Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Bước đầu áp dụng phẫu thuật nội soi điều trị thận ứ nước ở trẻ em

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (634.3 KB, 5 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

Nghiên cứu Y học

BƯỚC ĐẦU ÁP DỤNG PHẪU THUẬT NỘI SOI  
ĐIỀU TRỊ THẬN Ứ NƯỚC Ở TRẺ EM 
Huỳnh Cao Nhân*, Huỳnh Công Chấn*, Nguyễn Thị Trúc Linh*, Lê Thanh Hùng*, Lê Công Thắng* 

TÓM TẮT 
Mục tiêu: Báo cáo kết quả ban đầu phẫu thuật tạo hình khúc nối bể thận niệu quản qua nội soi trên trẻ em. 
Phương  pháp  nghiên  cứu:  Nghiên cứu tiền cứu có can thiệp. Trong khoảng thời gian từ tháng 10/2012 
đến tháng 06/2013, chúng tôi thực hiện phẫu thuật tạo hình khúc nối bể thận niệu quản qua nội soi để điều trị 
thận ứ nước cho 04 trẻ nhập viện tại bệnh viện Nhi Đồng 1. 
Kết quả: Bốn bệnh nhân được phẫu thuật nội soi bằng đường xuyên phúc mạc. Thời gian phẫu thuật trung 
bình 225 phút, thời gian nằm viện trung bình là 6,75 ngày. Thời gian theo dõi sau mổ trung bình 7,25 tháng. 
Không có biến chứng trong và sau mổ. Không có trường hợp nào chuyển mổ hở. Không có bệnh nhân nào phải 
truyền máu trong và sau mổ. Sau mổ cả bốn bệnh nhân đều không có triệu chứng lâm sàng. Siêu âm cải thiện 
tình trạng ứ nước sau mổ. Biểu đồ trên xạ hình thận bằng DTPA sau mổ cho thấy không tắc và chức năng thận 
được cải thiện trong 1 trường hợp. 
Kết luận: Phẫu thuật tạo hình khúc nối bể thận niệu quản qua nội soi có thể áp dụng cho trẻ em một cách an 
toàn và hiệu quả. 
Từ khóa: Thận ứ nước, mổ nội soi, trẻ em, tắc khúc nối bể thận niệu quản. 

ABSTRACT 
PRELIMINARY RESULTS OF LAPAROSCOPIC PYELOPLASTY IN CHILDREN 
Huynh Cao Nhan, Huynh Cong Chan, Nguyen Thi Truc Linh, Le Thanh Hung,  
Le Cong Thang * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 120 ‐ 124 
Objective: To report our preliminary results of laparoscopic pyeloplasty in children. 
Methods:  Preliminary  report  of  a  prospective  trial.  From  October  2012  to  June  2013,  04  children  with 
ureteropelvic junction obstruction underwent laparoscopic pyeloplasty in Children Hospital 1. 
Results:  04  childrens  with  ureteropelvic  junction  obstruction  underwent  laparoscopic  pyeloplasty  via 


transperitoneal  approach.  Mean  operative  time  was  225  minutes.  Postoperative  hospital  stay  was  6.75  days. 
Mean follow up is 7.25 months. No complications occurred  in‐or postoperation. None of cases were converted to 
open operation. Blood transfusion didn’t need. Postoperation no one had clinic symptoms. Ultrasound showed 
hydronephrosis  decreased.  Tc  99  m‐DTPA  renal  scintigraphy  postoperationrevealed  anon  obstruction  pattern 
and renal function were improved in one patient. 
Conclusions: Laparoscopic pyeloplasty can be applied in children safely and feasibly. 
Key words: Hydronephrosis, laparoscopic, children, ureteropelvic junction obstruction 
gần  đây.  Ngày  nay  phẫu  thuật  nội  soi  đem  lại 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
nhiều lợi ích cho bệnh nhi nhưítđau đớn sau mổ, 
Phẫu thuật nội soi điều trị thận ứ nước trên 
hồi  phục  sớm,  thời  gian  nằm  viện  ngắn,  thẩm 
người lớn đã phát triển từ nhiều năm qua, trong 
mỹ  đã  thách  thức  phẫu  thuật  viên  ngày  càng 
khi đó áp dụng trên trẻ em chỉ mới những năm 
phải  phấn  đấu  học  tập  rèn  luyện  tay  nghề  để 
* Đại học Y Dược Tp Hồ Chí Minh, Bệnh viện Nhi Đồng 1. 
Tác giả liên lạc: Ths.Bs.Huỳnh Cao Nhân  ĐT: 0919145844 

