Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Đặc điểm về tình trạng mất ngủ ở người cao tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.37 KB, 8 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012

ĐẶC ĐIỂM VỀ TÌNH TRẠNG MẤT NGỦ Ở NGƯỜI CAO TUỔI
Đỗ Thị Xuân Hương*, Nguyễn Minh Đức**, Nguyễn Văn Trí **, Ngô Tích Linh ***

TOM TẮT
Mở đầu: Ngày nay, chứng mất ngủ đã được thừa nhận là một trong những nguyên nhân gây ảnh hưởng
đến sức khỏe cũng như chất lượng sống của người cao tuổi.Để xác định thế nào là ngủ đủ, giấc ngủ phải đạt chất
lượng tức là đủ về số lượng, ít bị thức giấc, ít mộng mị và phải đạt hiệu suất tức là ít buồn ngủ ban ngày đồng
thời hoạt động ban ngày có hiệu quả. Mục tiêu bài này nghiên cứu về đặc điểm giấc ngủ của người cao tuổi.
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang mô tả có đối chứng. Có 306 bệnh nhân tham gia nghiên
cứu phân thành 2 nhóm: nhóm mất ngủ (161) và nhóm chứng (145). Các đối tượng tham gia đều được điều tra
đầy đủ như nhau về các đặc điểm dịch tể học, các bệnh lý nội khoa, tâm thần, các yếu tố môi trường, các thói quen
cá nhân và các đặc điểm của giấc ngủ của họ.
Kết quả: Mất ngủ mãn tính, đa số từ 1 đến 5 năm. Chất lượng giấc ngủ: đa số là khó duy trì giấc ngủ, tiếp
đến là mất ngủ đầu giấc và ít nhất là mất ngủ cuối giấc, trung bình bệnh nhân đi ngủ lúc 22 giờ, phải mất trung
bình 75 phút mới đi vào giấc ngủ, thức giấc 3-4 lần một đêm, sau thức 30 phút mới ngủ lại được, sáng thức dậy
khoảng 4 giờ sáng và trung bình một đêm trung bình ngủ được 4 giờ 30 phút.
Hiệu suất ngủ: tuy mất ngủ nhưng 82,6% trong số họ cảm giác bình thường, chỉ 16,8% cảm giác còn buồn
ngủ sau thức dậy buổi sáng, 26,7% có những lúc ngủ thiếp ban ngày và 17,4% gặp khó khăn trong công việc
hàng ngày vì hậu quả của mất ngủ.
Kết luận: Ở người cao tuổi đa số mất ngủ mãn tính, mặc dù mất ngủ nhưng đa số họ cảm giác bình
thường, chỉ số ít cảm giác còn buồn ngủ sau thức dậy buổi sáng, có những lúc ngủ thiếp ban ngày và gặp khó
khăn trong công việc hàng ngày vì hậu quả của mất ngủ.
Từ khóa: mất ngủ, người cao tuổi.
ABSTRACT
THE CHARACTERISTICS OF INSOMNIA STATE IN THE ELDERLY
Do Thi Xuan Huong, Nguyen Minh Duc, Nguyen Van Tri, Ngo Tich Linh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 2 - 2012: 106 - 113


Introduction: Today, insomnia has been acknowledged as one of the causes affecting the health and quality
of life of the elderly. To determine what is enough sleep, quality of sleep means to have sufficient quantity, be less
awaken, dreaming and be efficient which is less daytime sleepiness and effective daytime activities. The objective of
this study is to investigate the sleep characteristics of the elderly.
Research methodology: A cross-sectional study. There are 306 patients in the study divided into two
groups: insomnia (161) and control group (145). The participants were equally under full investigation of the
epidemiological characteristics, other medical conditions, mental, environmental factors, personal habits and
characteristics of their sleep.
Results: Chronic insomnia is mostly from 1 to 5 years. Quality of the sleep: the majority is difficult to
* BV Nguyễn Tri Phương,** Bộ Môn Lão Khoa, ĐHYD TP. HCM,*** Bộ Môn Tâm Thần, ĐHYD TP.HCM
Tác giả liên lạc: BS Đỗ Thị Xuân Hương

106

ĐT: 0903883573

Email:

