghĩa trong văn  
học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX 
Tư tưởng trung nghĩa, con người trung nghĩa được văn học nhà nho Nam Bộ nửa  
sau thế kỷ XIX nhận thức dựa trên tư tưởng yêu nước, tư tưởng trung quân ­ ái quốc, tư 
tưởng vì nghĩa,… tạo nên sự thống nhất của vấn đề và các hướng nhận thức ­ nghiên  
cứu. Văn học nhà nho Nam Bộ có xu hướng ít dùng chữ   trung quân thuần túy mà nói 
nhiều đến tư tưởng trung nghĩa. Một số nhà nho nhận thấy trung quân không thể là con 
đường cứu nước, cứu dân được và đây cũng là tiền đề nhận thức dẫn đến hình thành tư 
tưởng trung nghĩa, con người trung nghĩa. Văn học nhà nho Nam Bộ thể hiện tinh thần 
trách nhiệm, lòng trung thành đối với nhân dân, đất nước; tập trung khắc họa con người 
trung nghĩa để động viên, khích lệ, cổ vũ tinh thần yêu nước của nhân dân. Con người 
trung nghĩa trở thành hình tượng thẩm mỹ trung tâm của thời đại. Sự phát triển của tư 
tưởng trung nghĩa theo chiều hướng lành mạnh làm xuất hiện trong văn học hình tượng 
con người trung nghĩa: đấu tranh chống giặc ngoại xâm, sẵn sàng hy sinh vì nghĩa lớn.
3.2. Con người trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX  

giữa các mối quan hệ phức tạp  
3.2.1. Con người trung nghĩa trong mối quan hệ lý tưởng trung quân
Quan niệm “trung quân” trong văn học nhà nho hình thành dựa trên quan điểm của  
Nho giáo, tư tưởng trung quân có sự thống nhất, gắn liền với ái quốc, trung với vua cũng  
chính là yêu nước. Khi nhắc đến trung quân người ta nghĩ ngay đến tinh thần tôn quân  
tuyệt đối, phải biết nghĩa vua tôi, đạo cương thường. Văn học nhà nho Nam Bộ dĩ nhiên 
cũng chịu ảnh hưởng của tư tưởng trung quân của Nho giáo. Con người  hành động theo 
đạo lý cương thường, ứng xử dựa trên quan điểm, học thuyết Nho giáo, biết vâng lệnh  
vua, mong muốn đem tài đức ra giúp nước, nhưng đòi hỏi vua phải yêu nước, thương dân.  
Con người trung nghĩa vẫn tâm niệm “sống thờ vua, thác cũng thờ vua”, nhưng với điều 
kiện vua thống nhất với nước…
3.2.2. Con người trung nghĩa trong mối quan hệ với lý tưởng ái quốc 
Khi lý tưởng trung quân rơi vào bế tắc, vấn đề đặt ra là bề tôi nhất thiết phải giữ 
chữ trung nữa không? Một số sáng tác văn học nhà nho không còn khẳng định lý tưởng  
trung quân mà chú ý khắc họa con người trung nghĩa trong mối quan hệ với lý tưởng ái  
quốc. Các nhà nho Nam Bộ đã kháng mệnh triều đình, dấy lên trào lưu tư tưởng mới,  
tách rời chuẩn mực “trung quân” của Nho giáo, nỗ  lực thống nhất hóa lý tưởng của  
Nho giáo vào truyền thống tư tưởng của dân tộc. Con người trung nghĩa đặt yêu nước  
lên trên vua và ngày càng có nhiều sáng tác văn học nghiêng về lý tưởng ái quốc hơn.  
17


Các nhà nho Nam Bộ thay đổi cách nghĩ và tạo ra bước chuyển mới trong tư tưởng  
chính trị, chú trọng dân chủ, dân quyền. Điều đó cho thấy trong ý thức nhà nho, có sự 
rạn nứt lý tưởng trung quân, trung quân chuyển sang trung với nước với dân, gắn khái  
niệm “dân” với “nước”.
3.2.3.  Con người trung nghĩa trong mối quan hệ  với lợi ích dân tộc và cộng  
đồng
Xét trong mối quan hệ  với lợi ích dân tộc  và 
cộng đồng, con người trung nghĩa biết đặt lợi ích dân tộc và cộng đồng lên trên hết, mọi 

