Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.84 KB, 7 trang )
u quả là phải nằm viện kéo dài, thở máy, có
40
nhiều thủ thuật xâm lấn, nguy cơ nhiễm khuẩn
bệnh viện rất cao. Đây là nỗi trăn trở của các nhà
lâm sàng, làm sao hạ thấp tỉ lệ trẻ sinh non và
giảm tối đa có thể tình trạng nhiễm khuẩn tại
bệnh viện, mới hy vọng giảm được tỉ lệ tử vong
ở trẻ sơ sinh.
Mô hình tử vong sơ sinh
Tỉ lệ tử vong sơ sinh/ tổng số trẻ sơ sinh
nhập viện thay đổi theo từng năm, nghiên cứu
của Trần Thị Gắn lần lượt như sau: 9,26%(2000),
11,6%(2001), 9,4%(2002). Nghiên cứu của chúng
tôi, thì tỉ lệ tử vong sơ sinh/ tổng số trẻ sơ sinh
nhập viện: (7,35%). Chúng ta thấy tỉ lệ tử vong ở
trẻ sơ sinh có giảm, điều này theo chúng tôi nghĩ
là do có sự tiến bộ về điều trị, nâng cấp về
chuyên môn và trang thiết bị y tế, Tuy nhiên, tỉ lệ
tử vong trẻ sơ sinh trong bệnh viện còn khá cao,
tỉ lệ tử vong sơ sinh chiếm đa số (70,64%) so với
tử vong chung của trẻ em dưới 15 tuổi. Điều này
cho thấy rằng, muốn giảm tỉ lệ tử vong chung
của Khoa Nhi thì phải giảm tỉ lệ tử vong trẻ sơ
sinh trước tiên. Trong nghiên cứu của Tạ Văn
Trầm, hơn 85,5% tử vong sơ sinh xảy ra trong
giai đoạn sơ sinh sớm và gần một nửa số sơ sinh
tử vong trong ngày đầu của cuộc đời, cho thấy
nguy cơ mắc bệnh cũng như tử vong trong giai