Chuyên Đề Lão Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012

Nghiên cứu Y học

maintain sleep, the next is insomnia at the beginning of the sleep and insomnia in the end of the sleep is at least,
the patients averagely go to bed at 22 o'clock, take about 75 minutes before falling asleep, awake 3-4 times a night,
then take 30 minutes to be back to sleep, wake up in the morning at around 4 am and have the duration of sleep
per night of 4 hours and 30 minutes on average. - Sleep efficiency: Although insomnia happens, 82.6% of them
feel normal, only 16.8% also feel sleepy after waking in the morning, 26.7% have times falling asleep during the

day and 17.4% have difficulty in dealing with the daily affair because of insomnia. Conclusion: In most elderly
people, chronic insomnia happens at majority, although there is insomnia, most of them feel normal, only small
number also feel sleepy after waking in the morning, sometimes day-time fall asleep and feel difficult in their daily
work because of the consequences of insomnia.
Key words: insomnia, elderly.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Giấc ngủ là trạng thái sinh lý của cơ thể
nhằm cân bằng trở lại các yếu tố nội sinh và
ngoại sinh. Giấc ngủ có đặc trưng là nhịp điệu
ngày/ đêm, đảm bảo cho sự phục hồi các chức
năng của cơ thể. Hầu hết những người cao tuổi
khi đến phòng khám bệnh đều phàn nàn với bác
sỹ họ bị khó ngủ hoặc mất ngủ. Ngày nay,
chứng mất ngủ đã được thừa nhận là một trong
những nguyên nhân gây ảnh hưởng đến sức
khỏe cũng như chất lượng sống của người cao
tuổi.
Để xác định thế nào là ngủ đủ, giấc ngủ phải
đạt chất lượng tức là đủ về số lượng, ít bị thức
giấc và mộng mị và phải đạt hiệu suất tức là ít
buồn ngủ ban ngày đồng thời hoạt động ban
ngày có hiệu quả

Mục tiêu
Mục tiêu bài này nghiên cứu về đặc điểm
giấc ngủ của người cao tuổi bị mất ngủ.

ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu

Dân số mục tiêu
Tất cả bệnh nhân cao tuổi ≥ 60 tuổi có mất
ngủ và không mất ngủ đến khám và điều trị nội
ngoại trú tại BV Thống Nhất và BV Nguyễn Tri
Phương từ tháng 5 năm 2009 đến tháng 5 năm
2010 vì những nguyên nhân khác nhau.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Nhóm bệnh: Tất cả bệnh nhân cao tuổi (≥ 60
tuổi) có vấn đề về mất ngủ đồng ý tham gia
nghiên cứu:

Chuyên Đề Lão Khoa

Thời gian đi vào giấc ngủ kéo dài trên 30
phút.
Trong giấc ngủ, thời gian tỉnh giấc nhiều
lần, thời gian tổng cộng trên 30 phút.
Thức dậy buổi sáng quá sớm.
Cảm giác mệt mỏi sau khi thức dậy và ngủ
ngày quá nhiều.
Những rối loạn nầy xảy ra ít nhất 3 lần trong
1 tuần, kéo dài ít nhất 1 tháng, gây ra những khó
chịu và biến chứng trong ngày.
Khó duy trì tình trạng thức ngủ hay chu kỳ
thức ngủ hằng định.
Có các vấn đề khác gây cản trở giấc ngủ.
Nhóm chứng: Tất cả bệnh nhân cao tuổi (≥
60 tuổi) có vấn đề về nội khoa, tâm thần...đến
BV khám và điều trị nhưng không bị mất ngủ.


Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân có rối loạn tri giác hoặc hôn mê.
Bệnh nhân bệnh tâm thần thuộc nhóm loạn
thần đã được chẩn đoán xác định trước đó và
đang điều trị.

Cỡ mẫu
Được tính theo công thức sau:



Z1/2

n

2



2P1 1P1   Z P1 1P1   P2 1P2  
1



 P1 P2 

2

n = 121 người cho mỗi nhóm bệnh và chứng. Thực tế
chúng tôi thu thập được 161 BN nhóm mất ngủ và 145

BN nhóm chứng.

Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu

107


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012

Nghiên cứu Y học

Nghiên cứu cắt ngang mô tả có đối chứng.

Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Trực tiếp thu thập dữ liệu từ bệnh nhân đến
khám tại Khoa Khám bệnh, Khoa Lão, các Khoa
Nội Tổng hợp BV Nguyễn Tri Phương và BV
Thống Nhất với các tiêu chuẩn chọn bệnh và các
tiêu chuẩn loại trừ nêu trên.
Các BN được chọn vào mẫu nghiên cứu sẽ
được:
* Khám lâm sàng đánh giá tình trạng mất
ngủ và không mất ngủ.
* Thực hiện bảng câu hỏi khảo sát về RLGN
và các thang điểm đánh giá tình trạng tâm thần
Hạn chế của nghiên cứu này là không thực
hiện được đồng loạt các test chuyên biệt về giấc
ngủ như đa miên đồ (PSG), test ghi nhận thời
gian tiềm khởi đầu giấc ngủ (MSLT) để xác định

chẩn đoán và mức độ nghiêm trọng của RLGN.
Sau đó nhóm BN này được tiếp tục tái khám
và theo dỏi ít nhất 2 lần sau đó để xác định tình
trạng mất ngủ.

Công cụ thu thập số liệu
* Bảng câu hỏi khảo sát về RLGN.

Xử lý số liệu bằng phần mềm thống kê SPSS
13.0 for Windows.

