Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý đào tạo hệ vừa làm vừa học ở Trường Đại học An ninh Nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 117 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN VĂN ĐÀN

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO
HỆ VỪA LÀM VỪA HỌC Ở TRƯỜNG
ĐẠI HỌC AN NINH NHÂN DÂN
Chuyên ngành : Quản lý Giáo dục
Mã số
: 06 14 05

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HỒ VĂN LIÊN

Thành phố Hồ Chí Minh – 2007


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực
và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ
Nguyễn Văn Đàn


LỜI CẢM ƠN


Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành đến
Trường Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng khoa học,
Phòng Khoa học công nghệ & Sau đại học và quý thầy cô đã tận tình giảng dạy,
hướng dẫn tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu chương trình đào tạo Thạc sỹ
Quản lý giáo dục.
Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh
Trường Đại học An ninh nhân dân và Phòng QL Đào tạo thuộc trường
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến:
TS Hồ Văn Liên, Trưởng Khoa tâm lý Giáo dục trường Đại học sư phạm
Thành Phố Hồ Chí Minh người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình
thực hiện và hoàn thành luận văn Thạc sỹ này.
Xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Lãnh đạo các Bộ môn, Khoa, Phòng,
Trung tâm và quý thầy cô giáo và học viên của Trường Đại học An ninh nhân dân.
Cảm ơn các bạn bè đồng nghiệp và gia đình đã giúp đỡ động viên, tạo điều
kiện cho tôi hoàn thành tốt luận văn này.
Mặc dù đã cố gắng nhiều nhưng có thể luận văn vẫn không thể tránh khỏi
những thiếu sót, Kính mong được sự góp ý chân thành, nhiều ý kiến chỉ dẫn để
luận văn được hoàn thiện tốt hơn.

TP. Hồ Chí Minh tháng 09 năm 2007
Nguyễn Văn Đàn


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AN
ANQG
ANNDANND
CA
CAND
CBQL


CNH
CNH -HĐH
CNXH
CSCN
ĐT
ĐH.ANND
HĐH
GD
GD-ĐT
GV
KH KH
KHCN
KHKT
KHTN
KHXH
KTXH
HV
NC
NCKH
THPT
SX
QTDH
QTTĐ
QL
QLĐT
QLGD
QLNT
VLVH
XH

XHCN
XDLL
XDLL CAND

:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:

:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:

An ninh
An ninh quốc gia
An ninh nhân dân
Công an
Công an nhân dân
Cán bộ quản lý
Cao đẳng
Công nghiệp hóa
Công nghiệp hóa - Hiện đại hoá
Chủ nghĩa xã hội
Cộng sản chủ nghĩa
Đào tạo
Đại học An ninh nhân dân
Hiện đại hóa
Giáo dục
Giáo dục - Đào tạo

Giảng viên
Khoa học
Khoa học công nghệ
Khoa học kỹ thụât
Khoa học tự nhiên
Khoa học xã hội
Kinh tế xã hội
Học viên
Nghiên cứu
Nghiên cứu khoa học
Trung học phổ thông
Sản xuất
Quá trình dạy học
Quá trình đào tạo
Quản lý
Quản lý đào tạo
Quản lý Giáo dục
Quản lý nhà trường
Vừa làm vừa học
Xã hội
Xã hội chủ nghĩa
Xây dựng lực lượng
Xây dựng lực lượng Công an nhân dân


MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giáo dục - Đào tạo (GD-ĐT) giữ một vai trò hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và
phát triển của mỗi dân tộc, cũng như toàn thể nhân loại. Tiến trình phát triển xã hội ngày
càng khẳng định vai trò của giáo dục đào tạo đối với kinh tế - xã hội - an ninh, quốc phòng

là động lực bậc nhất thúc đẩy sản xuất, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội nhanh chóng,
hiệu quả, bền vững. Các nước trên thế giới đã nhận thức sâu sắc vai trò của GD - ĐT đối với
kinh tế, an ninh quốc phòng. Ở nhiều nước, giáo dục và đào tạo là ưu tiên hàng đầu của
quốc gia vì trình độ và chất lượng giáo dục quyết định trình độ phát triển của mỗi nước. Do
vậy, đầu tư cho giáo dục là đầu tư để tạo nguồn dự trữ chiến lược quan trọng nhất của mỗi
quốc gia.
Nghị quyết Đại hội X Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ cơ
bản của GD - ĐT, khoa học - công nghệ (KHCN) và nhiệm vụ tăng cường an ninh, quốc
phòng trong những năm đầu của thế kỷ XXI, thời kỳ công nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá
(HĐH) đất nước. “Xây dựng quân đội nhân dân và Công an nhân dân (CAND) cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Nâng cao chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu để
lực lượng vũ trang thật sự là lực lượng chính trị trong sạch, vững mạnh, tuyệt đối trung
thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin cậy, yêu mến. Đổi
mới tổ chức, nội dung, phương pháp huấn luyện, đào tạo đi đôi với cải tiến đổi mới vũ khí,
trang bị, phương tiện phù hợp với yêu cầu tác chiến mới; phát triển khoa học quân sự, khoa
học Công an (CA), nghệ thuật chiến tranh nhân dân; cải tiến phương thức hoạt động của lực
lượng chuyên trách, bán chuyên trách, phối hợp với các tổ chức của nhân dân trong bảo vệ
An ninh quốc gia (ANQG), bảo đảm trật tự an toàn xã hội (TTATXH)”.[24]
Mặt khác, Đảng ta cũng ý thức sâu sắc và luôn khẳng định tầm quan trọng của nhiệm
vụ an ninh - quốc phòng, làm rõ mối quan hệ giữa xây dựng phát triển và bảo vệ Tổ quốc,
bảo vệ sự sống còn của chế độ. V.I.Lênin đã dạy rằng: “giành chính quyền đã khó, giữ
chính quyền còn khó hơn và một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ”. [36]
Trong xu thế phát triển của thời đại, nền kinh tế tri thức đang đặt ra cho giáo dục - đào
tạo trọng trách lớn lao và trách nhiệm nặng nề: đào tạo con người có tri thức khoa học. Bên
cạnh đó Đảng và Nhà nước đã quan tâm, đầu tư cho giáo dục, coi “giáo dục là quốc sách
hàng đầu” để xây dựng và phát triển đất nước. Khoa học giáo dục hiện đại cũng đang rất
quan tâm vấn đề nâng cao chất lượng đào tạo, nhằm đào tạo xây dựng con người có đầy đủ
phẩm chất và năng lực hội nhập một cách sáng tạo vào cuộc sống luôn đổi mới. Do đó nâng



cao chất lượng dạy và học là một yêu cầu quan trọng và bức xúc ở mọi cấp, mọi ngành học
hiện nay.
Trường Đại học An ninh nhân dân (ĐH.ANND) là một trong sáu trường đại học của
ngành Công an có nhiệm vụ đào tạo đội ngũ cán bộ An ninh cho lực lượng Công an các
tỉnh, thành phía Nam.
Thực hiện chủ trương đa dạng hóa các loại hình đào tạo của Đảng, Nhà nước nhằm
nhanh chóng đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài…. Trong nhiều năm qua Trường
ĐH.ANND đã tổ chức đào tạo hàng chục ngàn lượt học viên trong đó có hệ vừa làm vừa
học (VLVH); đặc biệt là hệ vừa làm vừa học liên kết với Công an các địa phương.
Trên nguyên tắc chung, đào tạo hệ VLVH tại trường ĐH.ANND cũng tuân thủ các quy
định chung của nhà nước. Song do tính chất, đặc điểm công tác của ngành, việc đào tạo hệ
này của ngành CA nói chung và của trường ĐH.ANND nói riêng mang những nét riêng biệt
về nhiều vấn đề từ công tác tuyển sinh đến quá trình tổ chức đào tạo, quản lý đào tạo đối với
hệ VHVL.
Thực tế việc tổ chức đào tạo hệ VLVH đã được Trường ĐH.ANND triển khai tổ chức
đào tạo từ nhiều năm qua. Nhưng do những lý do khách quan và chủ quan việc nghiên cứu
tổng kết, đáng giá một cách khách quan, khoa học về công tác quản lý đào tạo đối với hệ
VLVH chưa được tiến hành, để không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đào
tạo. Là người làm công tác quản lý đào tạo tại trường đại học ANND, lại được trực tiếp làm
công tác quản lý (QL) hệ VLVH bản thân tác giả nhận thấy sự cần thiết của việc nghiên
cứu, đánh giá thực trạng công tác QL hệ VLVH và từ đó đề xuất các biện pháp nâng cao
chất lượng công tác đào tạo đối với hệ này của trường ĐH.ANND.
Với cách tiếp cận trên, tôi chọn nghiên cứu vấn đề: “Thực trạng quản lý đào tạo hệ
vừa làm vừa học ở trường đại học ANND” làm đề tài của luận văn Thạc sỹ, chuyên ngành
quản lý giáo dục.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát thực trạng chỉ ra được ưu điểm và những tồn tại của
quá trình tổ chức đào tạo và đề xuất các biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng đào
tạo hệ VLVH của trường ĐH.ANND.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU

- Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng quản lý đào tạo hệ vừa làm vừa học ở trường
ĐH.ANND.
- Khách thể: Công tác QL đào tạo hệ vừa làm vừa học ở trường ĐH.ANND.
4.

NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

Đề tài tập trung giải quyết nhiệm vụ sau:


- Hệ thống hóa cơ sở lý luận của đề tài:
- Khảo sát thực trạng công tác quản lý đào tạo hệ VLVH ở trường ĐH.ANND
- Đề xuất các biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng công tác đào tạo hệ VLVH
ở trường đại học ANND.
5. GIỚI HẠN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Phạm vi nghiên cứu:
- Địa bàn: Chỉ nghiên cứu thực trạng quản lý hệ đại học vừa làm vừa học theo hình
thức liên kết với một số địa phương từ Phú Yên đến Cần Thơ.
- Nội dung nghiên cứu: Thực trạng quản lý đào tạo đối với hệ vừa làm vừa học ở
trường ĐH.ANND:
+ Công tác tuyển sinh.
+ Công tác quản lý giảng dạy của GV.
+ Quản lý học tập của học viên.
+ Quản lý kiểm tra, đánh giá.
+ Quản lý cơ sở vật chất, tài chính.
+ Sự phối hợp giữa các đơn vị trong và ngoài trường.
6. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Công tác quản lý đào tạo hệ vừa làm vừa học liên kết với các địa phương của trường
ĐHANND còn có những bất cập như:
- Công tác tuyển sinh còn hạn chế, tổ chức và quản lý dạy học chưa phù hợp với địa

phương.
- Sự phối hợp quản lý thiếu đồng bộ, còn tùy thuộc vào sự quản lý của từng địa
phương và các GV trực tiếp giảng dạy.
Trên cơ sở đáng giá thực trạng thì có thể đề xuất các biện pháp quản lý nhằm khắc
phục được những hạn chế nói trên.
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
+ Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi.
+ Phương pháp phỏng vấn.
+ Phương pháp tọa đàm, trao đổi.
+ Phương pháp nghiên cứu hồ sơ.
- Phương pháp chuyên gia.
- Phương pháp toán thống kê.
8. KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU


- Tháng 4/2006: Xây dựng và bảo vệ đề cương.
- Từ tháng 4 đến tháng 7 thu thập thông tin lý luận và thực tiễn.
- Từ tháng 7 đến tháng 9 xử lý thông tin và viết luận văn.


Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Quản lý giáo dục (QLGD) nói chung, quản lý đào tạo (QLĐT) tại các trường nói riêng
đã được nhiều nhà khoa học, các tác giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu dưới
những góc độ khác nhau.
Tại Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong báo cáo chính trị của Ban
chấp hành Trung ương vẫn tiếp tục khẳng định “Tăng cường hiệu lực quản lý của nhà nước
là công tác cấp bách, là điều kiện tất yếu đảm bảo huy động lực lượng to lớn của quần

chúng nhân dân, để hoàn thành mọi nhiệm vụ chính trị do Đảng đề ra, đáp ứng nguyện vọng
của nhân dân.”[24] Việc nghiên cứu về quản lý đào tạo từ trước đến nay đã được nhiều nhà
nghiên cứu, nhà giáo dục và nhà QL cùng nhiều tác giả quan tâm. Đáng chú ý là gần đây
một số tác giả trong nước nghiên cứu về lĩnh vực này, một số tác phẩm tiêu biểu như:
Giáo sư Trần Chí Đáo với bài viết: “Các hướng đổi mới Quản lý đại học Việt Nam
trước bối cảnh kinh tế - xã hội hiện nay”, đã đề cập tới vài dự báo về thế kỷ XXI.
GS. Trần Hồng Quân nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo với các bài: “Những
hướng tiếp cận và giải pháp đổi mới giáo dục ở Việt Nam hướng vào thế kỷ XXI”, Bài
“Nâng cao chất lượng đào tạo đại học để đáp ứng yêu cầu CNH, hiện đại hóa đất nước”đã
đề cập những xu hướng phát triển giáo dục thế giới thế kỷ XXI, thuận lợi và thách thức đối
với giáo dục Việt Nam, hướng tiếp cận và một số giải pháp đổi mới giáo dục nước nhà trước
thế kỷ mới.
Tác giả Nguyễn Văn Lê (1985) đã bàn về “Khoa học quản lý nhà trường”.
PGS-TS Hoàng Tâm Sơn và các giảng viên ở trường Cán bộ QLGD II – Bộ Giáo dục
& Đào tạo bàn về: “Tâm lý học với quản lý trường học”.
GS. Lâm Quang Thiệp nguyên Vụ trưởng Vụ Đại học có bài viết: “Việc quản lý chất
lượng đào tạo và cải tiến phương pháp đánh giá kết quả học tập của học viên”, xem việc
đánh giá kết quả học tập của học viên là một nhiệm vụ tất yếu, không thể thiếu trong quá
trình giảng dạy, đó là chức năng đánh giá và thẩm định chất lượng đào tạo.
Tác giả Lê Diệu Hiền với đề tài: “Một số biện pháp xây dựng và nâng cao chất lượng
đội ngũ CB giảng dạy ở trường Cao đẳng Hải quan” nghiên cứu việc nâng cao chất lượng
đội ngũ giáo viên ở trường Cao đẳng Hải quan.
Hoàng Lê Tuân với đề tài: “Nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục đào tạo của trường
Cao Đẳng Văn hóa - Nghệ thuật Tp. Hồ Chí Minh”.
Hoàng Sỹ Chung với đề tài: “Thực trạng hoạt động quản lý quá trình đào tạo tại trường
Trung học Kỹ thuật Hải quân và một số giải pháp”.


Nhiều tác giả đã nghiên cứu quá trình QLGD, QL nhà trường và thực tế này đã mở ra
sự hiểu biết rộng rãi và đa dạng về quá trình quản lý một trường đại học cụ thể, nhưng việc

nghiên cứu cụ thể về quản lý đào tạo ở các trường học của lực lượng vũ trang thì rất ít. Do
đó chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài này hy vọng tìm thấy cái mới trong công tác QL đào tạo
VLVH ở ĐH.ANND.
1.2. Các khái niệm
1.2.1. Khái niệm quản lý
Theo Từ điển tiếng Việt “Quản lý” là “trông nom, xếp đặt công việc trong một cơ
quan, xí nghiệp.[49]
Thuật ngữ “Quản lý”(tiếng Việt gốc Hán) lột tả bản chất của hoạt động này trong thực
tiễn. Nó gồm 2 quá trình tích hợp vào nhau. Quá trình “Quản” gồm sự coi sóc, giữ gìn, duy
trì ở trạng thái “ổn định”; quá trình “lý” gồm sửa sang, sắp xếp, đổi mới, đưa hệ vào thế
“phát triển”. Suy cho cùng thì bản chất của hoạt động QL là cách thức tác động (tổ chức,
điều khiển, chỉ huy) hợp quy luật của chủ thể quản lý đến khách thể và đối tượng QL trong
một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành đạt hiệu quả mong muốn và đạt được mục tiêu
đã đề ra.
Theo các nhà QL học “Hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự phân công và hợp tác lao
động. Chính sự phân công, hợp tác lao động nhằm đến hiệu quả nhiều hơn, năng suất cao
hơn trong công việc, đòi hỏi phải có sự chỉ huy, phối hợp, điều hành, kiểm tra, chỉnh lý…
Phải có người đứng đầu.”[51]
Hoạt động quản lý đã xuất hiện rất sớm cùng với sự hình thành các cộng đồng người.
Từ xa xưa các nhà quản lý và các nhà tư tưởng đã thấy rõ vai trò của nhân tố con người
trong hoạt động quản lý.
Nhà triết học Cổ đại Xôcrát (460 – 399 TCN) đã từng chỉ ra rằng, trong hoạt động
quản lý nếu biết sử dụng con người thì sẽ thành công, trái lại nếu không làm được điều đó sẽ
sớm sai lầm và thất bại.
Quản lý là một hoạt động cần thiết cho tất cả lĩnh vực của đời sống con người, ở đâu
có con người tạo lập nên nhóm xã hội là ở đó cần đến quản lý. Khái niệm về quản lý được
sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực.
Theo Mary Parker Follet: Quản lý là nghệ thuật khiến công việc được thực hiện thông
qua người khác.
Theo F.Taylor (1856 - 1915) là người đầu tiên làm cho các vấn đề của quản lý thành