Chuyên Đề Ngoại Nhi 

 Email:  

121


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013


mang lại lợiích cho bệnh nhân. 
Trên thế giới đã có nhiều báo cáo về kỹ thuật 
nội soi cho trẻ em bị thận ứ  nước. Ở  Việt Nam 
chưa có bài báo nào về kỹ thuật này. 
Vì vậy, chúng tôi bước đầu áp dụng kỹ thuật 
này  với  mong  muốn  đánh  giá  tính  an  toàn  và 
khả thi cho các trẻ bị thận ứ nước tại bệnh viện 
Nhi Đồng 1. 

Mục tiêu nghiên cứu 
Báo cáo kết quả ban đầu phẫu thuật tạo hình 
khúc nối bể thận niệu quản qua nội soi trên trẻ 
em. 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu tiền cứu có can thiệp.  
Trong  khoảng  thời  gian  từ  tháng  10/2012 
đến  tháng  06/2013,  chúng  tôi  thực  hiện  phẫu 
thuật nội soi điều trị thận ứ nước cho 04 trẻ nhập 
viện tại bệnh viện Nhi Đồng 1. 
Phương  pháp  phẫu  thuật:  Chúng  tôi  áp 
dụng  kỹ  thuật  tạo  hình  khúc  nối  bể  thậnniệu 
quản  theo  Anderson‐Hynesqua  nội  soi  ổ  bụng, 
tiếp cận qua ngã xuyên phúc mạc. Có đặt nòng 
niệu  quản  JJ.  Rút  nòng  niệu  quản  ở  thời  điểm 
sau mổ 2 tháng. 
Chi  tiết  phẫu  thuật:  Chúng  tôi  cùng  một 
nhóm  phẫu  thuật  viên  thực  hiện.  Vào  bụng 
xuyên phúc mạc qua ba trocar: trocar rốn 10 mm 
dùng cho đèn soi, trocar hạ vị bên trái 5 mm và 

trocar thượng vị 5 mm  dùng  cho  dụng  cụ  thao 
tác.  Bơm  khí  CO2  vào  ổ  bụng,  bộc  lộ  phẫu 
trường.  Tìm  thấy  bể  thận  giãn  chứa  nước  căng 
qua mạc treo đại tràng xuống. Mở mạc treo đại 
tràng  tiếp  cận  khúc  nối.  Bóc  tách  di  động  khúc 
nối,  dùng  một  mũi  chỉ  khâu  bể  thận  lên  thành 
bụng  trước  bên  trái  tạo  thuận  lợi  cho  thao  tác. 
Cắt rời khúc nối bể thận niệu quản, cắt bớt phần 
bể thận giãn, xẻ dọc đầu dưới niệu quản qua chỗ 
tắc khoảng 10 mm. Khâu nối lại niệu quản vào 
bể  thận  theo  kỹ  thuật  tạo  hình  của  Anderson‐
Hynes.  Mối  nối  dùng  chỉ  vicryl  hoặc  PDS  6.0. 
Đặt nòng niệu quản JJ. Khâu kín lại miệng nối bể 
Bảng 1. So sánh các số liệu trước mổvà sau mổ. 
Bệnh nhân
Tuổi

122

1
6

thận  niệu  quản.  Dùng  ống  nuôi  ăn  số  10F  đặt 
mặt sau đại tràng xuống dẫn lưu cạnh miệng nối 
ra da hông bên trái. Khâu lại mạc treo đại tràng 
xuống. Hút sạch dịch trong bụng. Rút máy  soi. 
Đóng bụng. 
Các  biến  số  theo  dõi  bao  gồm:  triệu  chứng 
lâm  sàng,  triệu  chứng  cận  lâm  sàng:  siêu  âm 
bụng,  chụp  hệ  niệu  tĩnh  mạch,  chụp  bàng 

quangniệu đạo lúc tiểu, chụp xạ hình thận. Thời 
gian  phẫu  thuật.  Thời  gian  nằm  viện.  Các  biến 
chứng trong và sau mổ. Kết quả sau phẫu thuật. 

