Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Khảo sát cách dùng thuốc và phân tích sự tuân thủ điều trị hội chứng thận hư tiên phát ở trẻ em tại khoa nhi Bệnh viện Bạch Mai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.33 KB, 9 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010

Nghiên cứu Y học

KHẢO SÁT CÁCH DÙNG THUỐC VÀ PHÂN TÍCH SỰ TUÂN THỦ
ĐIỀU TRỊ HỘI CHỨNG THẬN HƯ TIÊN PHÁT Ở TRẺ EM
TẠI KHOA NHI BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Nguyễn Xuân Phước*, Nguyễn Thị Hương Liên*, Nguyễn Văn Bàng**

TÓM TẮT
Liệu pháp corticoid cùng thuốc ức chế miễn dịch (ƯCMD) là trụ cột trong điều trị hội chứng thận hư tiên
phát (HCTHTP), thể bệnh thường gặp ở trẻ em, hay tái phát, cần điều trị kéo dài nên việc tuân thủ điều trị
thường không tốt.
Mục tiêu. (1) Khảo sát tình hình sử dụng thuốc trong điều trị HCTHTP ở trẻ em tại khoa nhi bệnh viện
Bạch Mai; (2) Khảo sát mức độ tuân thủ điều trị bệnh HCTHTP ở trẻ em; (3) Phân tích một số yếu tố ảnh hưởng
đến sự tuân thủ điều trị của bệnh nhân và gia đình.
Đối tượmg, phương pháp. Nghiên cứu một loạt 106 trường hợp, phối hợp nghiên cứu hồi cứu bệnh án,
tiến cứu tại bệnh phòng và phỏng vấn từng trường hợp.
Kết quả. Kết quả nghiên cứu cho thấy 100% bệnh nhân ở nhóm điều trị HCTHTP đợt đầu sử dụng
corticoid dạng uống theo đúng liều khuyến cáo 2mg/kg/24h. Ở nhóm HCTHTP tái phát, 96,8% bệnh nhân sử
dụng corticoid, trong đó dạng uống là 95,0% và 5,0% là methyl-prednisolon tiêm TM, trong đó 93,0% bệnh
nhân sử dụng đúng liều, 5,3% bệnh nhân sử dụng liều thấp hơn và 1,7% dung liều cao hơn liều khuyến cáo. Khi
điều trị duy trì, là 73,3% bệnh nhân được sử dụng corticoid đúng liều khuyến cáo. Liều một lần truyền TM
methyl-prednisolon ở những bệnh nhân kháng corticoid thay đổi từ <5mg/kg (46,1%) đến 5-10mg/kg (7,7%), 1020mg/kg (23,1%), 20-30mg/kg (15,4%), và >30mg/kg (7,7%). Cyclophosphamid là thuốc ức chế miễn dịch được
dùng phổ biến nhất (10/11 trường hợp) khi liệu pháp corticoid kém hiệu quả. Tỷ lệ không tuân thủ điều trị là
47,4%, trong đó bỏ không tái khám (33,3%), bỏ/dừng thuốc và dùng thuốc nam (33,3%), dùng thêm thuốc nam
(22,2%) và 11,1% quên thuốc quá 3 ngày liên tiếp. Nhóm không tuân thủ điều trị có tỷ lệ nhận thức trung bình
và kém về bệnh cao gấp 2,5 lần so với nhóm tuân thủ điều trị. Mức độ hiểu biết khá và tốt về bệnh ở nhóm bệnh
nhân tuân thủ điều trị là 70%, cao gấp 4,7 lần so với nhóm không tuân thủ điều trị (16,7%) (p<0,01). Tỷ lệ bệnh
nhân có nhận thức khá về thuốc của nhóm tuân thủ điều trị chiếm 45,0%, gấp 4 lần so với bệnh nhân không tuân
thủ điều trị (11,1%) (p<0,05). Thời gian tư vấn của thầy thuốc <5 phút chiếm 77,5% và chủ yếu diễn ra trong khi


