Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Nghiên cứu giá trị điện tâm đồ bề mặt trong chẩn đoán vị trí đường dẫn truyền phụ vùng sau vách ở hội chứng Wolff-Parkison-White điển hình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.1 KB, 9 trang )

T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 1-2018

NGHIÊN CỨU GIÁ TRỊ ĐIỆN TÂM ĐỒ BỀ MẶT TRONG
CHẨN ĐOÁN VỊ TRÍ ĐƯỜNG DẪN TRUYỀN PHỤ VÙNG SAU VÁCH
Ở HỘI CHỨNG WOLFF-PARKINSON-WHITE ĐIỂN HÌNH
Chu Dũng Sĩ*; Phạm Quốc Khánh*; Trần Văn Đồng**
TÓM TẮT
Mục tiêu: nghiên cứu giá trị điện tâm đồ (ĐTĐ) bề mặt trong chẩn đoán vị trí đường dẫn
truyền phụ vùng sau vách ở hội chứng Wolff-Parkinson-White (WPW) điển hình. Đối tượng và
phương pháp: 42 BN hội chứng WPW điển hình có vị trí đường dẫn truyền phụ vùng sau vách
tại Viện Tim mạch Việt Nam, đối chiếu vị trí định khu bằng các thông số trên ĐTĐ bề mặt với vị
trí đường dẫn truyền phụ xác định bằng thăm dò điện sinh lý tim và điều trị bằng tần số radio
(RF). Kết quả: sóng delta âm ở V1 gặp ở đường dẫn truyền phụ sau vách bên phải với độ
chính xác 95,65% và độ nhạy/độ đặc hiệu cao trong khi sóng delta dương ở V1 gặp ở đường
dẫn truyền phụ sau vách bên trái với độ chính xác 89,74% và độ nhạy/độ đặc hiệu cao. Chuyển
tiếp phức bộ QRS ở V1V2 gặp ở đường dẫn truyền phụ vùng sau vách. Sóng delta âm ít nhất
2/3 chuyển đạo sau dưới thường gặp nhóm đường dẫn truyền phụ ở sau vách với độ chính xác
90,48%. Kết luận: sóng delta (-) hay (+) ở V1 dự báo vị trí đường dẫn truyền phụ bên phải hay
bên trái. Vùng sau vách thường có chuyển tiếp phức bộ QRS tại các chuyển đạo V1V2. Vùng
sau vách có sóng delta (-) ở ít nhất 2 trong 3 chuyển đạo sau dưới.
* Từ khóa: Hội chứng Wolff-Parkinson-White; Điện tâm đồ bề mặt; Đường dẫn truyền phụ
sau vách.

Surface ECG Localization of Posteroseptal Accessory Pathways
in Patients with Typical Wolff-Parkinson-White Syndrome
Summary
Objectives: To study value of surface electrocardiogram (surface ECG) localization of
posteroseptal accessory pathways in patients with typical Wolff-Parkinson-White (WPW)
syndrome. Subjects and methods: 42 patients with typical WPW syndrome had posteroseptal
accessory pathways (APs) at Vietnam Heart Institute and diagnostic the position of APs by the
surface ECG parameters were compared with the position of APs identified by RF. Results:


Negative delta wave in V1 found in 95.65% of the right side group with sensitive/specific
91.67% and 94.44%, respectively; while positive delta wave in V1 found 89.74% of the left side
group with sensitive/specific 94.44% and 91.67%, respectively. The QRS complex transition
in V1V2 met in 88.1% of the posteroseptal APs. The negative delta wave in at least 2/3
inferior leads of the posteroseptal APs accounted for 90.48% of cases. Conclusions: The
right or left side of posteriorseptal had negative or positive delta waves in V1 with high accuracy.
* Đại học Quốc gia Hà Nội
** Bệnh viện Bạch Mai
Người phản hồi (Corresponding): Chu Dũng Sĩ ()
Ngày nhận bài: 18/10/2017; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 10/12/2017
Ngày bài báo được đăng: 29/12/2017