KẾT QUẢ
Đặc điểm về giấc ngủ
Thời gian mất ngủ
Bảng 1: Thời gian mất ngủ
Tỷ lệ %
14,9
53,4
31,1
100

Đặc điểm về kiểu mất ngủ (nhóm mất ngủ)
Bảng 2: Đặc điểm về kiểu mất ngủ (nhóm mất ngủ)
Đặc điểm về kiểu mất ngủ

108

Bảng 3. Số loại mất ngủ trên cùng một bệnh nhân
Số loại mất ngủ
1 loại

2 loại
3 loại
Tổng cộng

BN
15
69
77
161

Tỷ lệ %
9,3
42,9
47,8
100

Đặc điểm về chất lượng và hiệu suất giấc
ngủ
Bảng 4. Chất lượng giấc ngủ
Thời gian

Nhóm NC

Nhóm
chứng

P

22,03 
21,17  < 0,001

1,06
0,95
Đi ngủ cùng thời điểm hàng 99 (60,4%) 65 (39,6%) 0,004
đêm
Thời gian đi vào giấc ngủ
74,81 
13,34  < 0,001
(phút)
47,55
3,01
Số lần thức dậy mỗi tối 3,51  1,41 1,70  0,45 < 0,001
Dễ ngủ lại
21 (13,4) 141 (97,2) < 0,001
29,71  7,96  3,84 < 0,001
Thời gian đi ngủ lại (phút)
13,24
Thời điểm thức giấc buổi 4,19  0,99 5,37  0,49 < 0,001
sáng (giờ)
Thời gian trung bình của 3,98  0,77 6,41  0,53 < 0,001
giấc ngủ/1 đêm
Thời điểm đi ngủ

Thời gian

Phương pháp xử lý số liệu

BN
24
86
50

160

161 (100)
133 (82,6)
140 (87,0)
111 (68,9)

Bảng 5: Hiệu suất giấc ngủ

* Thang buồn ngủ EPWORTH.

Thời gian mất ngủ
Dưới 1 năm
1 năm – 5 năm
Trên 5 năm
Tổng cộng

Thời gian ngủ đêm < 6 giờ
Mất ngủ đầu giấc (thời gian vào giấc ngủ > 30’)
Khó duy trì giấc ngủ (hay thức lúc ngủ)
Mất ngủ cuối giấc (Thức giấc sớm buổi sáng)

Tỉ lệ (%)

Cảm giác khi thức dậy buổi
sáng:
- Khỏe
- Còn buồn ngủ
- Bình thường
Các rối loạn khác trong giấc

ngủ:
- Mộng du
- Hoảng sợ ban đêm
- Ác mộng
- Rung giật cơ về đêm
Ngủ thiếp ban ngày
Mất tập trung làm việc
Khó khăn trong công việc
hàng ngày

Nhóm
NC % Chứng %

P

1 (0,6)
1 (0,7) < 0,001
27 (16,8) 4 (2,8)
133 (82,6) 140 (96,6)

0
3 (1,9)
12 (7,5)
2 (1,2)
43 (26,7)
18(11,3)
28 (17,4)

1 (0,7)
0

0
0
7 (4,8)
3(2,1)
6 (4,1)

0,291
0,099
0,001
0,178
< 0,001
0,002
< 0,001

Bảng 6: Buồn ngủ ban ngày (Thang EPWORTH)
Buồn ngủ
ban ngày

Nhóm NC
BN
Tỷ lệ %

Nhóm chứng
BN
Tỷ lệ %

Chuyên Đề Lão Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012

Không

Tổng

133
27
161

83,1
16,9
100,0

130
15
145

89,7
10,3
100,0

2 = 2,732, p = 0,098

Bảng 7: Mối liên quan giữa BMI và mất ngủ
BMI
Béo phì
Bình thường

Nhóm
NC (%) Chứng
(%)

21 (13) 34 (23,4)
111
140 (87)
(76,6)

p

OR
(95%KTC)

0,018

0,49
(0,27-0,9)

Bảng 8: Mối liên quan giữa BMI và ngủ ngày quá độ
BMI
Béo phì
Bình thường

Ngủ ngày quá độ
Không% Có %
42(16)
13(31)
221(84) 29(69)

p

OR
(95%KTC)


0,019

0,424.(0,2
0-0,88)

Những rối loạn xảy ra trong lúc ngủ
Bảng 9: Các rối loạn trong lúc ngủ
Nhóm
OR
P
NC
Chứng
(95%KTC)
38
1,09 (0,66 Ngáy
45 (28,0)
0,732
(26,2)
1,81)
1,92 (1,72 –
Ngưng thở
3 (1,9)
0
0,099
2,14)
4,094 (2,15 –
Ngộp thở
49 (30,4) 14 (9,7) < 0,001
7,81)