ý nghĩ, hành động đều hướng về quyền lợi  của cộng đồng, nhân dân. Sáng tác văn học 
của các nhà nho Nam Bộ đều gặp nhau trong khắc họa chân dung con người trung nghĩa.  
Đây là mẫu hình con người có thực trong đời sống nhân dân, thể hiện trách nhiệm đối  
với lịch sử dân tộc. Họ phản ứng lại với thực tại xã hội đương thời, chống lại sự xâm  
lược thực dân Pháp, nếm trải sâu sắc bi kịch của bản thân cũng như chứng kiến trang bi  
thương của dân tộc, biết hy sinh vì dân tộc và cộng đồng. Con người trung nghĩa trong  
văn học nhà nho Nam Bộ luôn đứng trước sự lựa chọn nhưng phần lớn đều chọn hướng 
ứng xử: lấy lợi ích của dân tộc và cộng đồng làm trên hết, sẵn sàng hy sinh vì nghĩa lớn.
3.2.4. Con người trung nghĩa trước các “bài toán” của lịch sử giai đoạn nửa sau  
thế kỷ XIX
Xã hội phong kiến Việt Nam nửa sau thế kỷ XIX đã lâm vào khủng hoảng trầm  
trọng, tư tưởng chi phối xã hội lúc này vẫn còn là tư tưởng “trung quân”, nhưng “trung 
quân” mâu thuẫn với “ái quốc”. Vì vua đã không minh thì bề tôi/ nhà nho khó có thể giữ 
lòng trung. Giai cấp phong kiến đi vào con đường đầu hàng thì con người trung nghĩa thà 
chết chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ, đấu tranh chống giặc đến cùng. 
Có trường hợp phải tuẫn tiết để không bị rơi vào tay giặc, có người phải ẩn náu chờ 
thời. Tất cả họ đều có chung lý tưởng yêu nước, xả thân vì nghĩa cứu nước cứu dân.  
Con người trung nghĩa trong sáng tác của Nhiêu Tâm, Học Lạc phê phán sự ham danh  
lợi, chạy theo đồng tiền, lựa chọn con đường đứng về  phía nhân dân, khẳng định tư 
tưởng yêu nước. Có nhiều sáng tác khác bày tỏ nỗi uất hận hoặc hô hào kêu gọi cùng 
nhau hy sinh vì chính nghĩa. Con người trung nghĩa chỉ biết hy sinh để báo đáp ơn nước, 
tỏ rõ khí phách của kẻ trượng phu, chẳng chùn bước trước nghịch cảnh. Đứng trước sự 
lựa chọn, họ ứng xử hợp tình, hợp lý. Con người trung nghĩa luôn gặp phải những khó 
khăn và mâu thuẫn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, có khi phải nghịch chỉ Nam triều, 
phải “tức mình mà chết”. 
3.3. Con người trung nghĩa ­ một hình tượng thẩm mỹ  độc đáo, vừa mang vẻ 
đẹp của con người “Lục tỉnh”, vừa mang vẻ đẹp thời đại 
3.3.1. Vẻ đẹp của lý tưởng và tâm hồn, nhân cách
Con người trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ, từng dạng thái có những  
điểm riêng, nhưng có điểm chung thống nhất là lý tưởng yêu nước, tâm hồn trong sáng và 

tính cách cương trực, dũng cảm, không màng danh lợi, vì nghĩa, quên thân, quyết đấu tranh  
không khoan nhượng đối với kẻ thù xâm lược. Khi vua biết đặt quyền lợi của đất nước, 
nhân dân lên trên hết thì họ trung thành với lý tưởng trung quân. Khi vua không còn là bậc 
minh quân, nhà nho đặt yêu nước lên trên lý tưởng trung quân, sẵn sàng hy sinh vì quyền  
lợi dân tộc. Không chỉ Nguyễn Đình Chiểu mà còn nhiều tác giả khác ở Nam Bộ hay ở 
18


các vùng miền khác rất yêu mến và ngợi ca con người trung nghĩa: sống, chết vì lý tưởng,  
đánh giặc cứu nước, tâm hồn trong sáng, yêu đời, yêu người, yêu quê hương, làng xóm; 
nhân cách cao đẹp, không hạ mình làm nô lệ.  Đó là một hình tượng đẹp, biểu trưng cho 
phẩm chất con người Nam Bộ nói riêng và người Việt Nam nói chung: tất cả vì lợi ích  
của nhân dân, đất nước, sẵn sàng chiến đấu chống lại thực dân Pháp xâm lược và bọn tay  
sai bán nước. 
3.3.2. Vẻ đẹp của bản linh và s
̃
ự lựa chọn ứng xử trước các thử thách lịch  
sử
Con người trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ luôn đứng trước những lựa 
chọn, thử thách khốc liệt, phải có bản lĩnh vững vàng mới giải quyết được chữ trung, 
nghĩa theo hướng tích cực, không để mình rơi vào ngu trung, bất nghĩa. Đặc biệt khi 
buộc phải lựa chọn, người trung nghĩa biết ứng xử một cách hợp lẽ  nhất: buông sự 
sống quý giá của mình để vì điều nghĩa. Con người trung nghĩa ở vùng đất Nam Bộ 
luôn biết lựa chọn chính nghĩa, chọn hướng đi phù hợp với yêu cầu của giai đoạn lịch 
sử  và nguyện vọng nhân dân. Các nhà nho Nam Bộ đã có sự chủ động lựa chọn các  
cách ứng xử, đáp ứng yêu cầu cuộc đấu tranh chống xâm lược, đáp ứng đòi hỏi dân tộc 
và sự phát triển văn học. 
3.3.3. Sức khái quát nghệ thuật của mẫu hình con người trung nghĩa trong  
văn học nhà nho Nam Bộ giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX
Con người trung nghĩa là một hình tượng thẩm mỹ trung tâm của văn học nhà nho 

Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX. Con người trung nghĩa trong văn học được biểu hiện rất 
đa dạng. Nếu nhìn theo giai tầng, thành phần xã hội thì có thể  thấy, con người trung  
nghĩa xuất hiện trong nhiều tư cách khác nhau:  người trí thức, kẻ sĩ, quan chức, lãnh tụ  
nghĩa quân, nông dân/ nhân dân,… Nếu nhìn theo chủ thể phát ngôn của văn bản sáng 
tác hoặc là nhân vật trong các sáng tác, không khó để thấy rằng con người trung nghĩa là  
hình tượng tác giả ­ hiện thân của tác giả ngoài đời, đồng thời là nhân vật trữ tình trong  
tác phẩm. 
Con người được nhìn từ nhiều tư cách khác nhau: có khi là lãnh tụ nghĩa quân, có 
khi trong tư cách công dân/ người lính/ chiến sĩ/ nông dân, có khi trong tư cách bề tôi ­ 
phận tôi con. Các nhà nho Nam Bộ tìm cách cho con người trung nghĩa tồn tại ở mọi  
khả năng, mọi hình thức có thể, hoặc qua nhân vật lịch sử, nhân vật ẩn sĩ, nhân vật có 
thật trong đời thường, hoặc  ở nhiều dạng thái khác nhau của nhân vật trữ tình trong 
thơ, hay là đối tượng trữ tình hoặc được miêu thuật trong tác phẩm. Từ  đó nhà nho 
khắc họa nhân cách, con người lý tưởng, những mẫu mực trung, nghĩa.
Vậy là nhìn từ góc độ nào, tiêu chí nào (từ các thành phần, giai tầng trong xã hội; 
từ  chủ  thể phát ngôn của văn bản sáng tác; từ  nhân vật trữ  tình hay nhân vật được  
miêu tả trong tác phẩm,…) cũng có thể thấy thế giới nhân vật trong văn học nhà nho 
Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX hết sức phong phú, đa dạng; phong phú, đa dạng nhưng 
rất thống nhất ở vẻ đẹp trung nghĩa. Hoàn toàn có cơ sở để khẳng định: nói đến con  
người trong văn học nhà nho Nam Bộ  nửa sau thế  kỷ  XIX, trước hết và bao quát 
nhất, phải nói đến con người trung nghĩa. Đây thực sự là hình tượng thẩm mỹ trung 
tâm, có sức khái quát nghệ thuật lớn, có ý nghĩa xã hội ­ thẩm mỹ sâu sắc. Sức sống, 
19


sức hấp dẫn và khả  năng trường tồn của văn học nhà nho Nam Bộ  nửa sau thế kỷ 
XIX, trước hết và cơ bản là sự tỏa sáng của hình tượng thẩm mỹ trung tâm này: con  
người trung nghĩa.
Tiểu kết Chương 3
Quan niệm trung nghĩa và con người trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ 

được hình thành từ nhiều tiền đề/ cơ sở khác nhau: từ ảnh hưởng của học thuyết Nho  
giáo; từ truyền thống tư tưởng dân tộc, đặc biệt là tinh thần vì nghĩa của con người Nam 
Bộ; từ hiện thực cuộc kháng chiến chống xâm lăng, chống thỏa hiệp đầu hàng của miền  
đất Lục tỉnh Nam Bộ,… Tuy nhiên từ tất cả các tiền đề/ cơ sở đó, để có con người trung  
nghĩa trong văn học, nhân tố quyết định vẫn là các nhà nho ­ nhà văn/ nhà thơ. Con người  
trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX với tất cả vẻ đẹp của tư 
tưởng, tâm hồn, nhân cách, bản lĩnh và sự lựa chọn ứng xử trước các bài toán của đời  
sống và lịch sử, thực sự là hình tượng thẩm mỹ có sức khái quát lớn, vừa mang vẻ đẹp 
của con người Lục tỉnh, vừa mang vẻ đẹp của thời đại bấy giờ. Có thể thấy ý nghĩa và 
sức sống của mẫu hình con người này còn tác động mãi về sau, nhất là trong văn học yêu 
nước và cách mạng Việt Nam thế kỷ XIX. Các tác giả của văn học nhà nho Nam Bộ giai 
đoạn nửa sau thế kỷ XIX, về cơ bản đều là các nhà nho hành đạo. Họ hành đạo với tinh 
thần đặt nghĩa nước lên trên hết; tinh thần cứu nước, cứu dân là động lực chính yếu giúp 
họ lựa chọn hướng trung quân ­ cứu quốc đáp ứng yêu cầu của lịch sử giai đoạn nửa sau  
thế kỷ XIX. Các nhà nho yêu nước Nam Bộ đã nêu cao tư tưởng trung nghĩa trước những  
bước ngoặt của lịch sử, phải chống Tây, chống cả “thiên tử chiếu”, thực hiện cái nghĩa  
đáng làm, giám chịu trách nhiệm về sự tồn vong của dân tộc.
                                                              Chương 4
             PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN CON NGƯỜI TRUNG NGHĨA