đối tượng của môn học khoa học độc lập và chính ông đã biến các tư tưởng quản lý thành
các nguyên tắc và kỹ thuật lao động cụ thể, tạo ra được năng suất, hiệu quả cao trong sản


xuất: “Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm và sau đó hiểu được
rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất, rẻ nhất”.[14]
Theo nhà lý luận quản lý Henry Fayol: “Quản lý hành chính là dự đoán và lập kế
hoạch, tổ chức điều khiển, phối hợp và kiểm tra”. [14]
Quản lý theo sự phân tích của K.Mark là: “Chức năng chủ yếu quản lý là liên hợp,
tháp hợp tất cả các mặt hoạt động của tổ chức và của những người tham gia tổ chức đó
thành một chỉnh thể”.[26] Theo K. Mark chức năng quan trọng tất yếu của lao động xã hội,
nó gắn chặt với sự phân công, hợp tác dưới sự điều khiển, chỉ huy thống nhất, đồng bộ trong
các hoạt động của các bộ phận cấu thành hệ thống. K. Mark cho rằng: “Mọi lao động xã hội
trực tiếp hay lao động chung, có quy mô tương đối lớn hoặc nhiều hoặc ít cần có sự chỉ huy,
nhằm điều hòa hoạt động của các cá nhân và thực hiện các chức năng nói chung sinh ra
trong vận động tổng thể của sản xuất khác với sự vận động của một công cụ độc lập… Một
người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc
trưởng”.[42]
Theo Kzlova O.V. thì: “Quản lý là sự tác động có mục đích đến tập thể con người để
tổ chức và phối hợp hoạt động của họ trong quá trình sản xuất”.[33]
Các nhà nghiên cứu về quản lý và QLGD nước ta, các Giáo sư, các nhà tư tưởng trong
quá trình nghiên cứu của mình cũng đưa ra các định nghĩa, các khái niệm về quản lý như
sau: Theo GS. Hà Thế Ngữ: “Quản lý là một quá trình định hướng, quá trình có mục tiêu,
quản lý là một hệ thống, là quá trình tác động đến hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu
nhất định, những mục tiêu này đặc trưng cho trạng thái của một hệ thống mà người quản lý
mong muốn”.[35]
Theo GS. Hoàng Chúng và Phạm Thanh Liêm: “Quản lý là tác động có mục đích đến
tập thể những con người nhằm tổ chức và phối hợp hoạt động của họ, động viên kích thích
họ trong quá trình lao động”.[11]
Theo tác giả Hà Sỹ Hồ: “Quản lý là một quá trình tác động có định hướng (có chủ

định) có tổ chức, có lựa chọn trong các tác động có thể có dựa trên các thông tin về tình
trạng của đối tượng và môi trường nhằm giữ cho vận hành của đối tượng được ổn định và
làm cho nó phát triển tới mục đích đã chọn”.[26]
Theo TS. Nguyễn Văn Lê: “Quản lý là một hệ thống xã hội, là khoa học, là nghệ thuật
tác động vào hệ thống đó mà chủ yếu là vào những con người nhằm đạt hiệu quả tối ưu theo
mục tiêu đề ra”.[37]
Theo TS. Nguyễn Tấn Phước: “Quản trị là quá trình hoạch định, tổ chức bố trí nhân
sự, lãnh đạo và kiểm soát công việc và những nỗ lực của con người, đồng thời vận dụng một


cách có hiệu quả mọi tài nguyên (gồm con người, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, tiền
bạc, bí quyết công nghệ v.v…) để hoàn thành các mục tiêu đã định”. [5]
Theo TS.Nguyễn Thị Liên Diệp: “Quản trị là một phương thức làm cho những hoạt
động được hoàn thành với một hiệu suất cao, bằng và thông qua những người khác. Phương
thức này bao gồm những chức năng hay hoạt động cơ bản mà nhà quản trị có thể sử dụng.
Đó là hoạch định, tổ chức, điều khiển và kiểm tra”.[13] Quản trị là những hoạt động cần
thiết được thực hiện khi con người kết hợp với nhau trong các tổ chức nhằm đạt được những
mục tiêu chung”.[13]
Theo tác giả Mai Hữu Khuê: “Quản lý là sự tác động có mục đích của các cán bộ quản
lý đối với tập thể con người nhằm làm cho hệ thống hoạt động bình thường, giải quyết được
nhiệm vụ đề ra”.[31]
Như vậy, có nhiều cách định nghĩa, có rất nhiều các khái niệm khác nhau. Nhưng theo
chúng tôi định nghĩa về quản lý của GS.Vũ Dũng hiểu theo nghĩa tổng quát nhất: “Quản lý
là sự tác động có định hướng, có mục đích, có kế hoạch và có hệ thống thông tin của chủ thể
đến khách thể của nó”.[15]
Tuy nhiên, cần phân biệt giữa quản lý với lãnh đạo. Đây là hai thuật ngữ không đồng
nhất về mặt ý nghĩa… “Lãnh đạo là quá trình định hướng dài hạn cho các chuỗi các tác
động của chủ thể quản lý, còn quản lý là quá trình chủ thể tổ chức liên kết và tác động lên
đối tượng bị quản lý để thực hiện các định hướng tác động dài hạn”. [48] “Lãnh đạo thiên về
quyết sách của phương châm chính trị lớn về chấp hành chính sách, tổ chức lực lượng hoàn

thành mục tiêu tổ chức”.[42]
Tóm lại: Quản lý được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã hội, tức là hoạt
động quản lý chỉ cần thiết và tồn tại đối với một nhóm người. Còn đối với một cá nhân
người ta tự điều khiển hoạt động của mình. Quản lý bao gồm công việc chỉ huy và tạo điều
kiện cho những người khác thực hiện công việc và đạt được mục đích của nhóm. Có thể nói
hệ thống quản lý là sự tác động tương hỗ biện chứng giữa chủ thể và khách thể quản lý.
Quản lý vừa là khoa học vừa là nghệ thuật.
- Quản lý là khoa học vì nó là lĩnh vực tri thức được hệ thống hoá và là đối tượng
nghiên cứu khách quan đặc biệt. Quản lý là khoa học phân loại kiến thức, giải thích các mối
quan hệ giữa chủ thể và khách thể quản lý, dự báo kết quả.
- Quản lý là nghệ thuật bởi lẽ nó là hoạt động đặc biệt hoạt động này đòi hỏi vận dụng
hết sức khéo léo, linh hoạt những kinh nghiệm đã quan sát được, những tri thức đã được đúc
kết. Người quản lý thông qua tri thức và kinh nghiệm áp dụng những kỹ năng cần thiết vào
tổ chức con người và công việc.
Quản lý có cấu trúc và vận động trong một môi trường xác định.