64


T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 1-2018
The QRS complex transition in V1V2 is common in posteroseptal APs with high accuracy.
The negative delta waves in at least 2/3 inferior leads common in the posteroseptal APs with
high correction.
* Keyword: Wolff-Parkinson-White syndrome; ECG 12-lead; Posteroseptal accessory pathways.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Hội chứng Wolff-Parkinson-White (WPW)
là xung động từ nhĩ xuống thất không chỉ
đi qua nút nhĩ-thất mà còn đi theo một
đường dẫn truyền khác nối tắt từ nhĩ
xuống thất, còn gọi là đường dẫn truyền
phụ (hay là cầu Kent). Khi đó một bộ
phận của tâm thất sẽ khử cực sớm hơn
so với bình thường, tạo nên hình ảnh

ĐTĐ đặc trưng [1, 2, 3]. Vùng sau vách
(SV) có cấu trúc dạng một hình tam giác
giữa thất trái và thất phải, nên những
đường dẫn truyền phụ vùng SV có mức
độ tiền kích thích có thể ở dạng hỗn hợp
giữa trái và phải. Do đó, việc chẩn đoán vị
trí đường dẫn truyền phụ có thể sẽ khó
khăn hơn [4].
Việc chẩn đoán hội chứng WPW dựa
chủ yếu vào ĐTĐ thông thường [1, 3]. Thăm
dò điện sinh lý tim hiện nay được xem là
“tiêu chuẩn vàng” trong chẩn đoán các rối
loạn nhịp tim nói chung và hội chứng
WPW nói riêng. Thăm dò điện sinh lý tim
cho phép định khu chính xác và triệt đốt
đường dẫn truyền phụ bằng năng lượng
sóng RF [1, 3]. Nhiều nghiên cứu cho
thấy ĐTĐ bề mặt có thể giúp chẩn đoán
khá chính xác vị trí đường dẫn truyền phụ
trong hội chứng WPW thể điển hình [5, 6].
Cho đến nay, y văn trong nước chưa có
nhiều nghiên cứu hệ thống về vấn đề
này, đặc biệt là vùng SV. Vì vậy, chúng
tôi tiến hành nghiên cứu nhằm: Đánh giá
vai trò của ĐTĐ bề mặt trong chẩn đoán
vị trí đường dẫn truyền phụ vùng sau
vách ở hội chứng WPW điển hình.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU

1. Đối tượng nghiên cứu.
42 bệnh nhân (BN) có hội chứng WPW
điển hình được dự báo trước đó với kết
quả vị trí đường dẫn truyền phụ là SV (SV
bên phải và SV bên trái), đã được thăm
dò điện sinh lý tim và điều trị thành công
bằng RF tại Viện Tim mạch Quốc gia Việt
Nam trong năm 2014 - 2016.
2. Phương pháp nghiên cứu.
Nghiên cứu mô tả, tiến cứu. BN được
khám lâm sàng toàn diện, chi tiết trước
khi thăm dò điện sinh lý tim. Chẩn đoán
xác định hội chứng WPW bằng ĐTĐ bề
mặt: PR ngắn (< 120 ms), QRS giãn rộng
(≥ 110 ms), sóng delta trát đậm ở đầu
phức bộ QRS [1, 2].
Phân tích các thông số ĐTĐ bề mặt
gồm: khoảng thời gian PR và QRS,
đặc tính âm dương của sóng delta ở
12 chuyển đạo thông dụng, đặc điểm
chuyển tiếp của phức bộ QRS tại các
chuyển đạo trước tim.
Dự báo vị trí đường dẫn truyền phụ
sau vách bằng ĐTĐ bề mặt: chuyển tiếp
phức bộ QRS tại V1V2 dự báo vùng
vách, sóng delta (-) ở ít nhất 2/3 chuyển
đạo sau dưới dự báo vùng thành sau
(sau vách), còn SV bên trái hay bên phải
dự báo bằng sóng delta (+) hay (-) ở V1.
Vị trí chuyển tiếp phức bộ QRS: là vị trí

có dạng RS hoặc dạng Rs/rS, miễn là
đứng liền trước chuyển đạo trước tim đầu
tiên có xuất hiện sóng Q kể từ V1-V6 [2].
65


T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 1-2018
Tiêu chuẩn xác định vị trí vùng chuyển
tiếp trước tim: vùng chuyển tiếp trước tim
được xác định là chuyển đạo sớm nhất,
tại đó biên độ sóng R lớn hơn biên độ
sóng S (hay R/S > 1) [2].
Sóng delta/phức bộ QRS (+) hay (-):
trường hợp sóng delta/phức bộ QRS có
dạng 2 pha (+/-) hoặc (-/+), xác định sóng
delta/phức bộ QRS (+) hay (-) bằng tổng
đại số vector/biên độ của 2 pha [2].