      TRONG VĂN HỌC NHÀ NHO NAM BỘ NỬA SAU THẾ KỶ XIX
4.1. Sự lựa chọn thể loại 
4.1.1. Các thể thơ
Các nhà nho Nam Bộ sử dụng đa dạng các thể thơ, đặc biệt là thơ cổ phong, thơ 
Đường luật (bằng cả chữ Hán và chữ Nôm) và một số thể thơ khác, nói chung là các thể 
ngắn có cấu trúc nhỏ gọn, chặt chẽ, mang tính cập nhật, thời sự cao . Từ hai thể cơ bản 
(cổ phong và đặc biệt là Đường luật), các nhà nho Nam Bộ đã vận dụng linh hoạt theo 
nhiều dạng khác nhau: tứ tuyệt (ngũ ngôn, thất ngôn), bát cú (ngũ ngôn, thất ngôn), bài 
luật/ trường thiên (ngũ ngôn, thất ngôn),… để biểu đạt nội dung trung nghĩa, con người 
trung nghĩa. 

Thơ Đường luật là thể thơ mang tính quy phạm cao nhất, có thi pháp chặt chẽ nhất  
trong tất cả các thể thơ thời trung đại. Cả ba phương diện chức năng, nội dung và thi pháp 
của thể thơ Đường luật đều cho thấy tính nghiêm cẩn, chu chỉnh, ngay ngắn và cũng vì 
thế mà trở nên “sang trọng”, “cao cả”. Để biểu đạt nội dung trung nghĩa, con người trung 
nghĩa (nội dung nghiêm túc, hệ trọng), hẳn là các nhà nho rất có ý thức khi tìm đến thể thơ 
Đường luật.
20


Nguyễn Thông vận dụng đa dạng các thể thơ, tuân thủ theo đúng thi pháp thể loại, 
thể  hiện cái nhìn tinh tế, đầy trân trọng đối với con người trung nghĩa. Nguyễn Đình 
Chiểu chủ yếu viết bằng chữ Nôm, hầu hết là thể thơ Đường luật ca ngợi những tấm 
gương trung nghĩa yêu nước ở Nam Bộ. Thơ Đường luật của Học Lạc vừa mang tính trữ 
tình, vừa có tính thời sự sâu sắc, giãi bày tâm sự hết sức tinh tế, sâu lắng; nỗi niềm yêu  
nước vẫn da diết khôn nguôi nhưng đầy khắc khoải và ý thức phản tỉnh, nhiều day dứt  
nghẹn ngào. Nhiêu Tâm là nhà thơ trữ tình trào phúng, thường có sự kết hợp giữa cái bi và  
cái hài, thể hiện tâm trạng ray rứt trước những vấn đề thời sự…
4.1.2. Các thể loại biền văn
Biền văn (văn biền ngẫu) là loại văn có hình thức cấu trúc lấy đối làm nguyên tắc  
cơ bản, các câu văn sóng đôi đối nhau (đối ý, đối thanh, đối từ); các thể loại biền văn tuy 
có nhược điểm là gò bó trong diễn tả tư tưởng, tình cảm, nhưng lại có ưu điểm lớn 
trong truyền đạt, phổ biến và khắc sâu các thông tin. Trong văn học nhà nho Nam Bộ 
nửa sau thế kỷ XIX, các thể biền văn được dùng nhiều và có giá trị nghệ thuật cao, tiêu 
biểu là hịch (hịch đồng thời cũng thuộc văn chính luận), văn tế và câu đối (đối liên).
Hịch là thể văn hùng biện dùng để kêu gọi, cổ vũ cuộc chiến đấu chống xâm lược 
của nhân dân ta, khơi dậy lòng căm thù của tướng sĩ, kêu gọi đoàn kết chiến đấu, kết  
hợp lên án ngoại xâm và kết tội vương triều.  Hịch Trương Định miêu tả  hành động 
Trương Định mạnh mẽ dữ dội với giọng điệu xót thương để tố cáo tộc ác của giặc, thôi  
thúc mọi người quyết tâm chống giặc cứu nước;  Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây  
khuyên mọi người không nên thấy triều đình giảng hòa với giặc mà bỏ rơi vũ khí.