1.2.2. Đặc điểm cơ bản của quản lý
Quản lý trước hết là hoạt động có mục đích, có tổ chức để điều chỉnh các mối quan hệ.
Quản lý được đảm bảo thông tin của các tuyến trong quan hệ trên, dưới, ngang, dọc,
trong, ngoài.
Quản lý có những mối quan hệ của sự lựa chọn thành phần cụ thể tạo nên quá trình
điều khiển như một tổng thể. Nó có những quy định về mối liên hệ trong, ngoài.
Trong quá trình quản lý việc ra quyết định và thực hiện quyết định được tiến hành tuần
tự theo các bước nhất định.
1.2.3. Khái niệm quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục là một bộ phận của hệ thống quản lý xã hội. Theo GS. VS. Phạm
Minh Hạc: “QLGD hay còn được hiểu là quản lý nhà trường (QLNT) là thực hiện đường lối
giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình tức là đưa nhà trường vận hành theo
nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục,

với thế hệ trẻ và với từng học sinh”. “QLNT, QLGD là tổ chức hoạt động dạy học… có tổ
chức hoạt động dạy học, thực hiện được các tính chất của nhà trường Việt Nam XHCN…
cần cụ thể hóa đường lối giáo dục của Đảng và biến đường lối đó thành hiện thực, đáp ứng
yêu cầu của nhân dân, của đất nước”.[28]
Theo GS.TS. Nguyễn Ngọc Quang: “QLGD nói chung và QLTH nói riêng là hệ thống
những tác động có mục đích, có kế hoạch, kết hợp quy luật của chủ thể quản lý (hệ giáo
dục) nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện
được các tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam, mà mục tiêu hội tụ là QTDH – giáo
dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất”.[44]
Như vậy: QLGD là loại hình quản lý đa dạng và phức tạp do hệ thống giáo dục có mục
tiêu nhất quán cao, mang tính chất thể chế hóa, trong phạm vi rộng. Chính vì vậy hoạt động
QLGD cần huy động được lực lượng toàn thể xã hội tham gia, nhằm đáp ứng các mục tiêu
văn hóa, kinh tế, xã hội của đất nước. Hiểu một cách đầy đủ QLGD là sự tác động một cách
có kế hoạch, có chủ định của chủ thể quản lý vào hệ thống giáo dục, làm cho hệ thống giáo
dục vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, trên cơ sở vận dụng các quy
luật của quá trình giáo dục nhằm hình thành và phát triển nhân cách của đối tượng giáo dục,
hướng đến việc thực hiện các nhiệm vụ và mục tiêu giáo dục đã được xác định. QLGD
mang tính xã hội cao, sâu sắc vì “đối tượng cơ bản nhất của QLGD là con người, những chủ
thể của quá trình GDĐT, nhân vật trung tâm quyết định sự thành bại của việc thực hiện các
nhiệm vụ và mục tiêu giáo dục”.[26]
Về bản chất QLGD là sự tác động của nhà quản lý đến tập thể giáo viên, học sinh và
các lực lượng khác trong xã hội nhằm thực hiện hệ thống của mục tiêu giáo dục. QLGD là


tập hợp những biện pháp tổ chức, phương pháp, kế hoạch hoá, tài chính cung tiêu … nhằm
đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục, đảm bảo sự tiếp
tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về số lượng cũng như chất lượng. Tác động có hệ
thống, có kinh nghiệm, có ý thức và có mục đích của các chủ thể quản lý ở các cấp khác
nhau đến tất cả các khâu của hệ thống (từ Bộ đến trường) nhằm mục đích đảm bảo việc giáo
dục nhân sinh quan cho thế hệ trẻ, đảm bảo sự phát triển toàn diện, hài hòa của họ .

QLGD là QLNT là tổ chức hoạt động dạy học có tổ chức được hoạt động thực hiện
được các tính chất của nhà trường Việt Nam XHCN, cần cụ thể hoá đường lối giáo dục của
Đảng và biến đường lối đó thành hiện thực, đáp ứng yêu cầu của nhân dân, của đất nước.
Khác với những cơ sở không phải là trường học PGS.TS Trần Tuấn Lộ so sánh: “Thứ
nhất: nhiệm vụ của nhà trường là dạy học, giáo dục con người - Đào tạo những con người
có kiến thức văn hoá, khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp, lao động tự chủ, sáng tạo và có kỷ
luật, giàu lòng nhân ái, yêu nước, yêu CNXH, sống lành mạnh, đáp ứng nhu cầu phát triển
đất nước”.
Như vậy đặc điểm của quản lý nhà trường là quản lý con người. Con người trong nhà
trường (đối tượng quản lý) là các thế hệ trẻ tương lai của đất nước, những con người cần
được trang bị tri thức KH-CN, nghề nghiệp, được phát triển trí tuệ.
Thứ hai: nhà trường ngoài nhiệm vụ dạy học, nghiên cứu ra đây còn là môi trường
giáo dục con người. Mà giáo dục con người là sự quản lý tác động đến tư tưởng tình cảm,
đạo đức, là nhân sinh quan, thế giới quan, lòng yêu nước, yêu dân tộc, yêu chế độ
XHCN.”[38]
Tóm lại: Giáo dục là để con người có nhân cách. Sản phẩm của nhà trường là nhân
cách học sinh.
Còn đối với các cơ quan không phải là nhà trường: “Có quản lý con người và cả sự QL
cơ sở vật chất. Tuy nhiên mục đích QL con người đó không phải là các em học sinh, mà con
người đó là đối tượng làm ra vật chất, làm ra kinh tế, hay làm một công việc gì đó không
phải là giảng dạy, là học tập, là GD. Sản phẩm QL không hoàn toàn là nhân cách mà là kinh
tế là lợi nhuận, là sản phẩm… ”[38]
1.2.4. Chức năng cơ bản của quản lý giáo dục
Chức năng của hoạt động quản lý là lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra các
công việc của các thành viên trong tổ chức và của việc sử dụng tất cả các khả năng, cách tổ
chức để đạt được mục tiêu và tổ chức đã đề ra.
Quản lý có 4 chức năng cơ bản sau: lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, điều khiển và kiểm
tra.
a/ Lập kế hoạch



Là việc ra quyết định, bao gồm việc lựa chọn phương hướng, đường lối, hành động mà
tổ chức nào đó và các bộ phận của nó phải tuân theo nhằm hoàn thành các mục tiêu của tổ
chức.
Lập kế hoạch là công việc liên quan đến việc thiết lập các mục tiêu cần thiết cho sự
phấn đấu của tổ chức. Lập kế hoạch là nền tảng của quản lý.
Nếu chỉ tuyên bố về các mục tiêu đã lựa chọn thì nó vẫn chỉ là những ước muốn và hy
vọng, mặc dù có tính toán, nghiên cứu kỹ lưỡng. Muốn biến các mục tiêu thành hiện thực
thì phải lập kế hoạch.
- Lập kế hoạch để thực hiện hệ thống mục tiêu tức là tìm các nguồn lực (nhân lực-vật
lực-tài lực) và thời gian, không gian... cần cho việc hoàn thành các mục tiêu.
- Chi phí về tất cả các mặt phải được xác định. Hơn nữa phải tìm ra phương án chi phí
ít nhất cho việc thực hiện mỗi một mục tiêu. Vì đạt được mục tiêu với chi phí ít nhất là để
đạt được hiệu quả cao nhất trong công việc. Đó là điều mà bất kì người quản lý nào cũng
mong muốn và cố gắng đạt được.
- Tính cân đối của kế hoạch đòi hỏi người quản lý phải tìm ra đủ các nguồn lực và điều
kiện để thực hiện mỗi mục tiêu. Nó cũng không cho phép tập trung các nguồn lực và điều
kiện cho việc thực hiện mục tiêu này mà bỏ mục tiêu khác đã lựa chọn. Cân đối giữa hệ
thống mục tiêu và các nguồn lực và điều kiện thực hiện chúng, hay nói khác đi, cân đối giữa
yêu cầu và khả năng đòi hỏi người quản lý phải nắm vững khả năng mọi mặt của tổ chức
mình, kể cả các tiềm năng có thể có, thấu hiểu từng mục tiêu và tính toán tỉ mỉ việc đầu tư
cho mỗi mục tiêu theo một phương án tối ưu.
Mặc dù đã dự đoán mọi tình hình nhưng khi lập kế hoạch cũng không thể biết trước
một cách chính xác những thay đổi về chính sách, về nhu cầu, thậm chí cả về các nguồn lực
bên trong nhà trường. Vì vậy cần hoàn thiện và điều chỉnh kế hoạch trong quá trình thực
hiện.
b/ Tổ chức
Đó là việc xây dựng và duy trì cơ cấu nhất định về những vai trò, nhiệm vụ và vị trí
công tác trong tổ chức. Tổ chức bao gồm việc xác định một cơ cấu định trước. Tổ chức là
hoạt động cần thiết để đạt được mục tiêu, là công cụ của quản lý.