Kỹ thuật triệt đốt đường dẫn truyền
phụ dựa trên việc đưa đầu ống thông đốt
tới tiếp xúc với một điểm trên vòng van
hai lá hoặc ba lá nơi có đường dẫn truyền
phụ đi qua. Dựa theo vị trí của dây thông
điện cực ở vị trí đốt thành công trên hình
ảnh X quang chụp tư thế chếch trước trái
300, chúng tôi xác định vị trí giải phẫu của
đường dẫn truyền phụ [2, 5]. Tiến hành
đối chiếu kết quả vị trí định khu đường
dẫn truyền phụ qua thăm dò và điều trị
thành công với dự báo vị trí ban đầu đã

đặt với thông số nêu trên, cho thấy có độ
chính xác khá cao.
Vị trí đường dẫn truyền phụ được xác
định và khẳng định bằng thăm dò điện
sinh lý tim và triệt đốt RF thành công
[1, 3]. Tiến hành đối chiếu hình ảnh ĐTĐ
bề mặt với vị trí đường dẫn truyền phụ
nhằm trả lời mục tiêu nghiên cứu đề ra.
Tất cả số liệu xử lý trên máy tính bằng
phần mềm IBM SPSS 21.0.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Đặc điểm chung của đối tượng
nghiên cứu.

Hình 1: Các điện cực trong buồng tim và
vị trí đích triệt đốt vị trí sau vách bên phải
(vòng tròn đỏ), tư thế nghiêng trái 30o .
(AVN: Nút nhĩ thất; Midseptal: Giữa
vách; VOFT: Đường ra thất phải; LCC: Lỗ
vành trái; RCC: lỗ vành phải; NCC: Lỗ đổ
vào nhánh mũ; Coronary sinus: Xoang
vành; Mitral valve: Van hai lá; Tricuspid
valve: Van 3 lá; Posteroseptal: SV; Right
posteroseptal: SVBP; Left posteroseptal:
SVBT [4])
66

Căn cứ vào kết quả thăm dò điện sinh
lý tim và điều trị đốt điện, BN trong nhóm
nghiên cứu đều có hội chứng WPW điển

hình với 1 đường dẫn truyền phụ. Phân
bố vị trí các đường dẫn truyền phụ gồm
23 đường dẫn truyền phụ sau vách bên
phải và 19 đường dẫn truyền phụ sau
vách bên trái.
- Độ tuổi trung bình 44,26 ± 14,68 (19 68), cho thấy đa số ở độ tuổi trung niên;
26 nam (61,9%) và 16 nữ (38,1%). Đặc
điểm về tuổi và giới của những BN này
phù hợp với nghiên cứu của các tác giả
trong và ngoài nước [6, 7, 8].


T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 1-2018
- Tần số tim lúc nhịp xoang của BN
trong điều kiện nghỉ ngơi trước khi thăm
dò điện sinh lý tim trong giới hạn bình
thường (76,31 ± 12,36 chu kỳ/phút)
[48/100]. Theo nhiều tác giả, ngoại trừ
các thời điểm có rối loạn nhịp (cơn tim
nhanh trên thất, cơn rung nhĩ…), không
thấy sự khác biệt về tần số tim lúc nghỉ ở
BN có hội chứng WPW so với người bình
thường [2].
Kết quả cho thấy, thời gian khoảng
QRS ở nhóm đường dẫn truyền phụ sau
vách bên phải rộng hơn đáng kể so với
sau vách bên trái (137,83 ± 12,53 ms so
với 131,37 ± 10,85 ms), p < 0,05. Thời
gian khoảng PR ở BN có đường dẫn
truyền phụ sau vách bên phải 93,30 ±

14,35 ms, ở nhóm vách bên trái 101,16 ±
9,55 ms, p < 0,05, phù hợp với nghiên
cứu của một số tác giả khác [6, 9]. Theo
các tác giả, đường dẫn truyền phụ bên
phải thường gây tiền kích thích thất nhiều
hơn so với đường dẫn truyền phụ bên
trái. Do khác biệt về giải phẫu, xung động
từ nhĩ phải sẽ được dẫn nhanh hơn qua
đường dẫn truyền phụ bên phải xuống
tâm thất so với đường dẫn truyền phụ
bên trái, khối lượng cơ tâm thất được khử

