Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Đặc điểm của bệnh gút ở người lớn tuổi tại khoa nội cơ xương khớp Bệnh viện Thống nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.23 KB, 5 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

ĐẶC ĐIỂM CỦA BỆNH GÚT Ở NGƯỜI LỚN TUỔI  
TẠI KHOA NỘI CƠ XƯƠNG KHỚP BỆNH VIỆN THỐNG NHẤT 
Hồ Thị Thanh Tâm*, Ngô Thế Hoàng*, Nguyễn Đức Công* 

TÓM TẮT 
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, bệnh lý kèm theo ở bệnh nhân gút lớn tuổi. 
Thiết kế nghiên cứu: Tiền cứu, mô tả 44 trường hợp bệnh gút trên 60 tuổi điều trị nội trú tại khoa Nội Cơ 
Xương Khớp bệnh viện Thống Nhất từ 3/2012 đến tháng 4/2013. 
Kết quả: Trong số 44 bệnh nhân, gồm nam 42 (95,5%), nữ 2 (4,5%). Tỉ lệ nam/nữ: 21/1. Tuổi trung bình 
72,5  ± 7,9 tuổi (60‐92). Lâm sàng: đa số bệnh nhân ở giai đoạn gút mạn (86,3%). Bệnh nhân sưng đau nhiều 
hơn 2 khớp 81,8%. Chẩn đoán nhầm viêm khớp nhiễm khuẩn 22,7% (10/44 bệnh nhân). Tophi chỉ gặp ở 29,5% 
bệnh nhân. Cận lâm sàng: nồng độ axít uric máu trung bình 499,8 ± 97,0 µmol/L; 11,8% đợt cấp gút mạn không 
tăng axít uric máu. Tổn thương khớp trên phim X‐quang tỉ lệ hẹp khe khớp 38,6% và khuyết xương chỉ ghi nhận 
13,6%. Bệnh lý kèm theo: thường gặp tăng huyết áp 70,5%; thiếu máu cơ tim 40,9%; rối loạn lipid máu 34,1% 
và đái tháo đường type 2 29,5%. 
Kết  luận: Gút ở người lớn tuổi thường mạn tính, đợt cấp dễ chẩn đoán nhầm viêm khớp nhiễm khuẩn. 
Kháng sinh và kháng viêm không steroids thường được sử dụng trước khi vào viện. Tăng huyết áp, thiếu máu cơ 
tim, rối loạn lipid máu và đái tháo đường type 2 là những bệnh lý thường kết hợp ở bệnh nhân gút lớn tuổi. 
Từ khóa: Gút, người lớn tuổi, tophi. 

ABSTRACT 
CLINICAL AND LABORATORY FEATURES OF GOUT IN ELDERLY PATIENTS AT THE 
RHEUMATIC MUSCULOSKELETAL MEDICINE DEPARTMENT AT THONG NHAT HOSPITAL 
Ho Thi Thanh Tam, Ngo The Hoang, Nguyen Duc Cong 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3‐ 2013: 270 ‐ 274 
Objective: To describe clinical and laboratory characteristics and diseases associated  with  gout  in  elderly 
patients. 


Subjects and Methods: This prospective study included 44 patients aged 60 years old or older, who were 
diagnosed  with  gout  and  treated  in  the  Rheumatic  Musculoskeletal  Medicine  Department  at  Thong  Nhat 
Hospital during the period from March 2012 to April 2013. 
Results: Of the 44 patients, 42 were male (95.5%) and 2 were female (4.5%) and the male/female ratio 
was  24/1.  The  mean  age  of  these  patients  was  72.5  ±  7.9  years  (ranged  from  60  to  92).  Clinical  features: 
86.3%  patients  had  chronic  gout.  81.8%  patients  had  polyarthritis  in  2  or  more  joints.  Misdiagnosed  as 
septic arthritis 22.7% (10/44 patients). Tophaceous gout developed in 29.5% patients. Laboratory features: 
the  mean  serum  uric  acid  level  was  499.8  ±  97.0  µmol/L.  11.8%  of  exacerbations  of  chronic  gout  had  no 
hyperuricemia.  Radiographical  abnormalities  of  bone  and  joints  were  joint‐space  narrowing  38.6%  and 
erosive bone lesions 13.6%. Associated medical diseases: Hypertension 70.5%, ischemic heart disease 40.9%, 
dyslipidemia 30.1% and diabetes mellitus 29.5%. 
Conclusions: Gout in aged patients was most frequently presented in the form of chronic disease and the 
* Bệnh viện Thống Nhất TPHCM 
Tác giả liên lạc: BSCKII. Ngô Thế Hoàng 