Văn tế viết theo thể biền ngẫu bằng chữ Hán hoặc Nôm, thể hiện tình cảm tiếc  
thương, ngợi ca những anh hùng trung nghĩa, qua đó khái quát lòng yêu nước, tinh thần  
đấu tranh bất khuất của nhân dân. Văn học nhà nho Nam Bộ có nhiều bài văn tế gây xúc  
động lớn, nhất là những bài văn tế  khóc thương những con người hy sinh vì nước. 
Nguyễn Đình Chiểu có nhiều bài văn tế xuất sắc, xứng tầm kiệt tác: Văn tế Trương  
Định, Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh, Văn tế vong hồn mộ nghĩa, Văn tế nghĩa sĩ  
Cần Giuộc ngợi ca và khóc thương thống thiết những con người trung nghĩa ở Nam Bộ.
Câu đối (Đối liên) là thể loại cũng được nhiều nhà nho vận dụng  và được mọi 
tầng lớp xã hội ưu thích. Câu đối tiếng Việt ­ chữ Nôm lại rất phổ biến do đặc điểm  
ngữ âm và từ vựng nên có nhiều nét đặc sắc, nhất là những câu đối mang tính trào lộng.
4.1.3. Các thể văn chính luận
Văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX vận dụng khá nhiều thể văn chính 
luận như: luận, thuyết, thư, biểu, tấu, sớ, tụng, minh, dụ,… Văn chính luận có lập luận 
sắc sảo, chặt chẽ, hùng hồn và sử dụng hiệu quả các biện pháp tu từ, giúp cho nhà nho  
giãi bày tâm tư, tình cảm đối với con người trung nghĩa ở Nam Bộ. Thể văn chính luận 
có sự kết hợp chặt chẽ giữa tư duy hình tượng, tư duy lôgíc, giúp cho việc thể hiện tư 
tưởng, tình cảm đối với đất nước một cách tự nhiên, nhất là miêu tả người anh hùng 
nghĩa hiệp cứu nước, đặc biệt nêu cao tấm gương tiết liệt của lãnh binh khởi nghĩa  
trước kẻ thù xâm lược.
4.1.4. Các thể loại văn xuôi tự sự

21


Các thể văn xuôi tự sự có những ưu thế riêng trong phản ánh thực tế phong phú,  
đa dạng và lý giải nhiều vấn đề  đặt ra của thời cuộc.  Truyện có bước chuyển mới: 
phản ánh trực tiếp và tức thời những điều mắt thấy tai nghe, cố gắng bám sát các sự 
kiện lịch sử ­ xã hội đương thời. Các nhà nho Nam Bộ ghi chép về các nhân vật trung 
nghĩa gắn với các sự kiện lịch sử vùng đất Nam Bộ, thể hiện lý tưởng, tâm hồn, tính 
cách của con người Nam Bộ. Ký là thể loại văn học ghi chép lại những sự việc, những 

hoạt động của con người trong đời sống,… Đặc trưng nổi bật của  ký là tôn trọng sự 
thật, tôn trọng tính khách quan của hiện thực. Trong văn học nhà nho Nam Bộ cũng có  
một số nhà nho viết ký thành công, nhất là viết về  những điều mới mẻ mà nhà nho 
“mắt thấy, tai nghe”, trong đó có những điều liên quan đến con người trung nghĩa...
4.1.5. Một số thể loại văn học dân tộc
Truyện thơ Nôm là một sáng tạo độc đáo của văn học dân tộc, một kiểu tự sự bằng  
thơ chủ yếu bằng thể lục bát. Đây là thể loại “dài hơi”, mang tính quy mô trong văn học 
trung đại. Truyện Nôm thường mang nội dung đấu tranh xã hội; lời văn thường được tổ 
chức theo lối gián tiếp thông qua lời kể của tác giả ­ người kể chuyện. Sự hiện diện của 
truyện Nôm trong văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX là một hiện tượng rất  
đáng chú ý. Nguyễn Đình Chiểu đã đưa truyện Nôm phát triển theo một hướng khác với  
truyện Nôm thời kỳ trước, gắn liền với những vấn đề thời sự nóng bỏng của dân tộc và  
thời đại ­ vấn đề  chống chủ nghĩa thực dân phương Tây, “chống sự nô thuộc văn hóa 
ngoại lai”. Với Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu đề cao trung, nghĩa, thể hiện mẫu 
người tích cực, chiến đấu để thực hành lý tưởng trung nghĩa. Với  Dương Từ ­ Hà Mậu, 
Nguyễn Đình Chiểu đã tạo dựng được một thế giới nghệ thuật hấp dẫn, sinh động, vừa  
huyền bí, vừa hết sức gần gũi với con người Nam Bộ. Truyện  Ngư Tiều y thuật vấn đáp  
lại là một hiện tượng “văn ­ y kết hợp”, khắc họa hình tượng người trung nghĩa trong một 
bối cảnh tối tăm, bi kịch của lịch sử. 
Cùng với truyện Nôm một số thể loại văn học dân tộc khác cũng góp phần khắc  
họa hình tượng con người trung nghĩa như: kịch bản tuồng, ca, vè,… 
4.2. Sự vận dụng bút pháp
4.2.1. Bút pháp trữ tình
Trong sáng tạo nghệ thuật ngôn từ, bút pháp được xem là khái niệm rất cơ bản. Bút 
pháp là “cách thức hành văn, dùng chữ, bố cục, cách sử dụng các phương tiện biểu hiện để 
tạo thành một hình thức nghệ thuật nào đó,… bút pháp cũng tức là cách viết, lối viết”.  Bút 
pháp trữ tình được hầu hết các nhà nho sử dụng thành công. Phan Thanh Giản vận dụng bút 
pháp trữ tình để thể hiện tư tưởng trung quân ­ ái quốc. Nguyễn Hữu Huân thể hiện khí 
phách kiên cường của con người trung nghĩa. Phan Văn Trị thể hiện lòng yêu nước qua lời 
thơ cảm hoài, tự thuật,… Nguyễn Đình Chiểu thể hiện sự đau đớn trước cảnh nhân dân  