Hoạt động tổ chức trước hết và chủ yếu là xây dựng cơ cấu tổ chức: xác định các bộ
phận cần có, thiết lập mối quan hệ ngang và dọc của các bộ phận, xác định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của từng bộ phận: xây dựng qui chế hoạt động.
Trình tổ chức bắt đầu từ việc soạn thảo và quyết định các mục tiêu; tiếp theo là:
- Xác định và phân loại các hoạt động cần thiết để thực hiện mục tiêu.


- Nhóm các hoạt động lại theo nhân lực và vật tư hiện có một cách tối ưu theo hoàn
cảnh để hình thành cơ cấu tổ chức.
- Phân nhiệm và phân quyền rành mạch cho các bộ phận.
- Ràng buộc các bộ phận theo chiều dọc và chiều ngang trong mối quan hệ về trách
nhiệm, quyền hạn và thông tin.
c/ Chỉ đạo
Chỉ đạo là thể hiện tính tích cực của người chỉ huy trong hoạt động của mình. Chỉ
đạo thực hiện kế hoạch là có sự theo dõi và giám sát công việc để chỉ huy, ra lệnh cho các
bộ phận và các hoạt động của nhà trường diễn ra đúng hướng, đúng kế hoạch, tập hợp được
các lực lượng giáo dục trong một tổ chức và phối hợp tối ưu với nhau. Là quá trình tác động
đến con người, điều khiển họ, làm cho họ tự giác nỗ lực phấn đấu đạt được mục tiêu đề ra
của tổ chức.
Chỉ đạo là quá trình liên kết, liên hệ giữa các thành viên trong tổ chức, tập hợp, động
viên và hướng dẫn, điều hành họ hoàn thành những nhiệm vụ nhất định để đạt được mục
tiêu của tổ chức.
Trong khi thực hiện kế hoạch có thể có một số vấn đề chưa phù hợp với thực tiễn cần
phải điều chỉnh cho hợp lý hơn. Cần bám sát hiện trường, phân tích nhanh chóng các vấn đề
thực tiễn nhằm kịp thời điều chỉnh, sửa chữa, bù đắp, chỉnh lý kế hoạch để hoạt động đào
tạo đạt hiệu quả tối ưu.
Muốn chỉ đạo tốt cần thu thập thông tin chính xác, biết phân tích, xử lý các nguồn
thông tin và đưa ra các quyết định đúng đắn. Điều đó nếu thực hiện tốt sẽ nâng cao uy tín
của người chỉ đạo, còn ngược lại thì sẽ làm giảm uy tín. Nguồn thu tập thông tin quan trọng
đó là kiểm tra, kiểm kê, thanh tra, đánh giá.

d/ Kiểm tra
Là việc đánh giá kết quả, là đo lường và điều chỉnh các hoạt động của việc nhằm tìm
ra những ưu, nhược điểm. Thông qua việc kiểm tra phát huy cái tốt, hạn chế tồn tại hoặc để
điều chỉnh việc lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo. Kiểm tra là một chức năng cơ bản và quan
trọng của QL. Lãnh đạo mà không kiểm tra thì coi như không lãnh đạo. Theo lý thuyết hệ
thống kiểm tra chính là thiết lập mối quan hệ ngược trong QL. Kiểm tra trong QL là một nỗ
lực có hệ thống nhằm thực hiện ba chức năng: phát hiện, điều chỉnh và khuyến khích. Nhờ
có kiểm tra mà người cán bộ QL có được thông tin để đánh giá được thành tựu công việc và
uốn nắn, điều chỉnh hoạt động một cách đúng hướng nhằm đạt mục tiêu.
Đánh giá là quá trình hình thành những nhận định, phán đoán về kết quả của công việc
trên cơ sở những thông tin thu được, đối chiếu với những mục tiêu, tiêu chuẩn đã đề ra


nhằm đề xuất những quyết định thích hợp để cải thiện thực trạng, điều chỉnh, nâng cao chất
lượng và hiệu quả công việc.
Các chức năng trên của quản lý giáo dục có mối quan hệ mật thiết trong chu trình
quản lý. Trong các chức năng thì chức năng tổ chức là quan trọng nhất, còn các chức năng
khác cũng không kém phần quan trọng.
1.2.5. Mục tiêu của quản lý giáo dục
Theo Luật giáo dục được Quốc hội khoá 11 kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6
năm 2005 thì mục tiêu GD là “Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo
đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc
và CNXH; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.[ 40]
Nội dung QL nhà nước về GD theo Luật GD “Quy định mục tiêu, chương trình, nội
dung GD; tiêu chuẩn nhà giáo; tiêu chuẩn cơ sở vật chất và thiết bị trường học….”.[40]
“Mục tiêu là yếu tố cơ bản của hệ thống quản lý. Mục tiêu quản lý là trạng thái của hệ
thống mà ta muốn thu được. Trạng thái hay kết quả đó hiện chưa có hoặc đang có nhưng ta
muốn duy trì. Trạng thái hay kết quả chỉ đạt được thông qua các tác động quản lý “.[35] Có
nhiều loại mục tiêu quản lý:

+ Mục tiêu lâu dài, mục tiêu trước mắt.
+ Mục tiêu chung, mục tiêu bộ phận.
+ Mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể.
Mục tiêu được phát triển một cách xác định - mục tiêu định lượng, mục tiêu định tính.
Trong việc xác định các mục tiêu phải biết phân biệt: mục tiêu chủ yếu, mục tiêu chính, mục
tiêu phụ, các ưu tiên … Kèm theo việc xây dựng mục tiêu phải xác định các tiêu chuẩn đánh
giá việc thực hiện mục tiêu.
Trong giáo dục các mục tiêu phải được phân chia theo ngành học, cấp học, theo vùng
lãnh thổ, theo các mặt hoạt động giáo dục… Các loại mục tiêu giáo dục đã được trình bày
trong các văn kiện Đại hội của Đảng và Nhà nước, ghi trong chỉ thị năm học hàng năm của
Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Việc xác định mục tiêu giáo dục phải dựa vào yêu cầu khách quan của quy luật giáo
dục. Quy luật giáo dục được chia làm hai loại:
- Quy luật phát triển nền học vấn và quy luật quá trình nâng cao văn hoá xã hội, phổ
cập giáo dục.
- Chi phối quá trình hình thành và phát triển nhân cách người học.
Việc đề ra các mục tiêu quản lý phải chú ý đến giai đoạn phát triển của đối tượng,
trình độ quản lý của chủ thể và những đặc trưng của thực tiễn quản lý.


1.2.6. Khái niệm đào tạo
Theo Từ điển tiếng Việt của nhà xuất bản KHXH: đào tạo được hiểu là “gây dựng
bồi dưỡng cho thành”.[49] Nhưng trong giáo dục học, đào tạo là lĩnh vực trang bị kiến
thức, kỹ năng, kỹ xảo để hình thành chuyên môn cho người lao động. Cách hiểu này ứng
với khái niệm “giáo dục” được hiểu theo nghĩa hẹp GD được hiểu chỉ là giáo dục phổ thông.
Như vậy giữa GD và ĐT có liên hệ mật thiết với nhau, song không hoàn toàn đồng nhất với
nhau. Đây là hai mặt, hai khâu nối tiếp nhau của một tiến trình hoạt động có mục đích
chung là trang bị kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, chuyên môn … cho người học.
Đào tạo có nhiều bậc, nhiều cấp khác nhau: Đào tạo chuyên nghiệp (công nhân kỹ
thuật, trung cấp chuyên nghiệp…) đào tạo Cao đẳng, đào tạo Đại học và Sau đại học.