khám bệnh. Có 10/18 (56,5%) bệnh nhân không tuân thủ điều trị dùng các thuốc nam, thuốc lá, trong đó 6% bỏ
hẳn thuốc tân dược và 4 dùng phối hợp.
Kết luận. Liều corticoid trong điều trị tấn công là thống nhất, nhưng trong điều trị duy trì và nhất là
trong điều trị thể kháng thuốc còn rất thay đổi, chưa nhất quán. Tỷ lệ bệnh nhân không tuân thủ điều trị
còn cao, nhận thức của gia đình bệnh nhân về bệnh, về thuốc còn thấp và việc tiếp thu tư vấn của thầy thuốc
hiệu quả còn chưa cao. Cần nghiên cứu sâu thêm về thời gian và chất lượng tư vấn của thầy thuốc để nâng
cao tỷ lệ tuân thủ điều trị.
Từ khoá: Corticoid, hội chứng thận hư tiên phát, sử dụng thuốc, trẻ em, tuân thủ điều trị.

* Bộ môn Dược lâm sàng, Đại học Dược Hà Nội, ** Bộ môn Nhi, Đại học Y Hà Nội
Tác giả liên lạc PGS.TS.BS Nguyễn Văn Bàng
ĐT: 0903293212,
Email:

Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010

1


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010

Nghiên cứu Y học

ABSTRACT
INVESTIGATING TREATMENT MODALITIES AND OBSERVANCE IN CHILDREN WITH
IDIOPATHIC NEPHROTIC SYNDROME IN PEDIATRIC DEPARTMENT, BACH MAI HOSPITAL

Nguyen Van Bang, Nguyen Xuan Phuoc, Nguyen Thi Lien Huong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 14 - Supplement of No 4 - 2010: 15 - 21
Corticotherapy and, in some extent, immunosupressors were pivotal drugs in management of idiopathic

nephritic syndrome (INS), the most common form in childhood. Its frequent relapse and long course of treatment
results in diverse therapy modalities and low observance as well.
Objective. To investigate modalities of corticotherapy as well as therapy observance rate and to reveal some
main causes of non-observance in children suffering from INS treated in pediatric department of Bach Mai
hospital.
Patients and methods. This case-series study enrolled 106 patients (67 males and 39 females, mean age:
10.2 ± 3.8 years) with INS admitted in the pediatric department of Bach Mai hospital for INS by studying patient
record files and indept interview.
Results. Oral prednisolon was prescribed in 100% of 44 INS patients in the onset episode with
recommended dose (2mg/kg/24h) as attack dose. In 62 patients admitted for relapse, corticosteroid was used in 60
(96.8%), of them 56 (95%) taking prednisolon per os, 4 (5%) receiving methyl-prednison, 56 (93%) respecting
recommended dose, 3 (5.3%) taking lower dose and 1 (1.7%) taking higher dose. During initial period of
maintenance treatment, 22/30 (73.3%) patients received oral prednisolon with recommended dose (1mg/kg/24h).
Intravenous pulse dose of methyl-prednison in 13 patients (12.3%) who were considered as steroid resistant
fluctuated from 5mg/kg in 6 patients (46.2%) to 5-10mg/kg in 1 patient (7.7%) or 10-20mg/kg in 3 patients
(23.1%), or 20-30mg/kg in 2 patients (15.4%) up to >30mg/kg in 1 patient. Cyclophosphamid was the most
commonly used immunosupressor when corticotherapy failed to control the disease (10/11 cases). Therapy nonobservance rate was 47.4% (18/38) patients, including 6 (33.3%) missing following-up, 6 (33.3%) giving up
prednisolon to take herbal medicine, 4 (22.2%) combining prednisolon with herbal medicine and 2 (11.1%)
forgetting prednisolon for more than 3 days. The rate of bad to fair knowledge on the disease in non-observant
group was 2.5 folds higher than that in observant one. Adversely, good to excellent knowledge on the disease was
4.7 folds higher in bovervant group (70%) than in non-observant one (16.7%) (p<0.01). Good understang on
treating drugs was 45%, 4 folds higher in observant groups than 11.1% in non-observants (p<0.05). Conseilling
time <5 minutes was reported in 75% of study subjects and the conseil was given during the ward visit other than
at discharge. Among 18 non-observant cases, 6 stopped taking prednisolon to self-treat with herbal medicine and
4 combine prednisolon with herbal medicine.
Conclusion. Corticoid dosage during maintenance treatment and particularly in pulse therapy for
corticosteroid resistant cases was very unconsistant. Non-observance rate was high. It is warranted to investigate
the main causes of non-observance in order to improve therapy observance rate.
Key words: Children, corticotherapy, idiopathic nephritic syndrome, observance
tổng số bệnh nhân của khoa thận bệnh viện Nhi