khốn khổ và bày tỏ sự xót thương đối với đồng bào Nam Bộ.  Các nhà nho yêu nước dựng lên 
bức chân dung tự họa (hình tượng tác giả) với những băn khoăn, lo lắng cho thực trạng đất 
nước, họ gặp phải mâu thuẫn, bế tắc khi thực hiện nhiệm vụ chính trị và phẫn nộ tố cáo,  
phê phán hành động bán nước của bọn tay sai triều Nguyễn.
4.2.2. Bút pháp tự sự 
22


Bút pháp tự sự có ưu thế trong miêu tả cụ thể các sự kiện gắn với con người trung 
nghĩa, miêu tả bức tranh đời sống Nam Bộ với hệ thống các sự kiện vô cùng phong phú, 
đa dạng, ghi lại những biến cố lớn lao của đất nước và kêu gọi nhân dân đứng lên 
chống Pháp xâm lược. Nguyễn Thông với Truyện Trương Định thể hiện quan điểm ủng 
hộ cuộc kháng chiến ở Nam Bộ; với Truyện Hồ Huân Nghiệp, đề cập nhiều nhân vật 
có trách nhiệm đối với đất nước. Bút pháp tự  sự  được vận dụng không chỉ  miêu tả, 
khắc họa tài năng, mà còn nêu bật những phẩm chất, khí tiết đáng trân trọng của con  
người trung nghĩa... 
Bằng bút pháp tự sự, miêu thuật, nhiều nhà nho đã khắc họa một cách chi tiết,  
chân thực về những con người trung nghĩa ­ những tấm gương trung nghĩa xả thân hy  
sinh vì đại nghiệp của dân tộc, họ đại diện cho quần chúng nhân dân yêu nước Nam 
Bộ nói riêng và nhân dân yêu nước nói chung. Đó là những tấm gương hy sinh vì nước  
như  Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương, Nguyễn Hữu Huân, Phan 
Tòng, Trần Văn Thành,...  Chân dung con người  trung nghĩa được miêu tả  qua hành 
động, ngôn ngữ cùng những phẩm chất cao quý: hành động theo đạo lý, truyền thống 
tư  tưởng dân tộc, việc lựa chọn con đường đứng hẳn về  nhân dân, đấu tranh cho 
quyền lợi dân tộc…
4.2.3. Bút pháp trào phúng
Các nhà nho Nam Bộ cũng rất chú trọng bút pháp trào phúng, đứng trên lập trường 
trung nghĩa mà vạch ra những cái xấu xa của bọn bán nước và cướp nước, bóc trần 
những âm mưu chính trị và sự xấu xa của xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Bút pháp trào  
phúng đòi hỏi nhà văn phải tóm bắt lấy một mâu thuẫn gây cười trong đời sống, rồi 

dùng các yếu tố của tiếng cười như mỉa mai, châm biếm, phóng đại, khoa trương,… để 
chế nhạo, phê phán những tiêu cực lỗi thời, những hiện tượng khôi hài, lố bịch trong đời 
sống. 
Huỳnh Mẫn Đạt sử dụng lối trào phúng gián tiếp một cách kín đáo, thâm thúy, vận  
dụng những hàm ngôn, ẩn ngữ, phúng dụ, điển cố rất độc đáo để mỉa mai, châm biếm.  
Phan Văn Trị phát hiện mâu thuẫn trào phúng ở đối tượng đáng cười, sự đối lập mâu thuẫn 
giữa các cặp phạm trù: cái giả và cái thật, bản chất và hiện tượng, cái bên trong và cái bên 
ngoài,… để phê phán bọn thống trị phong kiến bất tài ham danh lợi. Các nhà nho sử dụng 
lối trào phúng vật hóa đối tượng để hạ bệ, mỉa mai, phơi bày bản chất đối tượng: Nguyễn  
Đình Chiểu vật hóa bọn thực dân Pháp qua hình ảnh ẩn dụ “lũ dê hoang”; Nhiêu Tâm ví  
những kẻ vì đồng tiền, quên đi nhân phẩm, nhân nghĩa ở đời như loài chuột cống thối tha… 
Các nhà nho Nam Bộ sử dụng linh hoạt các bút pháp khác nhau như trữ tình, tự sự, trào 
phúng, châm biếm, có khi tự sự kết hợp với trữ tình, có khi vừa tự sự, trữ tình, vừa hiện  
thực, trào phúng.
4.3. Nghệ thuật tổ chức giọng điệu và ngôn ngữ
4.3.1. Nghệ thuật tổ chức giọng điệu
Giọng điệu của văn học nhà nho Nam Bộ  đa dạng với nhiều sắc thái khác 
nhau, tính chất trữ tình ngợi ca trong văn học nhà nho Nam Bộ tạo nên giọng điệu 
chủ  đạo: ca ngợi những anh hùng nghĩa hiệp xả  thân vì nước, thể hiện sức mạnh, 
bản lĩnh của dân tộc. Giọng điệu chủ  đạo bao trùm trong thơ  ca chống Pháp thể 
23