1.2.7. Quá trình đào tạo
QTĐT là quá trình xuyên suốt từ công tác tuyển sinh (đầu vào), cho đến khi tốt nghiệp
(đầu ra) của học viên, trong quá trình đó bao gồm chủ yếu là quá trình dạy và học của giảng
viên và học viên. Hoạt động dạy và quá trình học có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, mặc
dù cả hai được tiến hành do hai chủ thể khác nhau, thực hiện hai chức năng khác nhau. Để
thực hiện quá trình này chúng ta cần tạo ra được môi trường và các điều kiện nhằm hỗ trợ
cho việc tiến hành hoạt động cụ thể ở đây là trường học. Trường học là nơi tập hợp những
người thực hiện nhiệm vụ dạy và học, giáo dục và đào tạo theo mục tiêu đã đề ra. Vì vậy,
trường học được coi như một thể chế xã hội.
Quản lý trường học bao gồm nhiều vấn đề liên quan đến phương pháp luận, bản chất,
chức năng, phương pháp quản lý… Nhiệm vụ quản lý trường học là tạo điều kiện cho các
chủ thể thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong mối quan hệ gắn bó, hướng mọi
thành viên tập trung vào nhiệm vụ của nhà trường.
1.2.7.1. Bản chất quá trình đào tạo
“Bản chất quá trình đào tạo là một quá trình nhận thức có tính chất nghiên cứu của
sinh viên dưới sự chỉ đạo của người thầy giáo, nhà khoa học, nhằm đạt được các nhiệm vụ
dạy nghề, dạy phương pháp và dạy lý tưởng đạo đức nghề nghiệp”.[3]
1.2.7.2. Đối tượng của quá trình đào tạo
Đối tượng QTĐT trong các trường chính là nhân cách của người học. Đó chính là những
con người có tri thức, có kỹ năng nghề nghiệp cơ bản để sống và hoạt động tích cực, chủ động
trong một xã hội văn minh, có khả năng liên tục hoàn thiện bản thân trong một xã hội hiện
đại, thích nghi với sự phát triển của đất nước theo cơ chế thị trường, nhạy bén với sự biến đổi
của thời đại, của nền kinh tế tri thức.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định mục tiêu về nhân cách như
sau: “Bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu quê hương, gia đình và tự tôn dân tộc, lý


tưởng XHCN, lòng nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, chí tiến thủ lập
nghiệp, không cam chịu nghèo hèn. Đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ bản, làm
chủ kỹ năng nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, nhạy cảm với cái mới, có ý thức

vươn lên về khoa học và công nghệ.”[23]
Đối tượng QTĐT là “Tổ hợp những thái độ, những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý
riêng trong quan hệ hành động của từng người với thế giới tự nhiên, thế giới đồ vật do con
người sáng tạo, với xã hội và với bản thân”.[31]
1.2.7.3. Nội dung của công tác đào tạo
Nội dung công tác đào tạo về cơ bản gồm các bước sau:
- Xác định mục tiêu đào tạo.
- Xác định chuẩn trình độ đầu vào của học viên.
- Xây dựng và hoàn thiện chương trình đào tạo.
- Xác định các quy trình dạy học.
- Thực hiện việc kiểm tra, đánh giá kết quả đào tạo.
Các nội dung của công tác ĐT có mối liên hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau
nhằm giúp đạt kết quả như mong muốn.
1.2.8. Quản lý quá trình đào tạo
Quản lý QLĐT là nội dung cơ bản của QLGD. Là quản lý một hệ thống bao gồm
những nhân tố cấu thành QTĐT trong mối quan hệ biện chứng với nhau. Nội dung của hoạt
động quản lý QTĐT bao gồm:
- Quản lý công tác tuyển sinh.
- Quản lý việc thực hiện chương trình đào tạo.
- Quản lý quá trình dạy - học.
- Quản lý việc kiểm tra, đánh giá kết quả…
- Quản lý cơ sở vật chất phục vụ công tác đào tạo.
1.2.9. Chất lượng đào tạo
Thuật ngữ “chất lượng” thường hay gặp trong hoạt động thường ngày của các cơ quan
nhà nước và các tổ chức xã hội, nhất là cơ quan và tổ chức liên quan đến kiểm định hay đo
lường. Trong Từ điển tiếng Việt: Chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị một con người,
một sự vật, sự việc, ví dụ đánh giá chất lượng sản phẩm; Nâng cao chất lượng giảng
dạy.[50, tr.200]
Chất lượng là tổng thể những tính chất, thuộc tính cơ bản của sự vật (sự việc) làm cho
sự vật (sự việc) này phân biệt với sự vật khác. Chất lượng biểu thị những thuộc tính bản

chất của sự vật chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn định tương đối của sự vật phân biệt nó với sự vật
khác.


Chất lượng là mức hoàn thiện, là đặc trưng so sánh hay đặc trưng tuyệt đối, dấu hiệu
đặc thù, các dự kiện, các thông số cơ bản của sản phẩm hoạt động thể hiện giá trị đích thực
của nó, là sự thoả mãn những yêu cầu đặt ra.
Chất lượng đào tạo tập trung tập ở sản phẩm nhân cách đáp ứng được những yêu cầu
của mục đích đào tạo đề ra. Chất lượng đào tạo phụ thuộc vào nhiều yếu tố bên ngoài và bên
trong, đặc biệt là được thể hiện ở chất lượng nhân cách của người học với những đặc trưng
cơ bản về thể chất, tâm lý và xã hội phù hợp với những tiêu chuẩn nhất định hoặc là thể hiện
ở năng lực và phẩm chất của nhân cách người học được hình thành và phát triển trải qua quá
trình đào tạo với sự tham gia của nhiều yếu tố như: xác định mục tiêu, chương trình, phương
pháp, hình thức, điều kiện (phương tiện), môi trường (hoàn cảnh), chất lượng đội ngũ giảng
viên, sự nỗ lực của người học và tựu trung lại ở kết quả đào tạo. Việc đánh giá kết quả đào
tạo cần phản ánh được chất lượng nhân cách có phù hợp hay không với yêu cầu của cuộc
sống. Cần phải xem xét chất lượng đầu vào, chất lượng của quá trình đào tạo và chất lượng
đầu ra. Tham gia vào quá trình đánh giá chất lượng đào tạo không chỉ là ý kiến của thầy và
trò mà còn cần có ý kiến của xã hội, đặc biệt là của người sử dụng sản phẩm.
Chất lượng đào tạo được hiểu toàn diện; bao gồm cả năng lực và phẩm chất của nhân
cách; cả chất lượng chính trị, đạo đức, trình độ chuyên môn và chất lượng nghiệp vụ. Việc
đào tạo ở các trường sư phạm cần hướng tới mục tiêu hình thành nhân cách người GV với
những năng lực dạy học, giáo dục và các phẩm chất khác theo yêu cầu của sự phát triển hệ
thống giáo dục trong mối quan hệ biện chứng với các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước.
Ở đây theo phương pháp tiếp cận mục tiêu, ta có thể hiểu chất lượng dạy học là trình
độ học vấn phổ thông và sự phát triển nhân cách của người học sau khi ra trường trực tiếp
tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hay tiếp tục học lên. Cụ thể là:
- Nắm vững hệ thống kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo và việc vận dụng chúng trong thực
tiễn cũng như trong tư duy.

- Phát triển năng lực trí tuệ đặc biệt là tư duy lý luận, tư duy logíc và tư duy biện
chứng, tư duy kỹ thuật, tư duy thuật toán, tư duy quản lý,…
- Thế giới quan khoa học và các phẩm chất đạo đức …
Hiệu quả dạy học có thể hiểu là mức độ thực hiện mục tiêu dạy - học liên quan đến
việc sử dụng các nguồn lực được huy động. Một hệ thống có hiệu quả là một hệ thống thực
hiện được những mục tiêu của mình, với việc sử dụng tối thiểu những nguồn lực để đạt
được một trình độ chất lượng đã định trước.
Theo quan điểm hệ thống, hiệu quả giáo dục bao gồm hiệu quả trong và hiệu quả
ngoài - Hiệu quả trong là hiệu quả được đánh giá trong phạm vi nội bộ ngành giáo dục.