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trung ương(7,8). Ở trẻ em, HCTH tiên phát
Hội chứng thận hư (HCTH) là một bệnh cầu
(HCTHTP) chiếm 90%, tiên lượng tốt hơn so với
thận mạn tính khá phổ biến ở trẻ em, với tần
người lớn(7). Trẻ em bị HCTHTP phải điều trị kéo
suất mắc bệnh hàng năm là 15,7/100.000 trẻ em
dài. Tỷ lệ tái phát phụ thuộc nhiều vào mức độ
dưới 16 tuổi tại các nước châu Á(1), chiếm gần
tuân thủ đầy đủ liệu trình corticoid (trong năm
2,8% tổng số bệnh nhân nhập viện và trên 40%

2Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010
đầu, tái phát 36% với liệu trình corticoid dài
ngày, tái phát 81% với liệu trình ngắn(3). Các
phác đồ điều trị HCTHTP hiện nay ở các cơ sở
điều trị trong nước cũng chưa hoàn toàn thống
nhất. Mặt khác, việc điều trị HCTH bằng
corticoid kéo dài thường gây ra một số tác dụng
không mong muốn làm ảnh hưởng đến tâm lý
của gia đình và là một trong những lý do chính
dẫn đến không tuân thủ điều trị. Vì vậy, việc
hướng dẫn, giáo dục cho bệnh nhân và người
thân hiểu biết về bệnh, về thuốc và tuân thủ điều
trị là vấn đề vô cùng cần thiết trong điều trị(7).
Cho tới nay mới có rất ít đề tài nào tìm hiểu về
các yếu tố ảnh hưởng tới việc tuân thủ điều trị

bệnh HCTHTP ở trẻ em nước ta(10). Khoa Nhi
Bệnh viện Bạch Mai hàng năm tiếp nhận nhiều
bệnh nhân HCTH (2-3% bệnh nhân vào điều trị).
Chúng tôi tiến hành đề tài này với các mục tiêu:
(1) Khảo sát tình hình sử dụng thuốc trong điều
trị HCTHTP ở trẻ em tại khoa nhi bệnh viện
Bạch Mai; (2) Khảo sát mức độ tuân thủ điều trị
bệnh HCTHTP ở trẻ em; (3) Phân tích một số
yếu tố ảnh hưởng đến sự tuân thủ điều trị của
bệnh nhân và gia đình.

ĐỐI TƯỢNG- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊNCỨU
Phương pháp nghiên cứu mô tả một loạt
trường hợp (case-series study) bệnh nhân bị
HCTHTP về thuốc sử dụng, mức độ đến tuân
thủ điều trị và một số yếu tố lien quan đến sự
tuân thủ. Chọn mẫu thuận tiện không xác suất
có mục đích theo mục tiêu đề tài. Để khảo sát
tình hình sử dụng thuốc, đối tượng là bệnh nhân
bị HCTHTP vào điều trị tại khoa nhi Bạch Mai
từ 01/01/2008 đến 30/10/2009. Để khảo sát mức
độ tuân thủ điều trị, đối tượng được phỏng vấn
là các bệnh nhân vào điều trị HCTHTP tại khoa
nhi bệnh viện Bạch Mai từ 01/2009 đến hết
10/2009 và những bệnh nhân đã từng điều trị nội
trú với chẩn đoán HCTHTP tái khám tại phòng
khám Nhi Bạch Mai từ 01/2009 đến 10/2009. Để
khảo sát tình hình sử dụng thuốc, chúng tôi tiến
hành hồi cứu số liệu từ các bệnh án của các bệnh
nhân có thời gian ra viện từ 01/01/2008 đến