270

ĐT: 0908418109 

Email: 

Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

Nghiên cứu Y học

diagnosis  was  often  mistaken  for  pyogenic  arthritis.  Abusive  treatment  with  NSAIDs  and  antibiotics  was 
common. Hypertension, ischemic heart disease, dyslipidemia and diabetes mellitus are often associated with gout 

in elderly patients.  
Keywords: Gout, elderly patients, tophi. 

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Gút  là  một  bệnh  chuyển  hóa  thường  gặp, 
liên quan đến rối loạn chuyển hóa purine. Hậu 
quả tăng axít uric máu kéo dài và lắng đọng tinh 
thể  urát  sodium  ở  khớp(1,11).  Tỉ  lệ  mắc  bệnh  gút 
có  xu  hướng  tăng  lên  trong  hai  thập  kỉ  qua, 
thường xảy ra ở nam giới với tỷ lệ lưu hành là 
0,16‐1,36%(9,8).  Ở  Việt  Nam  gút  là  bệnh  khá 
thường  gặp,  nhưng  do  một  số  biểu  hiện  của 
bệnh lại có thể gặp trong một số bệnh khớp khác 
(viêm  khớp  nhiễm  khuẩn,  viêm  khớp  dạng 
thấp…) nên dễ bị chẩn đoán nhầm. Do đó, bệnh 
nhân  phải  chịu  hậu  quả  do  không  được  chẩn 
đoán  sớm  và  điều  trị  đúng  cách.  Bên  cạnh 
những  tổn  thương  về  xương  khớp,  suy  thận 
trong  giai  đoạn  muộn  đã  làm  giảm  chất  lượng 
cuộc sống, đặc biệt ở những người lớn tuổi. Tại 
bệnh  viện  Thống  Nhất,  khoa  Nội  Cơ  Xương 
Khớp là khoa mới thành lập với cơ cấu bệnh tật 
đa dạng. Thực hiện nghiên cứu này nhằm khảo 
sát một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và 
các  bệnh  lý  kèm  theo  ở  bệnh  nhân  gút  trên  60 
tuổi. Từ đó,  có  thể  xây  dựng  kế  hoạch  điều  trị, 
nâng  cao  trình  độ  chuyên  môn  góp  phần  cải 
thiện  chất  lượng  cuộc  sống  bệnh  nhân  gút  lớn 
tuổi. 


ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu: tất cả các bệnh nhân 
≥60  tuổi  được  chẩn  đoán  gút  theo  tiêu  chuẩn 
Bennett‐Wood  năm  1968,  điều  trị  nội  trú  tại 
khoa Cơ Xương Khớp từ tháng 3/2012 đến tháng 
4/2013. Loại trừ  các  bệnh  nhân  lú  lẫn,  suy  thận 
mạn  giai  đoạn  cuối,  gút  thứ  phát  hoặc  bệnh 
nhân có dùng các thuốc ảnh hưởng đến sự  sản 
xuất  và  bài  tiết  acid  uric  trong  vòng  10  ngày 
trước nhập viện. 
Phương  pháp  nghiên  cứu:  tiền  cứu,  mô  tả 
cắt ngang. 

Tiến hành thu thập số liệu theo bệnh án mẫu 
và các xét nghiệm đều được thực hiện tại phòng 
xét nghiệm bệnh viện Thống Nhất. Xử lý số liệu 
bằng phần mềm SPSS 13.0 for Window. 