KẾT QUẢ 
Triệu chứng lâm sàng: Đau bụng: cả 04 bệnh 
nhân đều bị đau  bụng  trước  mổ,  sau  mổ  tất  cả 
hết  đau  bụng.  Không  có  bệnh  nhân  nào  bị 
nhiễm khuẩn tiểu trước và sau mổ. Sau mổ bốn 
trẻ đều lên cân. 
Triệu chứng cận lâm sàng: Siêu âm bụng: cả 
bốn  bệnh  nhân  siêu  âm  trước  mổ  đều  thận  ứ 
nước  độ  III  bên  trái,  chủ  mô  thận  mỏng,  kích 
thước bể thận giãn.Chụp hệ niệu tĩnh  mạch:  cả 
bốn  trường  hợp  đều  cho  thấy  bể  thận  giãn  to, 
không thấy thuốc xuống niệu quản bên thận bị 
bệnh.  Chụp  bàng  quang‐niệu  đạo  lúc  tiểu: 
Không  có  trường  hợp  nào  bị  trào  ngược  bàng 
quang‐niệu quản cùng bên hay đối bên với thận 
bị  ảnh  hưởng.Chụp  xạ  hình  thận  DTPA  với 
thuốc  lợi  tiểu:  cả  bốn  trường  hợp  đều  cho  biểu 
đồ kiểu tắc nghẽn bên thận bị ảnh hưởng, chức 
năng thận giảm: trung bình là 41% (39‐42,3%). 
Thời  gian  phẫu  thuật  trung  bình:  225  phút 
(150‐265 phút). Thời gian nằm viện: 6,75 ngày (6‐
7 ngày). Các biến chứng trong và sau mổ: Không 
có.  Thời  gian  theo  dõi:  7,25  tháng  (6‐8  tháng). 
Không có bệnh nhân  nào  phải  truyền  máu  hay 
chuyển  sang  mổ  hở.  Không  có  trường  hợp  nào 
có mạch máu cực dưới bất thường chèn ép khúc 

nối. 
Cả  bốn  trường  hợp  chúng  tôi  tiếp  cận  qua 
đường xuyên phúc mạc, sau đó mở mạc treo đại 
tràng xuống để tiếp cận thận trái. 

2
1 (14 tháng)

3
7

4
7

Trung bình
5,25

Chuyên Đề Ngoại Nhi  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
Bệnh nhân
Trước mổ
Cân nặng
Sau mổ (03tháng)
Trước mổ
Đau bụng
Sau mổ
Thận (T)/(P) trước mổ
Siêu âm

Thận (T)/(P) sau mổ
Thận (T)/(P) trước mổ
DTPA
Thận (T)/(P) sau mổ
UIV
Giãn bể thận
VCUG
Trào ngược
Thời gian mổ (phút)
Thời gian nằm viện (ngày)
Thời giantheo dõi (tháng)
Biến chứng

1
20
20,5
+
III/0
II/0
42,3/57,7 Tắc

2
9,5
10,3
+
III/0
II/0
41,5/58,5 Tắc

+

265
7
8
-

+
255
7
8
-

BÀN LUẬN 
Tắc  khúc  nối  bể  thận  niệu  quản  là  nguyên 
nhân hàng đầu gây thận ứ nước ở trẻ em. Điều 
trị  bảo  tồn  được  chỉ  định  ban  đầu,  phẫu  thuật 
được chỉ định khi chức năng thận giảm, thận ứ 
nước  nhiều  hơn  hay  có  triệu  chứng  lâm  sàng. 
Mổ  hở  vẫn  là  kỹ  thuật  chuẩn  để  điều  trị  bệnh 
này. Ngày nay nhiều tiến bộ của phẫu thuật nội 
soi có thể áp dụng cho bệnh nhi bị thận ứ nước. 
Triệu chứng lâm sàng trước mổ cả bốn bệnh 
nhân  đều  có  triệu  chứng  đau  bụng,  sau  mổ 
không bệnh nhân nào than phiền còn đau bụng. 
Sau  mổ  không  bệnh  nhân  nào  có  biểu  hiện 
nhiễm trùng tiểu, và cả bốn bệnh nhân đều lên 
cân. Đây là các biểu hiện cho thấy sau mổ không 
có  tình  trạng  ứ  đọng  nước  tiểu  ở  thận  bị  ảnh 
hưởng, khúc nối thông thương, về mặt lâm sàng 
có cải thiện. 