cực sớm hơn đường dẫn truyền phụ bên
phải. Hiện tượng này sẽ làm cho khoảng
PR có xu hướng ngắn hơn và khoảng
QRS có xu hướng dài hơn ở các đường
dẫn truyền phụ bên phải [2, 6, 9].
2. Đặc điểm ĐTĐ với vị trí đường
dẫn truyền phụ sau vách.
Trước khi tiến hành thủ thuật, dự báo
vị trí đường dẫn truyền phụ bằng ĐTĐ bề
mặt thông qua một số thông số: sóng
delta (-)/(+) ở các chuyển đạo V1 gợi ý
sau vách bên phải/sau vách bên trái,
sóng delta (+)/(-) ở ít nhất 2/3 chuyển đạo
sau dưới gợi ý đường dẫn truyền phụ
trước/sau vách, sự chuyển tiếp QRS tại
các CĐ trước tim V1V2 sẽ dự báo đường
dẫn truyền phụ vùng vách; sau đó đối
chiếu với kết quả vị trí đường dẫn truyền

phụ sau khi thăm dò điện sinh lý tim và
điều trị RF với kết quả dự báo ban đầu.
* Đặc điểm sóng delta ở chuyển đạo
V1 với các đường dẫn truyền phụ ở sau
vách bên phải hay sau vách bên trái:
Trước khi tiến hành thủ thuật, chúng
tôi dự báo vị trí đường dẫn truyền phụ
bên phải hay bên trái bằng sóng delta âm
hay dương ở V1.

Bảng1: Tỷ lệ sóng delta (-) hay (+) ở V1.
Sóng delta (-) hay (+) ở V1

Âm

Dương

Tổng cộng

Sau vách bên phải

22

1

23

Sau vách bên trái

2


17

19

24

18

n = 42

Vị trí đường dẫn truyền phụ

Cộng

22/23 BN (95,65%) sau vách bên phải
có sóng delta (-) ở V1 dự báo đường dẫn
truyền phụ ở bên phải. Trong khi đó,
nhóm sau vách bên trái có 17/19 BN

(89,74%) có sóng delta (+) ở V1 dự báo
đường dẫn truyền phụ bên trái. Độ nhạy
(Se) và độ đặc hiệu (Sp) tính theo bảng
2 x 2 trong chẩn đoán vị trí đường dẫn
67


T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 1-2018
truyền phụ nhóm bên phải là 91,67% và
94,44%; tương tự, nhóm bên trái, độ nhạy

94,44% và độ đặc hiệu 91,67%.
Theo một số tác giả, phân nhóm
đường dẫn truyền phụ bên phải như vùng
trước bên phải gặp delta có thể âm hay
đẳng điện ở V1. Vùng sau bên phải có
delta âm ở DIII và V1; QRS âm ở DIII và
V1. Vùng trước vách hay gặp delta
dương hoặc đẳng điện ở DIII, đẳng điện
ở V1. Còn ở một số phân nhóm đường
dẫn truyền phụ bên trái như: vùng sau
bên trái có sóng delta dương ở V1, âm ở
DIII; QRS âm ở DIII, dương ở V1. Vùng
thành bên bên trái có sóng delta dương ở
V1 [5]. Kết quả này phù hợp với một số
tác giả đã nghiên cứu [5, 7].

Điều này cho thấy, đặc điểm của sóng
delta ở V1 cho phép phân biệt độ chính
xác cao đường dẫn truyền phụ ở bên
phải (95,65%) hay trái (89,74%) với độ
nhạy/độ đặc hiệu 91,67% và 94,44%; sẽ
giúp cho bác sỹ tim mạch quyết định can
thiệp đưa ống thông đốt qua đường tĩnh
mạch hay động mạch.
* Đặc điểm sự chuyển tiếp phức bộ
QRS trên chuyển đạo trước tim với vị trí
đường dẫn truyền phụ sau vách:
Đối với đường dẫn truyền phụ ở vùng
vách, chúng tôi dự báo vị trí đường dẫn
truyền phụ dựa vào đặc điểm chuyển tiếp

phức bộ QRS tại chuyển đạo trước tim
V1V2.