Hiệu quả ngoài là hiệu quả được đánh giá cả từ phía ngoài giáo dục, nhà trường và cá nhân
của những học sinh đã tốt nghiệp. Đối với những học sinh đã tốt nghiệp, đó là sự thành đạt
để tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống, học nghề có đầy đủ những kỹ năng cần thiết mà
xã hội yêu cầu. Đối với nhà trường, đó là ảnh hưởng tích cực, sự đóng góp đối với từng cá
nhân, cộng đồng và xã hội. Còn xét theo chức năng, nhiệm vụ chung của giáo dục, đó là khả
năng đáp ứng tích cực những yêu cầu về dân trí, nhân lực, nhân tài trong công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo
+ Xác định mục tiêu đào tạo là yếu tố đầu tiên có tác dụng định hướng cho việc chọn
lựa nội dung, phương pháp và hình thức đào tạo phù hợp với việc hình thành và phát triển
nhân cách và có thể điều khiển, điều chỉnh quá trình hoạt động học tập và rèn luyện của
người học theo đúng yêu cầu đề ra.
Mục tiêu đào tạo nếu được xác định cụ thể với yêu cầu cao sẽ là cơ sở để định ra
những tiêu chuẩn nhằm đánh giá chất lượng đào tạo.
+ Chất lượng tuyển sinh đầu vào là bước mở đầu quan trọng cho quá trình đào tạo.
Những năm gần đây người ta đã chú ý đến chất lượng tuyển sinh đầu vào. Điều này là một
thuận lợi quan trọng cho quá trình hình thành và phát triển nhân cách cho người học phù
hợp hơn.
+ Nội dung, chương trình đào tạo phản ánh mục tiêu đào tạo. Do đó nội dung đào tạo

được lựa chọn với thời lượng phù hợp cho quá trình hình thành và phát triển nhân cách.
Trong nội dung, chương trình đào tạo có các môn học với thời gian hợp lý và khối lượng
kiến thức phản ánh được những yêu cầu mới là rất cần thiết, phản ánh các lý thuyết mới,
hiện đại của thế giới.
+ Phương pháp đào tạo và tự đào tạo có ý nghĩa rất lớn đối với việc nâng cao chất
lượng đào tạo. Người học trong quá trình học tập và rèn luyện nếu tìm được phương pháp
tối ưu và có tính chủ động cao thì có thể hình thành được nhân cách với chất lượng cao.
+ Điều kiện, phương tiện cũng là yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng. Nếu có những
phương tiện dạy học hiện đại, có điều kiện cơ sở vật chất thuận lợi… thì quá trình tổ chức
hoạt động dạy học và giáo dục được hỗ trợ nhiều và do đó kết quả sẽ cao hơn.
+ Môi trường (hoàn cảnh) tạo ra tính tích cực hoạt động. Xây dựng được môi trường
sư phạm và những hoàn cảnh hoạt động thuận lợi, phù hợp có thể nâng cao chất lượng giáo
dục.
+ Quá trình tổ chức và quản lý có tính khoa học, phù hợp với đặc điểm tâm lý và hoạt
động, phát huy được tính tự nguyện, tự giác của người học là yếu tố không thể thiếu được
trong quá trình sư phạm. Quá trình tổ chức, quản lý của nhà trường cần được phân cấp hợp


lý, phân công, phân nhiệm rõ ràng với sự phối hợp tích cực có thể ảnh hưởng tốt đến quá
trình hình thành và phát triển nhân cách cho người học.
Đánh giá chất lượng đào tạo:
Đánh giá chất lượng là quá trình hình thành những nhận định và phán đoán về kết quả
học tập và rèn luyện của người học, dựa vào sự phân tích những thông tin thu được, đối
chiếu với những mục tiêu, tiêu chuẩn đề ra, nhằm đề xuất những quyết định thích hợp để cải
thiện thực trạng, điều chỉnh, nâng cao chất lượng và hiệu quả học tập, rèn luyện cho người
học ngay khi còn học ở trường và tiếp tục hoàn thiện sau khi ra trường.
Việc đánh giá này không chỉ thể hiện ở điểm số hay xếp loại mà quan trọng hơn là
thấy được những ưu điểm và hạn chế trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách, từ
đó đề xuất những biện pháp phát huy và khắc phục.
Quá trình đánh giá chất lượng cần có sự tham gia ý kiến của nhiều lực lượng giáo dục,

đặc biệt là các giáo viên trực tiếp giảng dạy và giáo viên chủ nhiệm, ý kiến của các cán bộ
quản lý giáo dục và đào tạo các cấp, tự đánh giá của người học và dư luận xã hội.
Việc đánh giá cần chú trọng cả hai mặt năng lực và phẩm chất.
Cần đánh giá khách quan, có hệ thống và toàn diện về tất cả các góc độ và mức độ của
mục tiêu đào tạo, đặc biệt là nhìn nhận được đúng đắn, chính xác các ưu điểm và hạn chế để
phát huy và khắc phục, nhằm hoàn thiện quá trình đào tạo. Nếu phát huy được khả năng tự
đánh giá của người học dưới sự hướng dẫn của giảng viên thì sẽ thúc đẩy được tính tích cực,
chủ động của người học trong quá trình đào tạo.
Việc đánh giá chất lượng và hiệu quả dạy học phải quán triệt mục tiêu, nội dung,
phương pháp cũng như hình thức tổ chức quá trình dạy học, đồng thời cần xem xét điều
kiện, phương tiện, hoàn cảnh, môi trường dạy học.
1.2.10. Học viên
Theo từ điển Tiếng Việt của nhóm tác giả Viện ngôn ngữ học thuộc ủy ban KHXH
Việt Nam: “Học viên là người lớn tuổi học ở những trường lớp không thuộc hệ thống giáo
dục phổ thông hay đại học”.[43, tr.477] Trong trường đại học, sinh viên hoặc học viên là
danh từ chung chỉ những người tiếp thu sự giáo dục của giảng viên, không phân biệt người
này với người khác. HV có nghĩa vụ tham gia vào hoạt động học tập, rèn luyện mà nhà
trường tổ chức. Học là hoạt động chủ yếu và là nhiệm vụ của HV.
Còn học viên gọi theo quyết định số 1407/2005/QĐ-BCA-X11 ngày 05/10/2005 của
Bộ Trưởng Bộ CA quyết định ban hành “Quy chế quản lý, giáo dục học viên của các Học
viện, trường CAND” tại điều 1 như sau:
Tên gọi người học trong các Học viện, trường CAND.
1/ Gọi theo cấp, bậc học


a. Người học để được cấp bằng Tiến sỹ gọi là Nghiên cứu sinh.
b. Người học để được cấp bằng Thạc sỹ gọi là học viên Cao học.
c. Người học để được cấp bằng Đại học, Cao đẳng gọi là sinh viên.
d. Người học để được cấp bằng trung cấp nghiệp vụ CA, bằng tốt nghiệp THCS,
THPT (đối với các trường văn hoá) gọi là học sinh.