tháng 31/12/2008 và tiến cứu ở các bệnh nhân

Nghiên cứu Y học

vào điều trị tại khoa nhi từ 01/01/2009 đến hết
30/10/2009. Bệnh nhân được chia thành nhóm
điều trị lần đầu và nhóm điều trị tái phát. Bệnh
nhân được coi là dùng corticoid đúng liều nếu
liều tấn công là 2mg/kg/24h (tối đa 80mg), liều
duy trì 1mg/kg/24h (tối đa 40mg), liệu pháp
methyl-prednisolon truyền tĩnh mạch liều cao
20-30mg/kg/24h (tối đa 1000mg). Để khảo sát
mức độ tuân thủ điều trị và phân tích các yếu tố
ảnh hưởng tới sự tuân thủ điều trị, nghiên cứu
tiến cứu phỏng vấn người thân của những bệnh
nhân <10 tuổi, người thân hoặc/và bệnh nhân
>10 tuổi bằng cách phỏng vấn sâu tất cả các
trường hợp đã điều trị nội trú trên 1 lần, trở lại
khám hoặc điều trị tại khoa Nhi từ 01/01/2009
đến hết 30/10/2009. Bệnh nhân được xếp vào
nhóm không tuân thủ điều trị khi có từ 1 đến
nhiều hiện tượng sau: (1) không tái khám đúng
theo lịch hẹn; (2) quên/không uống thuốc quá 3
ngày liên tiếịch ƯCMD sử
dụng trong điều trị HCTHTP được trình bày
trong bảng 3.
Bảng 3: Các thuốc ức chế miễn dịch sử dụng trong
điều trị HCTHTP
Đợt
ñầu

N (%)
Cyclophosphamid
Endoxan 1 (9,1)
Cyclosporin A
Sandimum
0
Cyclophosphamid ñổi Endoxan,
0
sang Cyclosporin A Sandimum
Tổng số
1 (9,1)
Thuốc

Biệt dược

Đợt tái
phát
N (%)
7 (63,6)
1 (9,1)
2 (18,2)

Tổng số
N (%)
8 (72,7)
1 (9,1)
2 (18,2)

10
11 (100)

(90,9)

Cyclophosphamid là thuốc ƯCMD được
dùng phổ biến trong 72,7% (8/11 bệnh nhân).
Cyclosporin A chỉ được dùng ở 3 bệnh nhân,
trong đó 1 trường hợp dùng từ đầu, 2 trường
hợp dùng thay thế cyclophosphamid vì tác
dụng phụ.
Có 38 bệnh nhân được nghiên cứu mức độ
tuân thủ điều trị. Thời gian mắc bệnh <1 năm là
19 (50%), 1-2 năm là 14 (36,8%) và >2 năm là 5
(13,2%). Có 18/38 bệnh nhân không tuân thủ điều
trị (47,4%). Những kiểu không tuân thủ điều trị
bao gồm: 6/18 bệnh nhân bỏ không tái khám định
kỳ (33,3%), 6 bệnh nhân bỏ/dừng thuốc và dùng
thuốc khác (33,3%), 4 bệnh nhân vẫn tiếp tục điều
trị nhưng dùng thêm thuốc nam (22,2%) và 2
bệnh nhân quên thuốc quá 3 ngày liên tiếp
(11,1%). Tỷ lệ không tuân thủ do bệnh nhân
không khám lại định kỳ và bệnh nhân bỏ hoặc
dừng thuốc và dùng thuốc khác chiếm đa số
(66,6%). Nguyên nhân bệnh nhân bỏ thuốc là do:
thấy điều trị không đỡ (chiếm 16,7% số không
tuân thủ), 1 trường hợp tìm hiểu thấy thuốc có
nhiều tác dụng phụ (5,5%) và 1 trường hợp gặp
tác dụng không mong muốn (5,5%). Bảng 4 trình
bày các mức độ nhận thức (trả lời một số câu hỏi
đơn giản cơ bản) về bệnh HCTH và về thuốc điều

4Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010
trị và tác động của việc tư vấn ở 30 trường hợp
được phỏng vấn về tuân thủ điều trị.
Bảng 4: Đánh giá một số yếu tố tác động đến tuân
thủ điều trị ở 30 trường hợp được phỏng vấn
Nội dung ñánh giá ∑ N (%)
(số câu hỏi trả lời
ñược)

Tình trạng tuân
thủ ñiều trị

p

Không n
(%)
9 (23,7) 3 (15,0) 6 (33,3) >0,05
Cón (%)

Nhận Kém (0/5)
thức về Trung bình (112 (31,6) 3 (15,0)
bệnh
2/5)

Khá-tốt (3-5/5) 17 (44,7) 14 (70,0)
Nhận Kém (0/6)
0
0

thức về Trung bình(122 (57,9) 10 (50,0)
thuốc
3/6)
Khá-tốt (4-6/6) 16 (43,1) 10 (50,0)
Tác Kém (1-3/9) 9 (23,7) 2 (10,0)
ñộng Trung bình (314 (31,6) 8 (40,0)
tư vấn
5/9)
Khá-tốt (6-9/9) 15 (39,5) 10 (50,0)
Tổng số
38 (100) 20 (100)

9 (50,0)

>0,05

3 (16,7)
0

<0,01
>0,05

12 (66,7) >0,05
6 (33,3) <0,05
7 (38,9) p>0,05
6 (33,3) p>0,05
5 (27,8) p>0,05
18 (100)

Tỷ lệ nhận thức kém và nhận thức trung

bình về bệnh của nhóm không tuân thủ điều trị
cao gấp 2,5 lần nhóm tuân thủ điều trị. Mức độ
hiểu biết khá và tốt ở nhóm bệnh nhân tuân thủ
điều trị cao gấp 4,7 lần so với nhóm không tuân
thủ điều trị (p<0,01). Tỷ lệ bệnh nhân có nhận
thức khá về thuốc của nhóm tuân thủ điều trị
cao gấp 4 lần so với bệnh nhân không tuân thủ
điều trị (p<0,05). Số bệnh nhân đạt được hiệu quả
tư vấn kém ở nhóm không tuân thủ gấp 3,5 lần ở
nhóm tuân thủ điều trị. Nhóm tuân thủ điều trị
đạt hiệu quả tư vấn tốt và hiệu quả tư vấn rất tốt
gấp 2 lần bệnh nhân không tuân thủ. Thời gian
bác sỹ giành để tư vấn gia đình được tìm hiểu
qua phỏng vấn trình bày trong bảng 6.
Bảng 6: Thời gian thầy thuốc tư vấn bệnh nhân/gia
đình
Thời gian thầy Tình trạng tuân thủ ñiều trị
thuốc tư vấn
Có n (%) Không n (%)
≤ 5 phút
16 (80,0)
13 (72,3)
> 5 phút - ≤ 10 phút 2 (10,0)
4 (22,2)
> 10 phút-< 20 phút 2 (10,0)
0
> 20 phút
0
1 (5,6)
Tổng số

20 (100)
18 (100)

Tổng số
N (%)
28 (77,5)
6 (16,2)
2 (5,4)
1 (2,7)
38 (100)