Bảng 2: Đặc điểm chuyển tiếp phức bộ QRS tại các chuyển đạo trước tim.
Vị trí chuyển tiếp QRS

V1V2

Sau V1V2

Tổng cộng

19

4

23

18

1

19

37

5

n = 42


Vị trí đường dẫn truyền phụ
Sau vách bên phải
Sau vách bên trái
Cộng

Chuyển tiếp phức bộ QRS của trường
hợp đường dẫn truyền phụ ở vùng sau
vách tại 2 chuyển đạo V1V2 có 37/42 BN
(88,1%); trong đó đường dẫn truyền phụ
sau vách bên phải có chuyển tiếp ở V1V2
là 19/23 BN (82,61%), còn đường dẫn
truyền phụ sau vách bên trái 18/19 BN
(94,74%).
Kết quả nghiên cứu khá phù hợp với
một số tác giả khác: chuyển tiếp của phức
bộ QRS tại vùng vách xảy ra chủ yếu ở
V1V2 (ở V1 dạng rSv1, ở V2 dạng RSv2)
[5]. Vùng vách chuyển tiếp chủ yếu ở V1V2,
vùng trước vách đẳng điện ở V1, vùng
sau vách QRS dạng rS ở V1, Rs ở V2 [5].
68

Trong nghiên cứu, 5/42 BN (11,9%)
với 4 đường dẫn truyền phụ sau vách bên
phải và 1 sau vách bên trái ban đầu được
dự báo có thể là vùng vách hoặc vùng
thành bên do có sự chuyển tiếp QRS ở
giữa V2 và V3; chúng tôi vẫn dự báo nghi
ngờ vùng SV. Theo một số tác giả, vùng
vách bên phải có QRS chuyển tiếp giữa

V2 và V3 hoặc chuyển tiếp giữa V3 và V4
với sóng delta ở DII > 10 mm. Còn vùng
bên bên phải có QRS chuyển tiếp sau V4
hoặc QRS chuyển tiếp giữa V3 và V4 với
sóng delta ở DII < 10 mm [10].
Như vậy, căn cứ vào chuyển tiếp
QRS, có thể dự báo độ chính xác cao


T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 1-2018
đường dẫn truyền phụ là trong vùng vách
hay không phải vùng vách (thành bên).
Việc định khu này sẽ giúp bác sỹ định
hướng vị trí đích triệt đốt nhằm rút ngắn
thời gian làm thủ thuật cũng như thời gian
chiếu tia đối với người làm can thiệp và
người bệnh.

* Đặc điểm sóng delta ở chuyển đạo
vùng sau dưới (DII, DIII, AVF) với vị trí
đường dẫn truyền phụ sau vách:
Dự báo vị trí đường dẫn truyền phụ
sau vách dựa vào đặc điểm sóng delta (-)
ở ít nhất 2/3 chuyển đạo sau dưới sẽ gợi
ý vị trí đường dẫn truyền phụ sau vách.

Bảng 3: Đặc điểm sóng delta (-) hay (+) ở chuyển đạo sau dưới.
Sóng Delta ở chuyển đạo
sau dưới


Âm ít nhất 2/3
chuyển đạo sau dưới

Dương ít nhất 2/3
chuyển đạo sau dưới

Tổng
cộng

Sau vách bên phải

20

3

23

Sau vách bên trái

18

1

19

38

4

n = 42


Vị trí đường dẫn truyền phụ

Cộng

Vùng sau vách có sóng delta (-) ở
2/3 chuyển đạo sau dưới (38/42 BN =
90,48%); trong đó độ chính xác trong
chẩn đoán vị trí sau vách bên phải 20/23 BN
(86,96%) và sau vách bên trái 18/19 BN
(94,74%).

chóng, định khu vị trí đường dẫn truyền
phụ trên vòng van về phía sau. Do vậy,
tạo thuận lợi cho mapping và triệt đốt, rút
ngắn thời gian thủ thuật.

Kết quả này phù hợp với các tác giả
khác [5, 6, 9, 10]. Theo một số tác giả,
đường dẫn truyền phụ ở phía sau có
sóng delta âm ở các chuyển đạo sau
dưới [8].

Kỹ thuật triệt đốt đường dẫn truyền
phụ dựa trên việc đưa đầu ống thông đốt
tới tiếp xúc với một điểm trên vòng van
hai lá hoặc ba lá nơi có đường dẫn truyền
phụ đi qua [1, 2].