hiện tính chiến đấu qua lời thơ  mạnh bạo, giàu chất chính luận, hùng hồn, biểu 
hiện phẩm chất, tính cách của nhà nho yêu nước Nam Bộ. 
Mỗi tác giả đều có một giọng điệu riêng trên cơ sở giọng điệu chủ đạo. Các nhà  
nho có sự  chuyển giọng linh hoạt, khi khuyên răn giáo huấn đạo đức, khi phê phán 
hay chế  giễu quân xâm lược và bọn bán nước, thể  hiện một cách kín đáo nhưng  
không kém phần rắn rỏi, cương quyết tràn đầy lạc quan, tin tưởng vào vận mệnh tốt  
đẹp của dân tộc. Nguyễn Đình Chiểu có giọng thương ghét rõ ràng, dứt khoát, bộc 

trực thẳng thắn, đầy tình nghĩa; có khi xót xa, nghẹn ngào, bi tráng. Với giọng điệu  
trữ tình, Nguyễn Thông thể hiện ý thơ mang âm hưởng nhẹ nhàng, bày tỏ tiếng nói  
ân tình với quê hương, đất nước và con người. Thơ của Phan Văn Trị có giọng điệu 
mang đầy chất tự sự, trần tình và có phần bông đùa. Giọng điệu này thích hợp với 
người dân lao động Nam Bộ, đặc biệt là mảng thơ về loài vật, giúp gửi gắm những 
tâm sự của tác giả…
4.3.2. Nghệ thuật tổ chức ngôn ngữ
4.3.2.1. Ngôn ngư trong cac sang tac b
̃
́ ́
́ ằng chư Han
̃ ́
Các sáng tác bằng chữ Hán của các nhà nho Nam Bộ cũng hết sức phong phú,  
đa dạng. Phan Thanh Giản với tập  Lương khê thi văn thảo, Nguyễn Thông với tập 
Ngọa Du Sào thi tập, Nguyễn Đình Chiểu với một số  bài thơ  chữ  Hán; nhiều bài 
thơ, câu đối tuyệt mệnh của các lãnh tụ nghĩa binh như Hồ Huân Nghiệp, Nguyễn 
Hữu Huân,… thể  hiện phẩm chất, tiết tháo của con người trung nghĩa. Nguyễn  
Thông sử  dụng chữ  Hán rất tinh tế  và giàu giá trị  biểu cảm, khơi mở  được nhiều 
trường liên tưởng, vận dụng hệ thống các điển tích, điển cố, thi liệu Hán học làm 
tăng thêm giá trị tư tưởng, tình cảm yêu nước của nhà thơ trước thời cuộc. Thơ chữ 
Hán của Phan Thanh Giản trau chuốt, sắc sảo và ngụ  nhiều tư  tưởng; sử  dụng 
nhiều điển tích, điển cố đề cập nhân vật trung nghĩa thuở xưa để bày tỏ lòng trung 
quân ­ ái quốc của mình...
4.3.2.2. Ngôn ngư trong cac sang tac b
̃
́ ́
́ ằng chư Nôm
̃
Bộ  phận văn học bằng chữ Nôm có nhiều thành tựu vượt trội trong phản ánh tư 
tưởng, tình cảm, những bất công trong xã hội phong kiến và vạch trần những cái xấu của 

vua quan phong kiến, ngợi ca con người trung nghĩa, tinh thần đấu tranh của nhân dân 
Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX. Ngôn ngữ các sáng tác chữ Nôm phát triển và đạt đến đỉnh  
cao với những tác phẩm văn học yêu nước chống Pháp, phản ánh đời sống tinh thần của  
nhân dân với nhiều tác giả tiêu biểu. Đặc biệt sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu thể hiện 
tinh thần yêu nước sâu sắc. Nhiêu Tâm sử dụng khá thành thạo các vần “nôm na”, khai 
thác thi tứ, cảm hứng của ca dao, tác phẩm vừa trào lộng, lại vừa thương cảm, khi viết về 
các đề tài của giới bình dân. Phan Văn Trị cũng được viết bằng ngôn ngữ bình dân, giản dị 
rất gần với đời sống người dân lao động, sử dụng những hình ảnh, biểu tượng đặc trưng  
ở Nam Bộ với mảng thơ về loài vật, mang hơi hướng văn học dân gian với những câu 
thành ngữ, tục ngữ, ca dao phù hợp với từng chủ đề bài thơ.
4.3.2.3. Ngôn ngư trong cac sang tac văn h
̃
́ ́
́
ọc bằng chữ Quôc ng
́ ữ
Luận án có chủ ý chỉ tập trung bao quát sáng tác của các nhà nho viết bằng chữ Hán và  
chữ Nôm, nhưng nhận thấy cần nói thêm về các sáng tác bằng chữ Quốc ngữ của các tác  
24