Nghiên cứu Y học

Thời gian thầy thuốc giành để tư vấn gia
đình của 2 nhóm tuân thủ và không tuân thủ
không có sự khác nhau, chủ yếu là <5 phút.
Thời điểm tư vấn gia đình chủ yếu là trong khi
khám điều trị bệnh trong 68,4%, chỉ có 9/38
trường hợp được tư vấn trước khi xuất viện, 2
trường hợp chỉ ghi vào sổ khám chữa bệnh và
1 trường hợp không nhớ là có được tư vấn hay
không. Có 10/38 trường hợp được nghiên cứu
về tuân thủ điều trị là dùng thuốc nam
(26,3%). Cả 10 trường hợp đều thuộc nhóm 18
bệnh nhân không tuân thủ điều trị (55,6%),
trong đó 6 bệnh nhân bỏ hẳn thuốc bệnh viện
chỉ dùng thuốc nam và 4 bệnh nhân vẫn dùng
cả thuốc của bệnh viện nhưng không đi khám
đều hoặc quên thuốc 3-4 ngày liên tục trở lên.
Lý do dùng thuốc nam là do nghe những

người xung quanh mách bảo rằng thuốc đó đã
chữa khỏi bệnh thận cho nhiều người.

BÀN LUẬN
Kết quả khảo sát của chúng tôi thấy 100%
bệnh nhân sử dụng prednisolon dạng uống với
liều phù hợp với khuyến cáo trên thế giới và tại
Việt Nam(7). Thuốc điều trị HCTHTP đợt tái phát
trong nghiên cứu của chúng tôi cũng chủ yếu là
prednisolon (90,3%), có 3 trường hợp sử dụng
methyl-prednisolon truyền tĩnh mạch, 2 trường
hợp sử dụng ức chế miễn dịch do trước khi vào
viện bệnh nhân đang sử dụng ức chế miễn dịch.
Trong nghiên cứu này, liều corticoid ban đầu sử
dụng điều trị tấn công khi vào viện của nhóm
điều trị HCTH đợt đầu chủ yếu đều sử dụng
đúng liều khuyến cáo là 2mg/kg/24h (với sai số
là ± 0,2mg/kg/24h) và tối đa 60mg/24h. Trong
nhóm HCTHTP đợt tái phát có 3 trường hợp sử
dụng liều thấp hơn liều 2mg/kg/24h, trong đó 1
bệnh nhân đang điều trị duy trì với mức liều
thấp khi vào viện chưa được điều chỉnh liều, 1
bệnh nhân đang giai đoạn điều trị duy trì nhưng
mắc thủy đậu và 1 bệnh nhân đang nhiễm
khuẩn nặng. Cả 3 đều được điều trị bệnh mắc
kèm vẫn giữ nguyên liều prednisolon.
Liều prednisolon trong giai đoạn duy trì
theo Dược thư quốc gia và các tài liệu khuyến

Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010


5


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010
cáo là 1mg/kg/24h (tối đa 40mg/24h)(3,7,9).
Corticoid truyền tĩnh mạch được sử dụng là
methyl-prednisolon. Theo khuyến cáo của các
phác đồ trên thế giới và tại Việt Nam(1-3,7,9),
methyl-prednisolon được chỉ định truyền TM
khi bệnh nhân kháng corticoid, với liều
30mg/kg, tối đa 1000m cho 1 lần truyền. Tuy
nhiên, trong tổng số 13 bệnh nhân có sử dụng
methyl-prednisolon ở nghiên cứu này chỉ có 3
bệnh nhân được sử dụng liều cao >2030mg/kg/24h. Số bệnh nhân dùng liều 1020mg/kg chỉ có 3 bệnh nhân, còn lại 7/13 bệnh
nhân sử dụng liều <10mg/kg. Như vậy liều
methyl-prednisolon sử dụng tại khoa Nhi vẫn
thấp và chưa theo liều khuyến cáo.
Tỷ lệ bệnh nhân không tuân thủ điều trị
trong nghiên cứu của chúng tôi chiếm tỷ lệ
47,4%. HCTHTP là một bệnh mãn tính kéo dài
với các đợt tái phát và thuyên giảm, khi bệnh
nhân hết phù hay trong lúc bệnh thuyên giảm,
gia đình bệnh nhân dễ lầm tưởng là khỏi bệnh
nên bỏ tái khám. Trong nghiên cứu này, tỷ lệ
bệnh nhân bỏ không tái khám chiếm 33,3% (6/18
trường hợp không tuân thủ, 6/38 đối tượng
nghiên cứu). Tỷ lệ này thấp hơn so với tỷ lệ bỏ
tái khám là 40,0% (28/70) trong nghiên cứu của
Vũ Huy Trụ(10). Trong các trường hợp bỏ tái