Do đó, dựa vào đặc điểm sóng delta (-)

ít nhất 2/3 chuyển đạo sau dưới sẽ giúp
dự báo đường dẫn truyền phụ ở thành
SV; Khi cả 3 chuyển đạo đều có sóng
delta (+) hay (-), việc phán đoán có thể
chính xác hơn. Chẩn đoán phân biệt
đường dẫn truyền phụ thuộc về thành SV
có thể giúp bác sỹ làm thủ thuật nhanh

Tiến hành thăm dò điện sinh lý tim và
điều trị RF cho những trường hợp này.
Trước khi can thiệp, chúng tôi dự báo
trước vị trí định khu đường dẫn truyền
phụ theo các thông số trên. Tỷ lệ triệt
đốt thành công đường dẫn truyền phụ
vùng SV là 100%. Đối chiếu vị trí định
khu vùng SV đã xác định bằng thăm dò

3. Thăm dò điện sinh lý học tim và
điều trị triệt bỏ đường phụ bằng RF.

69


T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 1-2018
và triệt đốt thành công với dự báo ban
đầu cho thấy độ chính xác cao, quá
trình thăm dò và triệt đốt đường dẫn
truyền phụ khá thuận lợi do đã định
hướng chính xác được vị trí của đường
dẫn truyền phụ, rút ngắn thời gian thủ


thuật trung bình cho mỗi BN 51,31 ±
26,64 phút cũng như thời gian chiếu tia
X quang trung bình cho mỗi BN 7,74 ±
5,25 phút, có những ca chỉ mất 2 phút
cho chiếu tia và trường hợp chiếu tia
nhiều nhất khoảng 20 phút.

Hình 1a: ĐTĐ 12 chuyển đạo sau vách bên phải.
(Lưu ý: có sóng delta (-) ở V1, chuyển tiếp QRS ở V2 (V1V2), sóng delta (-) ở
2/3 chuyển đạo sau dưới (DII, DIII, AVF)

Hình 1b: ĐTĐ 12 chuyển đạo sau vách bên trái.
(Lưu ý: có sóng delta (+) ở V1, chuyển QRS ở V1 (V1V2), sóng delta (-) ở 2/3 chuyển
đạo sau dưới (DII, DIII, AVF)
Khi thăm dò điện sinh lý tim, đối với
những đường dẫn truyền phụ sau vách ở
bên phải, việc lập bản đồ nội mạc xác
định vị trí đường dẫn truyền phụ được
tiến hành ở phía nhĩ của vòng van ba lá.
Tiếp cận vòng van ba lá bằng dây thông
điện cực đưa qua tĩnh mạch đùi lên tĩnh
mạch chủ dưới vào nhĩ phải. Đầu dây
thông điện cực được điều khiển uốn cong
để tỳ vào mặt trên của vòng van ba lá và
70

dò tìm vị trí đường dẫn truyền phụ [3].
Dựa theo vị trí của dây thông điện điện
cực ở vị trí đốt thành công trên hình ảnh

X quang chụp tư thế chếch trước trái 300,
chúng tôi xác định vị trí giải phẫu của
đường dẫn truyền phụ [1, 2, 3, 4].
Năm 1986, thế giới bắt đầu sử dụng
RF điều trị triệt bỏ thành công đường dẫn
truyền phụ nhĩ thất ở Hội chứng WPW.
Một số nghiên cứu về vị trí định khu


T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 1-2018
đường dẫn truyền phụ nhưng còn chưa
hệ thống hoặc trên cỡ mẫu nhỏ, việc dự
báo vị trí đường dẫn truyền phụ còn nhiều
khó khăn. Lemery (1992) cho thấy thời
gian thủ thuật và chiếu tia là 216 ± 90
phút và 66 ± 33 phút [7], Hugh Calkins
(1992) đánh giá thời gian thủ thuật, thời
gian chiếu tia X quang 134 ± 75 phút và
47 ± 33 phút [8].
Ở Việt Nam, mặc dù giai đoạn đầu mới
triển khai ứng dụng kỹ thuật này trong
điều trị hội chứng WPW, Trần Văn Đồng
cũng rút ra nhiều kinh nghiệm từ những
nghiên cứu trước, nên rút ngắn thời gian
làm thủ thuật và thời gian chiếu tia so với
nhiều tác giả trên thế giới (117,5 ± 56,8
phút và 23,2 ± 12,8 phút) (nhóm SV 99,8
± 48,0 phút và 23,2 ± 12,8 phút) [1].
Với phương pháp điều trị RF, thời gian
làm và thời gian chiếu tia phụ thuộc nhiều