KẾT QUẢ 
Sau  13  tháng  thành  lập  khoa,  tại  khoa  Cơ 
Xương  Khớp  Bệnh  viện  Thống  Nhất  chúng  tôi 
có 44 trường hợp được chẩn đoán gút. Kết quả 
như sau:  

Dịch tễ học 
Tuổi trung bình 72,5 ± 7,9 tuổi (thấp nhất 60, 
cao  nhất  92  tuổi).  Nam  95,5%  (42/44),  nữ  4,5% 
(2/44).  Tỉ  lệ  nam/  nữ  =  21/1.  Sống  ở  thành  thị 
56,8%  (25/44),  ở  vùng  nông  thôn  43,2%  (19/44). 
Thời  gian  mắc  bệnh  trung  bình  5,8  ±  3,6  năm 

(thấp nhất 1 tháng, cao nhất 15 năm). Ghi nhận 1 
trường hợp (2,3%) có người thân mắc bệnh gút.  
Bảng 1. Phân bố theo tuổi. 
Nhóm tuổi
60 – 69
70 – 79
≥ 80

n=44 (100%)
15 (34,1)
20 (45,5)
9 (20,5)

Nhận  xét:  79,6%  bệnh  nhân  ở  nhóm  60‐79 
tuổi, trên 80 tuổi ít gặp hơn. 
Bảng 2. Chẩn đoán và điều trị trước vào khoa. 
Chẩn đoán trước khi vào khoa, n=19 (43,2%)
Viêm khớp dạng thấp
2 (10,5)
Thoái hóa khớp
7 (36,8)
Viêm khớp nhiễm khuẩn
10 (52,6)
Thuốc điều trị trước khi vào khoa, n=30 (68,2%)
NSAIDs
14 (46,7)
Corticoides
6 (20,0)
Kháng sinh
10 (33,3)

Thuốc đông y
4 (13,3)

Nhận  xét:  chẩn  đoán  trước  khi  vào  viện 
không  phải  gút  43,2%  (trong  đó  53,6%  viêm 
khớp  nhiễm  khuẩn;  36,8%  thoái  hóa  khớp); 
46,7% được sử dụng NSAIDs; 33,3% kháng sinh 
và 20% corticoides. 

Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 

271


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

Nghiên cứu Y học 

Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng 

Các bệnh kèm theo 

Bảng 3. Triệu chứng lâm sàng. 

Bảng 7. Các bệnh lý kèm theo. 

Tại thời điểm nghiên cứu
Sưng đau 1 khớp (bàn ngón chân cái)
Sưng đau 2 khớp (bàn ngón cái, cổ chân
hoặc gối)


n=44 (100%)
8 (18,2)

Sưng đau ≥ 3 khớp (bàn ngón cái, cổ chân,
gối và chi trên 2 bên)*
Tophi

23 (52,3)
13 (29,5)
13 (29,5)

2 bệnh nhân (4,5%) được chẩn đoán là viêm 
khớp dạng thấp. 

Bệnh kèm theo
Tăng huyết áp
Thiếu máu cơ tim
Rối loạn lipid máu
Đái tháo đường type 2
Viêm phế quản mạn
Viêm loét dạ dày tá tràng

n
31
18
15
13
8
3


%
70,5
40,9
34,1
29,5
20,5
6,8

Nhận  xét:  81,8%  bệnh  nhân  sưng  đau  ≥  2 
khớp. 29,5% bệnh nhân có tophi. 

Nhận  xét:  Bệnh  lý  thường  gặp  cao  nhất  là 
tăng  huyết  áp,  kế  tiếp  là  thiếu  máu  cơ  tim,  rối 
loạn lipid máu, đái tháo đường type  2  và  viêm 
phế quản mạn. 

Bảng 4. Acid uric máu. 