 
Hình 1. Xạ hình so sánh chức năng thận trước và sau mổ. 

Chuyên Đề Ngoại Nhi 

Nghiên cứu Y học

3
4
Trung bình
19
17,5
16,5
19,8
18
17,15
+
+
II/0
III/0
I/0
III/0
39/61 Tắc
41,2/58,8 Tắc
48,9/51,1 Không tắc
+
+
230
150
225

6
7
6,75
7
6
7,25
-

Triệu chứng cận lâm sàng sau mổ, qua thời 
gian theo dõi chúng tôi cho bệnh nhân siêu âm 
bụng  đánh  giá  lại  độ  ứ  nước  thận,  cho  thấy  có 
cải  thiện  hoặc  không  tiến  triển  thêm  mức  độ  ứ 
nước của thận bị ảnh hưởng, điều này cho  biết 
tình  trạng  ứ  nước  tạm  thời  được  giải  phóng. 
Thận  đã  giảm  hoặc  không  còn  bị  tăng  áp  lực 
trong thận và bể thận. 
Chụp  hệ  niệu  tĩnh  mạch  sau  mổ  chúng  tôi 
chỉ thực hiện được một bệnh nhân. So với hình 
ảnh trước mổ cho thấy bể thận không nhỏ hơn, 
không  thấy  được  thuốc  cản  quang  xuống  niệu 
quản  trái  do  đó  không  thể  kết  luận  được  khúc 
nối sau tạo hình có thông hay chưa. 
Chụp  xạ  hình  thận  bằng  DTPA  với  lasix, 
chúng  tôi  chỉ  thực  hiện  được  trên  một  bệnh 
nhân  tái  khám  (bệnh  nhân  số  3),  so  sánh  với 
trước  mổ  cho  thấy  chức  năng  thận  hồi  phục 
đáng kể, và không có tắc nghẽn trên đường cong 
bài suất. 

 


123


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

 
 
Hình 2. Xạ hình so sánh đường cong bài suất trước và sau mổ. 
Chúng  tôi  tiếp  cận  qua  đường  xuyên  phúc 
mạc  vì  đây  là  những  trường  hợp  ban  đầu  nên 
cần phải có phẫu trường rộng để  thuận lợi cho 
thao tác chưa thuần thục của phẫu thuật viên.  
Cả bốn trường hợp chúng tôi đều đặt nòng 
niệu quản bằng thông JJ 4F. Sau đó rút thông ở 
thời điểm sau mổ 02 tháng. Thông JJ giúp chúng 
ta an tâm hơn về kết quả sau mổ, tránh hẹp khúc 
nối trong quá trình lành sẹo. 
Thời  gian  phẫu  thuật  trung  bình  trong 
nghiên  cứu  này  là  255  phút.  Trong  đó  trường 
hợp đầu tiên chúng tôi thực hiện mất 265 phút, 
và  trường  hợp  sau  cùng  chúng  tôi  chỉ  mất  150 
phút. Điều này là do ca đầu tiên chúng tôi chưa 
Hình 3. Hình sẹo sau mổ 
quen  nên  kỹ  thuật  mổ  còn  thực  hiện  rất  cẩn 
Thời gian theo dõi của nhóm này trung bình 
thận, tỉ mỉ, luôn luôn kiểm soát tốt đường khâu 
là 7,25 tháng, chưa thấy bệnh nhân nào có biểu 