Nhức đầu buổi
25,94 (7,91 –
57 (35,4) 3 (2,1) < 0,001
sáng
85,12)
Khó khăn về tình
1,92 (1,72 –
3 (1,9)
0
0,099
dục
2,14)
130
117,42 (44,32
Tiểu đêm > 2 lần
5 (3,4) < 0,001
(80,7)
– 311,07)
133
16
38,29 (19,79
Xoay trở nhiều
< 0,001
(82,6) (11,0)
– 74,12)
109
57
3,24 (2,02 –
Tê rần hai chân
< 0,001

(67,7) (39,3)
5,17)
1,63 (0,75 –
Đá chân
19 (11,8) 11 (7,6) 0,216
3,55)
CG không cử
30
0,64 (0,35 –
23 (14,3)
0,139
động được
(20,7)
1,16)
CG nóng rát
119
23
15,03 (8,52 –
< 0,001
thượng vị
(73,9) (15,9)
26,51)
108
52
3,64 (2,27 –
CG đau
< 0,001
(67,1) (35,9)
5,84)
Ảo giác, chiêm

21
0,65 (0,33 –
16 (9,9)
0,223
bao
(14,5)
1,30)
Rối loạn

Khám và điều trị mất ngủ
Bảng 10: Nguyên nhân đến khám vì mất ngủ (nhóm
mất ngủ)
Đặc điểm

Chuyên Đề Lão Khoa



Không

Nghiên cứu Y học

N (%)
Đến khám vì mất ngủ
32 (19,9)
Đã khám chuyên khoa về rối loạn 8 (5,0)
giấc ngủ

N (%)
129 (80,1)

153 (95,0)

Bảng 11: Số bệnh nhân có điều trị mất ngủ (nhóm
mất ngủ)
Đặc điểm
Điều trị mất ngủ
Sử dụng thuốc ngủ liên tục

Có N (%)
44 (27,3)
24 (15,0)

Không N (%)
117 (72,7)
136 (85,0)

BÀN LUẬN-KẾT LUẬN
Đặc điểm về giấc ngủ
Thời gian bị mất ngủ
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhóm bệnh
nhân mất ngủ từ 1 năm đến 5 năm 53,4% chiếm
tỷ lệ cao nhất, mất ngủ dưới 1 năm chỉ chiếm
14,9% và mất ngủ trên 5 năm chiếm tỷ lệ không
nhỏ 31,1%. Thời gian mất ngủ ít nhất là 2 tháng
và dài nhất là 20 năm.
Thời gian này cũng tương tự các báo cáo
nghiên cứu khác:
Nghiên cứu của F. Holagen & cs(4)
(Germany) hơn 80% số bệnh nhân trong lô
nghiên cứu bị mất ngủ từ 1 đến 5 năm hoặc hơn

nữa.
Nghiên cứu của Pearson NJ & cs(13) (Mỹ) có
17,4% mất ngủ kéo dài 1 năm.
Nghiên cứu của Morrin CM & cs(11) (Canada)
có đến 74% mất ngủ ít nhất 1 năm, 46% mất ngủ
kéo dài dai dẳng 3 năm.

Đặc điểm về kiểu mất ngủ (nhóm mất ngủ)
Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi, tất
cả đều có thời gian ngủ một đêm ít hơn 6
giờ.Mô hình kiểu mất ngủ, các bệnh nhân có
kiểu mất ngủ đầu giấc (82,6%), cao nhất là
khó duy trì giấc ngủ (87%) và thấp nhất là mất
ngủ cuối giấc (68,9%).
So sánh với các nghiên cứu khác
Mô hình này tương tự mô hình nghiên cứu
của Kim K & cs(6) (Nhật) tỉ lệ khó duy trì giấc
ngủ cao nhất (15%), kế đến là khó đi vào giấc
ngủ (8,3%) và thấp nhất là khó ngủ cuối giấc
(8%).

109


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012

Nghiên cứu của Gílason T & cs(3), tỉ lệ khó
duy trì giấc ngủ cao nhất (37% ở nam, 30% ở

nữ), khó khởi đầu giấc ngủ 9,6% và khó ngủ
cuối giấc 16,7%.
Nghiên cứu của Ohayon MM, Hong SC(12),
khó khởi đầu giấc ngủ (4%) khó duy trì giấc ngủ
(11,5%), và mất ngủ cuối giấc 1,8%.
Nghiên cứu của Li RH ở Trung Quốc(8)
cũng cho kết quả tương tự là khó khởi đầu
giấc ngủ 4,5%, khó duy trì giấc ngủ 6,9% và
mất ngủ cuối giấc 4%.
Nghiên cứu của Yu –Tao Xiang & cs
Trung quốc các con số tương ứng là 7%, 8% và
4,9%.
(16)

Ngược lại, trong nghiên cứu của
Mohamed M & cs(10) ở người cao tuổi Ai Cập
thì tỉ lệ khó bắt đầu giấc ngủ chiếm cao nhất
65%, khó duy trì giấc ngủ 50,8% và mất ngủ
cuối giấc chỉ chiếm 28,2%.
Qua các nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy
rằng ở Việt Nam cũng như ở các nước Châu Á
đa số bệnh nhân bị khó duy trì giấc ngủ, tiếp
đến là khó khởi đầu giấc ngủ và ít nhất là mất
ngủ cuối giấc.
Nhận xét này cũng giúp các Bác sỹ lâm sàng
có cơ sở chọn loại thuốc ngủ nào phù hợp với
loại mất ngủ của bệnh nhân của mình.