BÀN LUẬN 

Tại thời điểm
nghiên cứu
Gút cấp
Đợt cấp gút mạn
Gút mạn
Tổng

n (%)
6 (13,6)

17 (38,6)
21 (47,7)
44 (100)

Axít uric Axít uric máu
máu tăng
µmol/L
6 (100)
609,8 ± 59,0
15 (88,2) 523,7 ± 107,8
17 (80,9) 441,8 ± 44,5
38 (86,4) 499,8 ± 97,0

Nhận  xét:  Đợt  gút  cấp  mạn  và  gút  mạn 
chiếm  86,3%;  gút  cấp  chỉ  13,6%.  86,4%  bệnh 
nhân  có  tăng  axít  uric  máu.  11,8%  đợt  cấp  gút 
mạn không tăng axit uric máu. Nồng độ axít uric 
máu trung bình 499,8 ± 97,0 µmol/L; có sự khác 
biệt  có  ý  nghĩa  thống  kê  của  nồng  độ  axít  uric 
máu giữa gút cấp với gút mạn và giữa đợt cấp 
gút mạn với gút mạn (p<0,01), nhưng không có 
khác biệt giữa gút cấp hoặc đợt cấp gút mạn với 
gút mạn (p=0,1). 
Bảng 5. Tổn thương thận qua siêu âm bụng. 
Siêu âm bụng
Sỏi thận
Vôi hóa
Bệnh lý chủ mô thận mạn
Bình thường


n
11
4
7
19

%
25,0
9,1
15,9
43,2

Nhận xét: Tỉ lệ sỏi thận, vôi hóa và bệnh lý 
chủ  mô  thận  mạn  được  phát  hiện  qua  siêu  âm 
lần lượt 25%; 9,1% và 15,9%. 
Bảng 6. Tổn thương khớp trên X‐Quang. 
X-Quang khớp
Hẹp khe khớp
Gai xương
Khuyết xương

n
17
13
6

%
38,6
29,5
13,6


Nhận xét: Tỉ lệ hẹp khe khớp và gai xương là 
38,6% và 29,5%; khuyết xương 13,6%. 

272

Dịch tễ học 
Trong nghiên cứu của chúng tôi nhóm tuổi 
gặp nhiều nhất là 70‐79 tuổi, trung bình 72,5 ± 
7,9 tuổi; tỉ lệ nam/ nữ = 21/1. Bệnh thường gặp 
chủ  yếu  ở  nam,  tương  tự  với  một  số  nghiên 
cứu trong nước  (3,6,7). Chúng tôi chỉ ghi nhận 1 
trường  hợp  có  yếu  tố  gia  đình,  kết  quả  này 
khác  với  nghiên  cứu  tại  bệnh  viện  Chợ  Rẫy(6), 
có  lẽ  do  mẫu  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  nhỏ. 
Một  số  nghiên  cứu  trong  nước  cho  thấy 
khoảng  2/3  dân  số  nghiên  cứu  sống  ở  thành 
thị(4,10) nhưng trong nghiên cứu này, chúng tôi 
nhận thấy tỉ lệ này không có sự khác biệt đáng 
kể,  do  ngày  nay  mức  sống  và  điều  kiện  sống 
của người dân ở nông thôn đã tăng lên nên sự 
khác biệt này không nhiều. 
Chúng tôi ghi nhận có đến 43,2% bệnh nhân 
trước khi vào khoa chúng tôi đã được chẩn đoán 
và điều trị ở tuyến trước không phải bệnh gút, tỉ 
lệ  này  cao  hơn  nghiên  cứu  tại  bệnh  viện  Chợ 
Rẫy(6). Trong số này, phần lớn bệnh nhân bị chẩn 
đoán nhầm là viêm khớp nhiễm khuẩn (52,6%) 
hoặc  thoái  hóa  khớp  (36,8%).  Do  vậy,  đã  có 
46,7% bệnh nhân được sử dụng NSAIDs; 33,3% 

kháng  sinh  và  20%  corticoides.  Việc  kê  đơn 
thuốc  chưa  hợp  lý  cho  bệnh  nhân  hoặc  bệnh 
nhân tự ý dùng thường xuyên, kéo dài các loại 
kháng sinh, NSAIDs, corticoids đã để lại một số 
hậu  quả  nghiêm  trọng  như  tăng  sự  đề  kháng 

Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
kháng sinh của vi khuẩn, viêm loét dạ dày, tổn 
thương gan, thận, cushing do thuốc…. 