giả vốn cũng là nhà nho hoặc xuất thân từ nhà nho. Thiết nghĩ, điều này cũng có ý nghĩa 
nhất định. 
Sau nhiều thế kỷ vay mượn chữ Hán để sáng tác văn học, người Việt mong muốn  
có một ngôn ngữ riêng để làm phương tiện xây dựng nền văn học dân tộc. Có nhiều kiệt 
tác văn chương “Quốc ngữ Nôm” xuất hiện, đánh dấu thành tựu của văn học dân tộc. Ở 
Nam Bộ, văn học chữ Quốc ngữ một mặt còn gắn bó với phong cách văn chương cổ; 
mặt khác có những cách tân bước đầu trong việc xây dựng một phong cách ngôn ngữ 
văn   chương   bằng   chữ   Quốc   ngữ,   góp   phần   đáng   kể   trong   việc   xây   dựng   văn 
chương Quốc ngữ Nam Bộ. 

Những năm cuối thế kỷ XIX nở rộ các tác phẩm biên khảo, dịch thuật, phiên âm 
Quốc ngữ và các sáng tác văn chương của Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Huỳnh 
Tịnh Của, Nguyễn Trọng Quản,… Chữ Quốc ngữ thể hiện một cách đầy đủ mối quan 
hệ giữa phát âm và ký âm, phản ánh trung thực giọng nói địa phương của người Nam  
Bộ. Chữ Quốc ngữ giúp cho các truyện có một sức sống mới, đi vào đời sống. Mỗi câu  
văn Quốc ngữ trong mỗi câu chuyện đều vận dụng lời ăn tiếng nói với màu sắc dân gian 
Nam Bộ rất rõ, chọn một lớp từ ngữ thích hợp, từ dân gian thông tục làm tăng cái đậm  
đà của loại truyện khôi hài, tiếu lâm; từ ngữ thể hiện đạo lý nghiêm chỉnh.
Tiểu kết Chương 4
Văn học nhà nho Nam Bộ giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX vận dụng nhiều thể loại  
chuyển tải nhiều nội dung mới, đặc biệt tập trung khắc họa con người trung nghĩa yêu 
nước. Các nhà nho vận dụng phong phú các thể văn chính luận, phản ánh trung thực  
hoàn cảnh chính trị, xã hội và đời sống của người Nam Bộ; vận dụng đa dạng các thể 
thơ thể hiện tư tưởng, tình cảm, ước mơ khát vọng, băn khoăn của con người về cuộc 
sống, về đất nước; vận dụng cac thê văn xuôi t
́ ̉
ự sự để kể chuyện, phản ánh chân thật, 
sinh động đời sống nhân dân, ghi chép về các nhân vật trung nghĩa gắn với các sự kiện 
lịch sử vùng đất Nam Bộ; vận dụng truyên Nôm va môt sô thê loai dân tôc khac đ
̣
̀ ̣ ́ ̉ ̣
̣
́ ể miêu 
tả, thể hiện hình tượng con người trung nghĩa, người anh hùng vì nghĩa với những phẩm 
chất đáng trân trọng. 
Các nhà nho Nam Bộ sử dụng linh hoạt nhiều bút pháp khác nhau như trữ tình, tự sự,  
trào phúng, châm biếm để bày tỏ chân thành sâu sắc nỗi lòng đối với nhân dân, đất nước;  
xót thương, ngợi ca các lãnh binh bỏ mình vì nghĩa, khắc họa chân thực, sinh động chân 
dung, tính cách, phẩm giá cao đẹp của con người trung nghĩa. Sự đa dạng, phong phú, mang  
đậm màu sắc Nam Bộ trong giọng điệu, ngôn ngữ và nghệ thuật tổ chức ngôn từ của các 

nhà nho Nam Bộ nhằm thể hiện các nội dung mới mang tính thời sự sâu sắc xoay quanh  
một vấn đề cơ bản: con người trung nghĩa và sự tồn vong của dân tộc, cộng đồng, khiến 
cho văn học nhà nho Nam Bộ có đặc sắc riêng, vai trò, vị trí riêng. Sự đa dạng về hình thức 
văn tự/ văn bản (văn học được viết không chỉ bằng chữ Hán, chữ Nôm, mà còn cả bằng  
chữ Quốc ngữ) cũng làm cho văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX, một mặt thêm 
phong phú, độc đáo, nhưng mặt khác cũng từ đây xuất hiện thêm những phức tạp, khó bao 
quát cho người tiếp nhận,…

KẾT LUẬN
25


×