Số loại mất ngủ trên một bệnh nhân
Trong nghiên cứu của chúng tôi có đến

47,8% bệnh nhân mất ngủ bị cùng lúc 3 loại mất
ngủ (mất ngủ đầu giấc, khó duy trì giấc ngủ,
mất ngủ cuối giấc), 42,9% bị 2 loại mất ngủ cùng
lúc và chỉ 9,3% bị 1 loại mất ngủ.
So sánh với các nghiên cứu khác
Trong một nghiên cứu về mất ngủ ở dân số
chung Trung Quốc của Yu- Tao Xiang & cs(16) thì
cũng cho một tỷ lệ tương ứng theo thứ tự nhưng
con số thì thấp hơn 4% bị 3 loại mất ngủ cùng
lúc, 2,9% bị 2 loại và 2,4% bị 1 loại mất ngủ. Tỷ
lệ thấp này là do mẫu nghiên cứu của chúng tôi
là người cao tuổi, lấy trong bệnh viện, còn mẫu
nghiên cứu của Yu- Tao Xiang là dân số chung.

110

Ngược lại, trong một nghiên cứu ở Mỹ(16), tỷ
lệ có phần khác biệt về thứ tự so với nghiên cứu
của chúng tôi và Yu- Tao Xiang là 7,4% mắc 3
loại, 9% mắc 2 loại mất ngủ cùng lúc và cao nhất
12,8% mắc chỉ 1 loại mất ngủ. Tỷ lệ này trái
ngược với các nước Châu Á có lẽ do ở Mỹ người
dân quan tâm đến giấc ngủ nhiều hơn không để
mất ngủ tiến triển từ 1 đến 2 đến 3 loại cùng lúc.
Qua nghiên cứu này, ta thấy ở người cao
tuổi khả năng mắc cùng lúc 3 loại và 2 loại mất
ngủ rất cao, tỷ lệ mắc 1 loại mất ngủ đơn độc ít
hơn nhiều, từ đó có những biện pháp can thiệp
và thuốc ngủ phù hợp.


Đặc điểm về chất lượng và hiệu suất giấc
ngủ
Chất lượng giấc ngủ
Trong nghiên cứu của chúng tôi:
Về chất lượng giấc ngủ, trong nhóm mất
ngủ trung bình đi ngủ lúc 22 giờ, 60% trong số
họ đi ngủ cùng thời điểm hàng đêm, phải mất
khoảng 75 phút mới ngủ được, trung bình mỗi
đêm thức dậy 3-4 lần, sau khi thức giấc khoảng
30 phút sau mới ngủ lại được, thức dậy buổi
sáng khá sớm lúc 4 giờ và tính trung bình mỗi
đêm ngủ được 4 giờ - 4 giờ 30 phút.
Sự khác biệt giữa hai nhóm có ý nghĩa thống
kê p < 0,001.

So sánh với các nghiên cứu khác
Nghiên cứu của Liu X, Liu L(9) về các thói
quen khi đi ngủ và mất ngủ ở người cao tuổi
Trung Quốc đã nhận xét rằng thời điểm đi ngủ
(lên giường ngủ) của họ là 21: 18 ± 2,2 sớm hơn
so với nghiên cứu của chúng tôi 22: 03±1,06 và
thời điểm thức dậy buổi sáng là 5: 42 ± 1 trễ hơn
so với nghiên cứu của chúng tôi là 4: 19±0,99.

Hiệu suất giấc ngủ
Trong nghiên cứu của chúng tôi
Về hiệu suất ngủ, trong nhóm mất ngủ đa số
(82,6%) có cảm giác bình thường sau khi thức

Chuyên Đề Lão Khoa



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
dậy buổi sáng, chỉ 16,8% còn cảm giác buồn
ngủ; 26,7% có ngủ thiếp ban ngày, 11,3% bị mất
tập trung khi làm việc và 17,4% gặp khó khăn
trong công việc hàng ngày.
Các rối loạn xảy ra trong giấc ngủ chiếm tỷ
lệ tương đối nhỏ: mộng du 0%, hoảng sợ 1,9%,
ác mộng 7,5%, rung giật cơ về đêm 1,2%.
Sự khác biệt giữa hai nhóm có ý nghĩa thống
kê p< 0,001 ở các điểm trên, trừ hoảng sợ và
rung giật cơ về đêm.