Đặc điểm lâm sàng 
Tại  thời  điểm  nghiên  cứu  phần  lớn  bệnh 
nhân  trong  nghiên  cứu  này  có  tổn  thương  ở 
nhiều khớp (52,3% sưng đau 2 khớp, 18,2% sưng 
đau  ≥  3  khớp).  Theo  một  số  nghiên  cứu,  tỉ  lệ 
bệnh nhân có sưng đau từ 4 khớp viêm trở lên 
chiếm  66,7‐71,2%(4,  6).  Chúng  tôi  cũng  ghi  nhận 
bệnh  nhân  có  tổn  thương  ở  cả  chi  trên  lẫn  chi 
dưới và xuất hiện ở cả 2 bên (bảng 3) cao hơn so 
với  các  nghiên  cứu  khác  8‐18%(3,4,6,7),  giai  đoạn 
này  có  2  bệnh  nhân  (4,5%)  được  chẩn  đoán  là 
viêm khớp dạng thấp. 
Chúng tôi ghi nhận tỉ lệ bệnh nhân có tophi 
là  29,5%.  Theo  y  văn,  diển  tiến  của  gút  nếu 
không  được  điều  trị  đúng  sau  10  ‐  20  năm, 
khoảng  2/3  bệnh  nhân  sẽ  xuất  hiện  hạt  tophi. 
Trong nghiên cứu này, thời gian mắc bệnh trung 

bình là 5,1 ± 4,6 năm, thấp hơn kết quả của các 
tác giả khác(2,6,7). Điều này cho thấy một tỉ lệ khá 
lớn bệnh nhân gút không được chẩn đoán sớm, 
do vậy không được điều trị đúng cách cũng như 
tuân thủ nghiêm chế độ ăn uống. 

Axít uric máu 
Axít uric máu là xét nghiệm cơ bản để chẩn 
đoán  gút.  Kết  quả  của  chúng  tôi  ghi  nhận  có 
88,6% bệnh nhân có tăng axít uric máu, tương tự 
với một số nghiên cứu khác từ 68,9‐91,7%(4,5,6) và 
11,4%  không  có  tăng  axít  uric  máu.  Như  vậy, 
không phải lúc nào chẩn đoán gút cũng có tăng 
axít uric máu, trong đợt gút cấp tỉ lệ này có thể 
từ 30 ‐ 40%(9). Axít uric máu trung bình ở người 
đàn  ông  Việt  Nam  trên  60  tuổi  khỏe  mạnh  là 
368,22  ±  85,09  µmol/L.  Trong  nghiên  cứu  của 
chúng  tôi,  nồng  độ  axít  uric  máu  trung  bình  là 
478,6 ± 90,1 (gút cấp 504,9 ± 15,4; gút mạn 449,8 ± 
33,9)  (bảng  4).  Do  đó,  khai  thác  bệnh  sử  và  xét 
nghiệm  axít  uric  máu  nhiều  lần  đóng  vai  trò 
quan trọng trong chẩn đoán. 

Siêu âm bụng 
Tỉ lệ sỏi thận ở bệnh nhân mắc bệnh gút từ 
10‐25%(7),  một  số  nghiên  cứu  trong  nước  trước 

Nghiên cứu Y học

đây  cho  thấy  tỉ  lệ  sỏi  thận  25  ‐  30,5%;  bệnh  lý 

chủ mô thận mạn từ 20 ‐ 22,9%; nang thận 7,6%; 
vôi hóa 7,6%(5,6). Kết quả nghiên cứu của chúng 
tôi cũng cho kết quả tương tự (bảng 4). 