khám thì nguyên nhân không có người đưa đi
khám chiếm 3/6 trường hợp và có 2 trường hợp
(33,3%) nghĩ là đã khỏi bệnh. Trong nghiên cứu
của Vũ Huy Trụ trường hợp bỏ tái khám do
nghĩ là hết bệnh chiếm 6/28 trường hợp (21,4%).
Nhóm bệnh nhân tuân thủ điều trị có mức độ
nhận thức khá về bệnh HCTH chiếm tỷ lệ khá
cao 70%, cao gấp 4,2 lần so với nhóm không tuân
thủ điều trị (16,7%) (p < 0,05), trong khi ở nhóm
không tuân thủ điều trị tỷ lệ nhận thức kém và
trung bình về bệnh HCTH của gia đình cao gấp
2,5 lần so với nhóm tuân thủ điều trị. Điều này
phần nào cho thấy rằng nếu mức độ nhận thức
về bệnh HCTH của gia đình càng tốt thì khả
năng tuân thủ của bệnh nhân càng cao. Nhóm
tuân thủ điều trị có hiểu biết về thuốc điều trị
cao hơn hẳn nhóm không tuân thủ (p<0,05),

Nghiên cứu Y học

chứng tỏ sự hiểu biết về thuốc giúp cho gia đình
đỡ lo lắng ngay cả khi biết thuốc có các tác dụng
phụ, tin tưởng hơn vào khả năng điều trị và tuân
thủ điều trị cao hơn.
Hiệu quả tư vấn của bác sỹ mà chúng tôi ghi
nhận từ phía bệnh nhân chủ yếu là dặn về lý do
và thời gian tái khám, cách dùng thuốc và chế độ
ăn uống. Qua nghiên cứu chúng tôi thấy: hiệu
quả tư vấn kém chủ yếu gặp ở nhóm không tuân
thủ điều trị, trong khi với nhóm tuân thủ điều trị

hiệu quả tư vấn chủ yếu là khá và tốt (18/38
trường hợp chiếm 47,4%). Như vậy, có thể nói
hiệu quả tư vấn của bác sỹ đối với gia đình bệnh
nhân càng tốt thì tỷ lệ bệnh nhân tuân thủ điều
trị càng được cải thiện. Thời gian tư vấn cho
bệnh nhân còn quá ngắn, chủ yếu <5 phút
(77,5%). Thời điểm tư vấn chủ yếu lúc bác sỹ đi
khám tại giường bệnh (68,4%). Tư vấn trước lúc
ra viện còn chiếm tỷ lệ quá thấp (23,7%). Ngoài
ra, việc tư vấn của thầy thuốc có thực sự hiệu
quả để bệnh nhân tuân thủ điều trị hay không
còn phụ thuộc vào việc bác sỹ dặn dò có dễ hiểu
hay không, bệnh nhân có nhận thức được những
vấn đề mà BS dặn dò hay không, BS có tạo được
sự tin tưởng đối với bệnh nhân hay không. Đây
là những vấn đề chúng tôi chưa có điều kiện đi
sâu nghiên cứu.
Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ bệnh
nhân bỏ/dừng thuốc và chuyển thuốc khác hoặc
dùng thêm thuốc khác chiếm 10/18 trường hợp,
trong đó hơn một nửa là bỏ hẳn thuốc bệnh viện
để dùng thuốc nam đơn thuần. Tỷ lệ này cao
hơn nhiều so với kết quả nghiên cứu của Vũ
Huy Trụ là 7,1% (2/28)(10). HCTH là một bệnh
hay tái phát nên gia đình bệnh nhân dễ chán nản
không tin tưởng vào việc điều trị theo y học hiện
đại, bên cạnh đó lại có lan tràn các thuốc y học cổ
truyền, dân gian (chưa có chứng cớ khoa học
trong điều trị HCTH) đang rất phổ biến ở nước
ta là yếu tố tác động đến tâm lý và hành động

của các gia đình bệnh nhân dẫn đến việc tự ý bỏ
thuốc chuyển sang dùng thuốc nam hay thuốc
bắc hoặc dùng thêm thuốc nam trong quá trình
điều trị. Việc kết hợp y học hiện đại với y học cổ

6Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010
truyền (kể cả các bài thuốc dân gian) là nhu cầu
của nhân dân và cũng là chủ trương của nhà
nước ta. Kết quả nghiên cứu này càng chứng tỏ
cần có những nghiên cứu để có đủ chứng cớ
khoa học cho việc dùng hay không dùng các
thuốc y học dân tộc trong HCTH nói chung và
HCTHTP ở trẻ em nói riêng.

KẾT LUẬN

7.
8.

9.

10.

Nghiên cứu Y học

Lê Nam Trà (2006). Hội chứng thận hư tiên phát. Bài giảng
nhi khoa, tập 2. Nhà xuất bản y học, trang 155-167.

Nguyễn Công Khanh, Nguyễn Thanh Liêm (2003), Hướng
dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh trẻ em, Nhà xuất bản y học,
trang 226-232.
Niaudet P., Gagnadaux MF., Broyer M. (1998). Treatment of
childhood steroid-resistant indiopathic nephritic syndrome”.
Adv Nephrol Necker Hosp, (28): 43-61.
Vũ Huy Trụ (2003). Hội chứng thận hư nguyên phát tại bệnh
viện Nhi Đồng 1. Nghiên cứu y học TP HCM tập 7, chuyên đề
nhi khoa, tr 1-2.

Kết quả của nghiên cứu ban đầu này về
việc dùng thuốc corticoid và sự tuân thủ điều
trị cho thấy có sự đồng thuận cao về việc sử
dụng prednisolon và liều lượng trong điều trị
tấn công cũng như điều trị duy trì HCTHTP ở
nhóm đối tượng nghiên cứu này. Kết quả
nghiên cứu cũng cho thấy chưa có sự thống
nhất trong việc sử dụng methyl-prednisolon
truyền TM liều cao trong điều trị bệnh nhân
HCTHTP kháng thuốc. Còn có đến gần một
nửa số trường hợp chưa tuân thủ điều trị. Sự
hiểu biết về bệnh và về thuốc thấp chỉ ra trong
nghiên cứu này, cùng với thời gian tư vấn quá
ngắn, chỉ thực hiện chủ yếu khi khám bệnh mà
chưa tập trung tư vấn khi ra viện cũng cho
phép phần nào lý giải hiệu quả tư vấn chưa
cao trong nghiên cứu. Qua đây, chúng tôi thấy
để việc điều trị có kết quả tốt bệnh mạn tính,
hay tái phát này, cần tập trung nỗ lực cải thiện
tính tuân thủ điều trị thông qua việc tăng

cường thời lượng và chất lượng tư vấn của
thầy thuốc đối với bệnh nhân và gia đình, nhất
là trước lúc bệnh nhân xuất viện.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.

3.
4.

5.

6.

Bagga A., Manta M. (2005). Nephrotic syndrome in children.
Indian J Med Res, 122: 13-18.
Beattie J. and Renal clinicians group (2007). Guideline for the
management of nephotic syndrome. Greadter glasgow (Oct
2007): 1-8.
Bộ y tế (2004). Dược thư quốc gia Việt Nam.
Debbie SG. et al (2009). Management of childhood onset
nephrotic syndrome. Pediatrics vol. 124 No. August 2009: 747757.
Hiraoka M., Tsukahara H., Haruki S. et al (2000). Older boys
benefit from higher initial prednisolone therapy for nephrotic
syndrome. Kidney Int, vol.58, (3): 1247-1252.
Hodson EM., Kningt JF., Willis NS., Craig JC. (2005).
Corticosteroid therapy for nephrotic syndrome in chidren.
Arch Dis Child (25): 45-51.


Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010

7


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010

8Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010

Nghiên cứu Y học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010

Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010

Nghiên cứu Y học

9



×