So sánh với nghiên cứu của các tác giả khác
Nghiên của Gíslason T & cs(3) tỉ lệ ngủ thiếp
ban ngày là 50% ở nam và 31% ở nữ. Tương tự,
nghiên cứu của Ohayon MM, Hong SC(12) tỉ lệ
này là 50%. Tỉ lệ này thấp hơn trong nghiên cứu
của Liu X, Liu L(9) ở Trung Quốc là 44,2% ở nam
và 28% ở nữ (OR=1,5) và cũng nghiên cứu này
ghi nhận 8,9% những bệnh nhân mất ngủ có
những hậu quả ban ngày đáng kể.
Nghiên cứu của Foley DJ & cs(2) 7%-15%
trong số bệnh nhân mất ngủ hiếm khi hoặc
không bao giờ có cảm giác khỏe khoắn sau thức
dậy vào buổi sáng.
Nghiên của Kim K & cs(7) ghi nhận những
than phiền về tâm thể và tâm lý có liên quan
với mất ngủ gây khó khăn cho công việc ban

ngày: cảm giác yếu đuối (fatigue) (31,4%,
OR=1,7), cáu gắt (OR=1,4), mất tập trung trong
công việc (OR=1,8).

Nghiên cứu Y học

giảm chất lượng sống. Ngoài ra, mất ngủ còn có
nguy cơ phát sinh một số bệnh hoặc làm nặng
thêm bệnh đang mắc.

Thang EPWORTH.
Mối liên quan giữa mất ngủ và thang
EPWORTH.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, không có
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về buồn ngủ
ban ngày quá độ giữa 2 nhóm mất ngủ (16,9%)
và nhóm chứng (10,3%) với p=0,098.
So sánh với các nghiên cứu khác
Nhưng nếu tính tỉ lệ thì trong một nghiên
cứu ở Malaysia của ZailinawaitiA, Ariff K,
Nurjahan M, Teng C(16) tỉ lệ ngủ ngày quá độ
(theo thang điểm Epworth) là 22,2% cao hơn
trong nghiên cứu của chúng tôi (16,9%), lý do có
lẽ do trong nhóm này sử dụng thuốc an thần
(9,9%) thấp hơn trong nhóm của chúng tôi
(27,3%), điều này dẫn đến mất ngủ ban đêm và
ngủ ngày quá nhiều.
Ngược lại, trong nghiên cứu của Sardar Ijlal
Balar & cs(15) thì tỉ lệ ngủ ngày quá độ là 8,9%
thấp hơn trong nghiên cứu của chúng tôi và

hiện tượng này được ghi nhận có liên quan đến
rối loạn hô hấp về đêm, trầm cảm, bệnh
Parkinson và sử dụng Digital.
Một nghiên cứu về ngủ ngày quá độ trong
dân số chung của Kaneita Y & cs(5) (Nhật) đã

Nghiên cứu của Ohayon MM, Hong SC(12) có
đến 50% bệnh nhân mất ngủ có hậu quả ban
ngày đáng kể và 20% có những hậu quả trung
bình và nhẹ.

đưa ra một kết quả là tỉ lệ này chiếm 2,5% (nam

Nghiên cứu của Zailinawati A & cs ghi
nhận rằng những bệnh nhân mất ngủ có tần
suất cao cảm giác chán nản (12,7%), mất tập
trung (19,1%), trí nhớ kém (9,2%), giảm năng
suất làm việc (6,4%), kiệt sức (17,2%) và tình
trạng sức khỏe kém (40,9%) với p<0,05.

và đặc biệt là ngáy hoặc ngưng thở khi ngủ là

(16)

Mất ngủ kéo dài sẽ dẫn đến giảm trí nhớ,
khó tập trung chú ý, giảm sút khả năng lao
động và hậu quả tất yếu là giảm tính tích cực
trong cuộc sống, hiệu quả lao động thấp và làm

Chuyên Đề Lão Khoa


2,8%, nữ 2,2%) và có sự liên quan với những yếu
tố nguy cơ như: giới nam, tuổi trẻ, thời gian ngủ
ngắn, cảm giác bứt rứt 2 chân, căng thẳng tâm lý
yếu tố liên quan mạnh nhất (OR=2,46).

Mối liên quan giữa BMI với mất ngủ và thang
EPWORTH.
Có mối liên quan giữa BMI với mất ngủ
(p=0,018) và ngủ ngày quá độ (p=0,019).
Theo nghiên cứu của Resta O & cs(1) (Italy),
29% các bệnh nhân béo phì cho thấy có giảm
thông khí về đêm và có thể kết hợp với ngủ

111


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012

ngày quá nhiều, ngay cả trong trường hợp
không có ngưng thở khi ngủ.