X quang khớp 
Theo thống kê sau đợt gút cấp đầu tiên từ 6‐
12 năm, các tổn thương xương khớp có thể thấy 
được  trên  phim  X‐quang  xương  khớp(11).  Tuy 
nhiên, trong nghiên cứu này chúng tôi ghi nhận 
tỉ lệ có có hình ảnh hẹp khe khớp, gai xương và 
khuyết  xương  trên  X‐quang  lần  lượt  là  38,6%; 
29,5%  và  13,6%  thấp  hơn  kết  quả  nghiên  khác 
theo thứ tự 69,7%; 31,7‐36,8% và 57,9%(4,5,6). Có lẽ 
do  mẫu  nghiên  cứu  chúng  tôi  còn  nhỏ  và  một 
lần nữa cho thấy việc chẩn đoán sớm bệnh gút 
và điều trị hợp lý sẽ giảm được tỉ lệ tổn thương 
xương  khớp,  nhờ  đó  sẽ  cải  thiện  được  chất 
lượng cuộc sống ở người lớn tuổi thường có các 
bệnh lý xương khớp khác kèm theo. 

Các bệnh kèm theo 
Tuy còn nhiều quan điểm trái chiều, nhưng 
đã có nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước cho 
thấy  tăng  axit  uric  là  yếu  tố  nguy  cơ  cho  bệnh 
tim  mạch  và  là  yếu  tố  nguy  cơ  độc  lập  của  tử 
vong  tim  mạch.  Tỉ  lệ  tăng  huyết  áp  trên  bệnh 
nhân gút từ 25‐50%(10,12) và tăng huyết áp là yếu 
tố  nguy  cơ  của  bệnh  gút(4,9).  Trong  nghiên  cứu 
của chúng tôi, tỉ lệ các bệnh lý kèm theo theo thứ 
tự tăng huyết áp 70,5%; thiếu máu cơ tim 40,9%; 

rối loạn lipid máu 34,1% và đái tháo đường type 
2 29,5%. Kết quả này cao hơn so với một số các 
nghiên  cứu  khác(4,5,6),  nhưng  tương  tự  với  kết 
một nghiên cứu trước đây của chúng tôi cũng tại 
bệnh viện Thống Nhất, tỉ lệ tăng huyết áp 73,1%; 
đái  tháo  đường  type  2  21,2%(7).  Lí  giải  cho  kết 
quả  này  vì  đây  là  các  bệnh  lý  thường  gặp  ở 
người  lớn  tuổi,  một  đặc  trưng  riêng  của  bệnh 
viện  Thống  Nhất,  khám  và  điều  trị  cho  các  đối 
tượng  bệnh  nhân  có  tuổi.  Mặt  khác,  phải  cân 
nhắc  phối  hợp  điều  trị  hợp  lí  mặc  dù  tăng  axít 
uric  máu  là  yếu  tố  nguy  cơ  độc  lập  cho  bệnh 
mạch vành, nhưng bệnh mạch vành và tăng axít 
uric  máu  đều  liên  quan  đến  chức  năng  thận, 
thuốc lợi tiểu và hội chứng chuyển hóa(9). Sự kết 

Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 

273


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

hợp giữa tăng triglyceride máu và tăng axit uric 
đã được xác định chắc chắn. Có đến 80% người 
tăng  triglyceride  máu  có  sự  phối  hợp  của  tăng 
axit  uric  và  khoảng  50‐70%  bệnh  nhân  gút  có 
kèm  tăng  triglyceride.  Cũng  vậy,  đái  tháo 

đường type 2 thường đi kèm với gút, liên quan 
đến sự đề kháng insulin(10,12). Tóm lại, tăng huyết 
áp, thiếu máu cơ tim, rối lọan lipid máu và đái 
tháo đường type 2 là những bệnh lý thường kết 
hợp trên bệnh nhân gút lớn tuổi. Theo dự đoán 
năm 2030 nước ta có khoảng 30% người trên 60 
tuổi,  đây  là  độ  tuổi  con  người  mắc  nhiều  bệnh 
tim mạch, đái tháo đường và bệnh xương khớp. 
Ngày nay tỷ lệ đái tháo đường toàn quốc chiếm 
2,7%, trong đó nam giới chiếm 3,3% và nữ chiếm 
3,7%. Như vậy, mỗi chuyên khoa sâu tim mạch, 
nội tiết và xương khớp đều phải đối mặt với hội 
chứng  chuyển  hóa  ở  bệnh  nhân  gút.  Sự  xuất 
hiện  đồng  thời  của  nhiều  bệnh  lý  trên  làm  ảnh 
hưởng  rất  nhiều  đến  chất  lượng  cuộc  sống  của 
bệnh nhân. Do đó chúng phải được quan tâm và 
điều trị đồng thời với điều trị gút cũng như phải 
có một chế độ dinh dưỡng hợp lí. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.
2.