mối  chỉ  nên  rất  chậm.  Qua  các  trường  hợp  sau 
hiện  tái  phát.  Tuy  nhiên,  cần  phải  theo  dõi  lâu 
đó chúng tôi có thêm những kinh nghiệm khâu 
dài hơn nữa để đánh giá kết quả phẫu thuật. 
nối, đặt nòng niệu quản JJ nên thực hiện nhanh 
Qua  các  kết  quả  trên  cho  thấy  chúng  ta  có 
hơn.  Trong  tương  lai  chúng  tôi  sẽ  thuần  thục 
thể áp dụng kỹ thuật tạo hình khúc nối bể thận 
hơn, sẽ rút ngắn được thời gian phẫu thuật.  
niệu  quản  trên  trẻ  em  một  cách  an  toàn  và  có 
Thời  gian  nằm  viện  trong  nghiên  cứu  này 
hiệu quả. Tuy nhiên, do đây chỉ là những bước 
trung  bình  là  6,75  ngày.  Chúng  tôi  chưa  có  ca 
đầu tiên trên lĩnh vực này nên còn nhiều khuyết 
nào  ra  viện  sớm  do  số  mẫu  còn  quá  ít,  đây  là 
điểm chưa hoàn thiện. Nhóm nghiên cứu đang 
những  ca  đầu  tiên  nên  thận  trọng  theo  dõi  sau 
dần áp dụng trên trẻ với số lượng nhiều hơn và 
mổ lâu hơn. 
thời gian theo dõi dài hơn, để đánh giá chính xác 
Các  biến  chứng  trong  và  sau  mổ:  Cả  bốn 
hơn tính hiệu quả của phương pháp này. 
bệnh  nhân  không  bị  biến  chứng  nào  trong  và 
KẾT LUẬN 
sau mổ. 
Kỹ thuật tạo hình khúc nối bể thậnniệu quản 
Sẹo sau mổ rất nhỏ, có tính thẩm mỹ, cả thân 
qua nội soi bước đầu có thể áp dụng trên trẻ em 
nhân và thầy thuốc nhìn cảm thấy hài lòng hơn 
một cách an toàn và hiệu quả. 

so với vết mổ của kỹ thuật mổ hở. 

124

Chuyên Đề Ngoại Nhi  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

4.

5.

Ansari  MS,  Mandhani  A,  Singh  P  (2008).  Laparoscopic 
pyeloplasty  in  children:  Long  term  outcome.  International 
Journal of Urology 15, pp 881–884. 
Denes  FT,  Tavares  A  (2008).  Laparoscopic  renal    surgery    in  
infants  and children: Is  it  a feasible and safe procedure for all 
pediatric  age  groups?  International  Braz  J  Urol  Vol.  34  (6):  pp 
739‐748. 
Eden  CG,  Cahill  D,  Allen  JD.  (2001).    Laparoscopic 
dismembered  pyeloplasty:  50  consecutive  cases.  BJU 
International, 88, pp 526‐531. 
Han HH., Ham WS., Kim JH. (2013): Transmesocolic approach 

for  left  side  laparoscopic  pyeloplasty:  Comparison  with 
laterocolic approach in the initial learning period. Yonsei Med J 
54(1):pp 197‐203. 
Penn  HA,  Gatti  MJ,  Hoestje  SM.  (2010).  Laparoscopic  versus 
open  pyeloplasty  in  children:  Preliminary  report  of  a 
prospective randomized trial. Journal Of Urology, Vol. 184, pp 
690‐695. 

6.

7.

8.

9.

Nghiên cứu Y học

Savaş  M,  Yeni  E,  Çiftci  H  (2010):  Pediatric  laparoscopic 
dismembered pyeloplasty: technique and results in 25 patients. 
Turkish Journal of Urology;36(3):pp 233‐237. 
Sergio  LJ,  Roxana  AD,  Carlos  GH  (2011):  Minimally  invasive 
treatment  of  ureteropelvic  stenosis  in  infancy.  Rev  Mex 
Urol;71(1):pp 12‐17 
Singhania  P,  Andankar  MG,  Pathak  HR  (2009):  Laparoscopic 
dismembered  pyeloplasty:  Our  experience  in  15  cases,  World 
Journal of Laparoscopic Surgery;2(2):pp 6‐11. 
Turk  IA,  Davis  JW,  Winkelmann  B  (2002):  Laparoscopic 
dismembered  pyeloplasty‐The  method  of  choice    in  the 
presence  of  an  enlarged  renal  pelvis  and  crossing  vessels. 

European Urology 42, pp 268‐275. 

 
Ngày nhận bài  
15/07/2013. 

 

 

 

 

Ngày phản biện nhận xét bài báo 

 17/07/2013. 

Ngày bài báo được đăng: 

15–09‐2013 

 

 
 

Chuyên Đề Ngoại Nhi 

125




×