Những rối loạn xẩy ra trong lúc ngủ
Sự khác biệt tỷ lệ các triệu chứng ngộp thở,
nhức đầu buổi sáng, tiểu đêm >2 lần, xoay trở
nhiều, tê rần hai chân, cảm giác nóng rát thượng
vị và cảm giác đau của cơ thể giữa hai nhóm
nghiên cứu có ý nghĩa thống kê p<0,001.


So sánh với các nghiên cứu khác
Nghiên cứu của Su TP & cs có sự tương
quan mạnh giửa mất ngủ với tiểu đêm (>2 lần)
(OR=20,6), cũng như với cảm giác đau của cơ thể
(OR=2,6).

Khám và điều trị mất ngủ
Trong nghiên cứu của chúng tôi các lí do
nhập viện rất đa dạng trong nhóm mất ngủ
nhưng lí do đến khám vì mất ngủ chỉ chiếm
19,9% và chỉ có 5% trước đó đã có khám chuyên
khoa về RLGN.

So sánh với các nghiên cứu khác
Kết quả này tương đối cao hơn so với một
nghiên cứu về chứng mất ngủ ở Trung Quốc
của Yu-tao Xiang, MD, PhD(16) chỉ có 5,4%
những bệnh nhân bị mất ngủ báo cáo triệu
chứng này với Bác sỹ thực hành và cũng chỉ có
2,1% đến khám với các chuyên gia về sức khỏe
tâm thần. Tỉ lệ này cũng rất thấp trong nghiên
cứu của Ohayon MM(12) là 6,8%.
Trong một nghiên cứu ở Mỹ của PersonNJ,
Johnson LL, Nahin RL(13) thì tỉ lệ báo cáo về
chứng mất ngủ với Bác sỹ là 17,4%, tương
đương với nghiên cứu của chúng tôi.
Theo một nghiên cứu được công bố ở tạp chí
Lão khoa của Mỹ thực hiện trên 1.503 người
bệnh từ 60 tuổi trở lên thì có đến 69% bệnh nhân

có ít nhất một lần, 49% có hai hoặc nhiều hơn số
lần phàn nàn về giấc ngủ và 45% số bệnh nhân
nói rằng họ thường xuyên khó ngủ. Và mặc dù
những bệnh nhân cao tuổi có phiền toái về giấc
ngủ chiếm tỷ lệ cao nhưng chỉ có 19% số lần
phàn nàn của họ được các Bác Sỹ ghi chép trên
biểu đồ theo dõi bệnh. Theo tác giả Karthyn
Reid, phó giáo sư Thần kinh trường đại học y ở

112

miền bắc Feinberg nói:“Các Bác sỹ có thể cho
rằng việc hỏi bệnh nhân về giấc ngủ là điều
không cần thiết, theo họ những trục trặc đó là
vấn đề bình thường của tuổi tác và gần như
không thể làm gì nhiều để cải thiện”. Nhưng
thực tế thì những vấn đề về giấc ngủ như giấc
ngủ không sâu- khuynh hướng xảy ra do tuổi
tác hay giấc ngủ không ngon không phải là điều
không thể tránh được của tuổi tác. Kết quả
nghiên cứu gần đây cho thấy trong số những
người già có sức khỏe tốt, chỉ có 1% có khó khăn
về giấc ngủ.
Theo chúng tôi, tỷ lệ BN mất ngủ quan tâm
và điều trị những vấn đề về rối loạn giấc ngủ ở
nước ta cũng như ở các nước Châu Á thấp có
thể do các lý do sau:
Thứ nhất: bệnh nhân thường có quan niệm
mất ngủ là một hiện tượng bình thường xảy ra
tất yếu ở người cao tuổi nên họ không quan

tâm khám và điều trị như là những vấn đề
bệnh lý khác.
Thứ hai: các phòng khám chuyên khoa về
giấc ngủ còn quá ít, bản thân bệnh nhân và
người thân có muốn khám, tư vấn và điều trị
cũng không biết nơi nào.
Thứ ba: các BS lâm sàng ít quan tâm hỏi về
giấc ngủ của bệnh nhân, có khi lại thoải mái cho
bệnh nhân một viên thuốc ngủ buổi tối để ngủ
ngon hơn mặc dù họ không bị mất ngủ.

Sự quan tâm của bệnh nhân đến việc điều trị
mất ngủ
Trong nghiên cứu của chúng tôi thì ở
nhóm BN mất ngủ chỉ có 27,3% là có điều trị
và 15% có sử dụng thuốc ngủ liên tục.