3.

4.

5.
6.


7.

8.
9.

10.

KẾT LUẬN 

11.

Chẩn  đoán  nhầm  bệnh  gút  với  viêm  khớp 
nhiễm  khuẩn  chiếm  tỉ  lệ  khá  cao,  dẫn  đến  lạm 
dụng kháng sinh. 

12.

Bệnh gút ở bệnh nhân lớn tuổi đa số là gút 
mạn tính, tổn thương nhiều khớp. 

Choi HK, Mount DB, and Reginato AM (2005), Pathogenesis of 
Gout. Annals of Internal Medicine, Vol 143, N 7, pp. 499‐516. 
Dương  Thị  Phương  Anh  (2004),  Nghiên  cứu  các  triệu  chứng 
lâm sàng và cận lâm sàng của tổn thương xương khớp trong 
gút mãn tính, Luận văn tốt nghiệp Bác sĩ y khoa Đại học y Hà 
nội. 
Đoàn Văn Đệ (2003), Đặc điểm lâm sàng, chẩn đoán phân biệt 
bệnh gút với viêm khớp dạng thấp, Y học thực hành 452(5), tr. 
61‐63. 
Lê  Thị  Viên  (2006),  Nghiên  cứu  đặc  điểm  lâm  sàng,  cận  lâm 

sàng và đánh giá kết quả điều trị bệnh gút có hạt tophi, Luận 
văn tốt nghiệp Bác sĩ chuyên khoa cấp II. 
Lê Văn Diễn (2004), Khảo sát acid uric niệu 24 giờ trên bệnh 
nhân gút, Luận văn thạc sĩ Y học. 
Lưu Văn Ái, Lê Anh Thư (2010), 104 đặc đểm của bệnh gút ở 
bệnh nhân lớn tuổi tại bệnh viện Chợ Rẫy. Y Hoc TP. Ho Chi 
Minh, Tập 14 ‐ Phụ bản số 2, tr. 570 – 76 
Ngô  Thế  Hoàng,  Nguyễn  Thị  Thanh  Loan  (2002),  Đánh  giá 
tình  hình  bệnh  Gout  tại  khoa  A2  bệnh  viện  Thống  Nhất  từ 
1999‐2002. Kỉ yếu công trình nghiên cứu khoa học bệnh viện 
Thống Nhất, tr. 71‐80. 
Nguyễn Thị Ngọc Lan (2011). Bệnh gút. Bệnh học  Cơ  xương 
khớp nội khoa. NXB Giáo dục Việt Nam, tr. 189‐212. 
Pillinger  MH,  Rosenthal  P,  and  Abeles  AM,  (2007), 
“Hyperuricemia  and  Gout:  New  Insights  Pathogenesis  and 
treatment”,  Bulletin  of  the  NYU  for  Join  diseases,  65  (3),  pp. 
215‐21. 
Sanghamitra  P  (2004).  The  role  of  uric  acid  in  cardiovascular 
and renal disease and its clinical implications. Orissa Journal of 
Medical Biochesmistry,1,pp.39‐43. 
Underwood M (2006), “Diagnosis and management of gout”, 
BMJ, 332, pp. 1315‐19. 
Viazzi  F  (2006).  Serum  uric  acid  as  a  risk  factor  for 
cardiovascular and renal disease: an old controversy revived. 
The journal of clinical hypertension; 8, pp. 510‐18. 

 

Ngày nhận bài báo 
 

 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 
Ngày bài báo được đăng: 
 

 
 
 

01‐7‐2013 
07‐7‐2013 
01‐8‐2013 

Cần phải điều trị gút song song với điều trị 
các  bệnh  nội  khoa  của  người  lớn  tuổi,  đặc  biệt 
tăng huyết áp và đái tháo đường. 
 

274

Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 



×