2/ Những người học nói tại điểm 1 và những người học các hệ đào tạo, bồi dưỡng khác
trong các trường cand sau đây gọi chung là Học viên.
Như vậy học viên là tên gọi chung cho người học ở các trường thuộc ngành CAND.
1.2.11. Học viên hệ vừa làm vừa học
Cũng là học viên nói chung, nhưng do tính chất học tập không tập trung, liên tục trong
năm học, ngoài việc lên lớp khi ở cơ quan, hoặc ngoài giờ học họ còn tham gia công tác ở
cơ quan, đơn vị mình khi có yêu cầu.
- Học viên hệ VLVH của ngành CA khác học viên VLVH của các ngành khác ở chỗ
ngoài những quy định chung của Bộ Giáo dục và Đào tạo áp dụng cho loại hình đào tạo này
còn phải tuân thủ những quy định riêng của Bộ CA về tuyển sinh, đào tạo và quản lý học
viên trong ngành CA. Ví dụ, Đối tượng tuyển sinh đào tạo VLVH phải là cán bộ chiến sỹ
CAND đã có thời gian công tác trong ngành CA từ 2 năm trở lên trong các lĩnh vực nghiệp
vụ theo đúng ngành nghề sẽ dự tuyển vào đào tạo; có khả năng phát triển, đã tốt nghiệp
THPT. Trong quá trình học tập khi có yêu cầu về công tác, đơn vị hoặc địa phương có thể
đề nghị Nhà trường tạm dừng học tập trong một thời gian để phục vụ cho yêu cầu chiến đấu
hay thực hiện nhiệm vụ bảo vệ AN ở địa phương trong một thời gian, khi tình hình yên ổn
lại tiếp tục học tập. Những HV này là người thuộc biên chế chính thức của ngành CA và đã
trải qua thực tiễn công tác, chiến đấu trong các đơn vị của ngành ít nhất là 2 năm, riêng học
sinh phổ thông không được tuyển vào học hệ này.
- Hệ đào tạo vừa làm vừa học (hệ không chính quy) phân biệt với chính quy:
Khác với đào tạo chính quy hệ đào tạo VLVH có quy chế tuyển sinh, quy chế tổ chức
đào tạo riêng quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Công an ban hành dành cho hệ
không chính quy.
1.3. Công tác đào tạo học viên hệ vừa làm vừa học
1.3.1. Quan điểm của Đảng và nhà nước về Giáo dục - Đào tạo
Nhận thức sâu sắc vai trò to lớn của GD - ĐT, từ lâu Đảng và Nhà nước ta đã có một
hệ thống quan điểm chỉ đạo, đã đưa ra một loạt chủ trương chính sách và biện pháp phát
triển nền giáo dục. Nhìn lại hơn 50 năm qua - kể từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra
đời năm 1945, nền giáo dục Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể; đã đạt được một số
thành tựu được Đảng và Nhà nước ghi nhận: Giáo dục - Đào tạo đã góp phần nâng cao dân



trí cho nhân dân, đã đào tạo được một đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật (KHKT) có trình độ
chuyên môn, đáp ứng được phần nào nhu cầu về nguồn nhân lực, về KHKT cho các lĩnh
vực kinh tế XH. Tuy nhiên, nền giáo dục Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều khiếm khuyết,
bất cập, tồn tại: bất cập giữa quy mô, chất lượng, hiệu quả, giữa các bậc, các hệ, các hình
thức giáo dục và đào tạo, giữa giáo dục với kinh tế - xã hội, vv… Nền GD- ĐT Việt Nam
chưa ngang hàng với GD- ĐT nhiều nước trong khu vực và thế giới. Trong giai đoạn hiện
nay, khi đất nước ta đang đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá, HĐH, đang cố gắng mau
chóng hội nhập với thế giới, thì những bất cập, hạn chế của nền GD- ĐT Việt Nam càng trở
nên rõ ràng và đang hạn chế vai trò to lớn của GD - ĐT đối với việc phát triển KT - XH. Để
phát triển nền GD - ĐT nước nhà, Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm đến sự nghiệp GD ĐT đã có một hệ thống quan điểm và rất nhiều chủ trương, chính sách và biện pháp để khắc
phục những bất cập và tạo đà cho sự phát triển sự nghiệp giáo dục. Xuất phát từ Chủ nghĩa
Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh với một cách nhìn biện chứng, hệ thống quan điểm
và chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về sự nghiệp GD - ĐT biến đổi và phát
triển theo tiến trình lịch sử và phù hợp với KT - XH đất nước qua từng thời kỳ. Ở đây chúng
tôi chỉ xin đề cập những quan điểm chỉ đạo:
1.3.1.1. Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu
Đây là quan điểm cơ bản xuyên suốt và quan trọng nhất của Đảng và Nhà nước đối
với việc phát triển sự nghiệp GD - ĐT. Quan điểm này được ghi trong Hiến pháp 1992 (điều
35), được khẳng định trong Văn kiện Đại hội Đảng lần Thứ VIII, IX và gần đây là trong
Văn kiện Đại hội X.
- Giáo dục - Đào tạo được coi là quốc sách hàng đầu bởi Đảng ta luôn quan niệm:
“cùng với khoa học công nghệ, GD-ĐT… đã đóng vai trò then chốt trong toàn bộ sự nghiệp
xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc, là động lực đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu,
vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới”.[24, tr.107]
- Quan điểm coi GD-ĐT là quốc sách hàng đầu bao gồm một số nội dung cơ bản sau:
a. Phải coi đầu tư cho GD là “một trong những hướng cơ bản của đầu tư phát triển, tạo
điều kiện cho GD đi trước và phục vụ đắc lực cho sự phát triển KT - XH”. [22, tr.61]
Nội dung này xuất phát từ cơ sở: đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho con người, phục vụ

cho chiến lược con người mà Đảng đề ra. Đẩy mạnh sự nghiệp GD- ĐT, KHCN là để phát
huy nhân tố con người, động lực trực tiếp của sự phát triển. Mặt khác, đầu tư cho giáo dục
không chỉ là đầu tư trước mắt nhằm tạo ra một nguồn nhân lực đáp ứng kịp thời cho nhu cầu
của các lĩnh vực KT-XH mà còn là một chiến lược lâu dài. Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
chỉ rõ: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Sự nghiệp “trồng


người” luôn là yếu tố cơ bản đảm bảo cho một xã hội, một đất nước phát triển nhanh chóng
và bền vững.
b. Để giáo dục thực sự là một quốc sách hàng đầu. “Đảng và Nhà nước cần tập trung
mọi cố gắng, dành ưu tiên cao nhất cho sự phát triển GD-ĐT và KHCN. Thể hiện trên các
mặt chính sách, đội ngũ cán bộ và tổ chức quản lý. Các cấp ủy Đảng và mỗi Đảng viên phải
quán triệt sâu sắc quan điểm cơ bản này trong mọi lĩnh vực hoạt động. Các tổ chức Đảng
phải coi đây là nhiệm vụ thường xuyên trong hoạt động của mình”.[25, tr.6]
c. Có các giải pháp mạnh để phát triển giáo dục
Giải pháp mạnh được hiểu là giải pháp có thể tạo ra sự thay đổi cơ bản chất lượng giáo
dục theo hướng phát triển đi lên, tiếp cận với xu thế tiến bộ, khoa học và hiện đại.
Trước mắt các giải pháp mạnh là những giải pháp hướng vào giải quyết những vấn đề
cốt lõi của giáo dục hiện nay:
- Vấn đề quy mô, chất lượng và hiệu quả GD-ĐT: Thực hiện “Chuẩn hoá, hiện đại
hoá, xã hội hoá”.[23, tr.109] về cơ sở vật chất trường lớp, về nội dung, phương pháp,
chương trình và đội ngũ giáo viên, đội ngũ cán bộ quản lý.
- Giải quyết mối quan hệ giữa giáo dục với KT - XH sao cho giáo dục phục vụ đắc lực
hơn nữa, đáp ứng kịp thời mọi đòi hỏi về nhân lực, KHCN của các lĩnh vực KT-XH.
- Vấn đề tổ chức, cơ cấu vận hành và quản lý giáo dục phải nhằm tạo cho giáo dục
quốc dân là một hệ thống hoàn chỉnh, phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới, tạo ra
sự đồng bộ trong hoạt động của GD - ĐT. Ở đây, vấn đề cần được đặc biệt quan tâm là tổ
chức lại hệ thống (mạng lưới) các trường đào tạo công nhân kỹ thuật, trung học chuyên
nghiệp và cao đẳng, đại học. Bởi chính hệ thống đào tạo này trực tiếp cung cấp nguồn nhân
lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật phục vụ cho các lĩnh vực KT-XH.

1.3.1.2. Giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân nhằm nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài
Quan điểm này gồm hai mặt, hai khía cạnh: Một là trách nhiệm của mọi tổ chức đoàn
thể xã hội, của mọi người đối với việc phát triển GD - ĐT và hai là chức năng nhiệm vụ của
GD - ĐT.
a. Trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể XH và của toàn dân.
- Đảng và Nhà nước khẳng định: GD - ĐT không phải là công việc riêng của những
người làm công tác giáo dục mà là sự nghiệp của toàn Đảng, Nhà nước, của các tổ chức
đoàn thể XH và của toàn dân.
Cơ sở của sự khẳng định này là mục tiêu mà toàn Đảng, toàn dân ta đang quyết tâm
thực hiện: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Mục tiêu này chỉ trở
thành hiện thực khi nào đời sống vật chất và tinh thần, trình độ văn hoá của người dân được


×