KẾT LUẬN
Ở người cao tuổi: Mất ngủ mãn tính, đa số
từ 1 đến 5 năm.
Chất lượng giấc ngủ: đa số là khó duy trì
giấc ngủ, tiếp đến là mất ngủ đầu giấc và ít nhất
là mất ngủ cuối giấc, trung bình bệnh nhân đi
ngủ lúc 22 giờ, phải mất trung bình 75 phút mới
đi vào giấc ngủ, thức giấc 3-4 lần một đêm, sau

Chuyên Đề Lão Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012

thức 30 phút mới ngủ lại được, sáng thức dậy
khoảng 4 giờ sáng và trung bình một đêm trung
bình ngủ được 4 giờ 30 phút.
Hiệu suất ngủ: tuy mất ngủ nhưng 82,6%
trong số họ cảm giác bình thường, chỉ 16,8%
cảm giác còn buồn ngủ sau thức dậy buổi sáng,
26,7% có những lúc ngủ thiếp ban ngày và
17,4% gặp khó khăn trong công việc hàng ngày
vì hậu quả của mất ngủ.

7.

8.

9.

10.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

5.

6.


Babar IS, Enright PL, et al (2000), “Sleep Disturbances and their
correlates in elderly Japanese American Men residing in
Hawaii”, The Journal of Gerontology series A: Biological
sciences and medical sciences 55:, The Gerontological Society of
America. M406-M411
Foley DJ, Monjan AA, Brown SL, Simonsick EM, Wallace RB,
Blazer DG. (1995), Sleep complaints among elderly persons: an
epidemiologic study of three communities.1995 Jul;18(6):425-32.
Gíslason T, Reynisdóttir H, Kristbjarnarson H, Benediktsdóttir
B.(1993), Sleep habits and sleep disturbances among the elderlyan epidemiological survey. J Intern Med, 1993 Jul;234(1):31-9.
Hohagen F, Kappler C, et al (1994), “Prevalence of insomnia in
elderly general practice attenders and the current treatment
modalities”, Abstract, Acception for publication, Digital Object
Identifier (DOI). pp.102-8
Kaneita Y, Ohida T, et al (2005), “Excessive daytime sleepiness
among the Japanese general population”, Department of Public
Heath, School of Medicine, Nihon University, Tokyo, Japan,
, J Epidemiol, 15(1): 1-8.
Kim K, Uchiyama M, et al (2000), “An epidemiological study of
insomnia among the Japanese general population”, Department
of psychophysiology, National institute of mental health NCNP,
Ichikawa-City, Chiba, Japan, Sleep, 23(1): 41-7.

Chuyên Đề Lão Khoa

11.

12.


13.

14.
15.

16.

Nghiên cứu Y học

Kim K, Uchiyama M, Liu X, et al (2001), “Somatic and
psychological complaints and their correlates with insomnia in
the Japanese general population”, Psychosom Med., 63(3): 441-6.
Li RH, Wing YK, et al (2002), “Gender differences I n insomnia-a
study in the Hong Kong Chinese population”, Department of
Psychiatry, Prince of Wales Hospital. The Chinese University of
Hong Kong, Shatin, Hong Kong, China, J Psychosom Res, 53(1):
601-9.
Mohamed M, et al (2007), “Insomnia symptoms and their
correlates among the elderly in geriatric homes in Alexandria,
Egypt”,
Journal
Sleep
and
Breathing,
Springer
Berlin/Heidelberg, Volum 11, No. 3, 187-194.
Morin CM, Bélanger L, LeBlanc M, et al (2009), “The natural
history of insomnia: a population-based 3-year longitudinal
study”, Arch Intern Med; 169(5): 447-53.
Ohayon MM, Hong SC (2002), “Prevalence of insommia and

associated factors in South Korea”, J Psychosom Res, 53(1):593600.
Pearson NJ, Johnson LL, Nahin RL (2006), “Insomnia, trouble
sleeping, and complementary and alternative medicine: Analysis
of the 2002 national health interview survey data”, Arch Intern
Med, 166(16): 1775-82.
Resta O, Foschino-Barbaro MP, Legari G, Talamo S, Bonfitto P,
Palumbo A, Minenna A, Giorgino R, De Pergola G (2001),
“Sleep-related breathing disorders, loud snoring and excessive
daytime sleepiness in obese subjects”, Int J Obes Relat Metab
Disord, 25(5):669-75.
The HealthDay. Bác sỹ ít khi chú ý đến giấc ngủ ở người già.
Cổng thông tin điện tử BV Bạch Mai-Hà nội.
Xiang YT, MD, PhD, Xin Ma MD, et al (2008), “The prevalence
of insomnia, its sociodemographic and clinical correlates, and
treatment in rural and urban regions of Beijing, China: A general
population-based survey”, Sleep, Vol. 31, No. 12: 1655-1662.
Zailinawati A, Ariff K, et al (2008), “Epidemiology of insomnia
in Malaysian adults: a community-based survey in 4 urban
areas”, International Medical University, Jalan, Kuala Lumpur,
Malaysia. , Asia Pac J Public Health, 20(3):
224-33.

113



×