vào trình độ, kỹ thuật của người làm thủ
thuật cũng như kinh nghiệm và chiến
lược trong điều trị RF, trong đó việc chẩn
đoán định khu vị trí đường dẫn truyền phụ
bằng ĐTĐ bề mặt ban đầu rất hữu ích [1].
So sánh với những nghiên cứu trước
cho thấy đã rút ngắn thời gian làm thủ
thuật cũng như thời gian chiếu tia X quang.
Điều đó thực sự có ích cho bác sỹ làm
can thiệp cũng như người bệnh.
Một số tác giả đã đưa ra khuyến cáo
nếu thời gian chiếu tia cho mỗi ca > 48
phút, 1 tuần không nên làm quá 4 ca, vì
có thể gây biến loạn nhiễm sắc thể [7, 11].
KẾT LUẬN
Giá trị chẩn đoán định khu đường dẫn
truyền phụ sau vách ở hội chứng WPW
điển hình bằng ĐTĐ bề mặt:

- Dự báo vị trí đường dẫn truyền phụ
vùng vách bên phải hay bên trái bằng
ĐTĐ bề mặt với sóng delta (-) hay (+) ở
V1: đường dẫn truyền phụ sau vách bên
phải thường có sóng delta (-) ở V1,
đường dẫn truyền phụ sau vách bên trái
thường có sóng delta (+) ở V1.
- Dự báo ĐTĐ bề mặt với các đường
dẫn truyền phụ nằm ở vùng vách: đường
dẫn truyền phụ vùng vách thường có
chuyển tiếp phức bộ QRS tại các chuyển

đạo V1-V2.
- Dự báo vị trí đường dẫn truyền phụ
bằng ĐTĐ bề mặt với đường dẫn truyền
phụ ở vùng sau vách: đường dẫn truyền
phụ thành sau (SV) thường có sóng delta
(-) ở ít nhất 2 trong 3 chuyển đạo sau
dưới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Văn Đồng. Nghiên cứu điện sinh lý
tim và điều trị hội chứng Wolff- ParkinsonWhite bằng năng lượng sóng có tần số radio.
Luận án Tiến sỹ Y học, Học viện Quân y.
2006.
2. Surawicz B et al. Chou’s Electrocardiography
in clinical practice: Adult and Pediaric. Elservier
Saunder. 2008.
3. Tarex B et al. Prospective validation of A
Sezer ECG algorithm for localization of
accessory pathways in patients with WolffParkinson-White syndrome. AAMJ. 2012, 10,
Supp l-2.
4. Macedo P.G, Bisco S.E, Asirvathm S.J.
Septal accessory pathway: Anatomy, causes
for difficulty, and an approach to ablation.
Indian Pacing Electrophysiol J. 2010, 10,
pp.292-309.

71


T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 1-2018
5. Lermery R, Stephen C.H, Douglas L.W

et al. Value of the resting 12 lead
electrocardiogram and vectorcardiogram for
locating the accessory pathway in patients
with the Wolff-Parkinson-White. Bristish Heart
Journal. 1987, No 58, pp.324-332.
6. Fananapazir L, German L.D, Gallagher
J.J et al. Importance of preexcited QRS
morphology during induced atrial fibrillation to
the diagnosis and localization of multiple
accessory pattway. Circulation Journal of the
American Heart Association. 1990, No 81,
pp.578-585.
7. Lemery R, Talajic M, Roy D et al.
Success, safety, and late electrophysiological
outcome of low-energy direct-current ablation
in patients with the Wolff-Parkinson-White
syndrome. Circulation Journal of the American
Heart Association. 1992, No 85, pp.957-962.

72

8. Calkins H, Langberg J, Sousa et al.
Radiofrequency catheter ablation atrioventricular
connections in 250 patients abbreviated
therapeutic approach to Wolff-Parkinson-White
syndrome. Circulation. 1992, 85, pp.1337-1346.
9. Liebman J, Zeno J.A, Olshansky B et al.
Electrocardiographic body surface potential
mapping in the Wolff-Parkinson-White syndrome.
Noninvasive determination of the ventricular

insertion sites of accessory atrioventricular
connections. Circulation. 1991, Mar, 83 (3),
pp.886-901.
10. Muhammad A.D, Shabbir H.S, Abdul
R.A et al. Localization of accessory pathways
according to AP Fitzpatrick ECG criteria in
patients with Wolff-Parkinson-White syndrome
in our population. Pakistan Heart Journal.
2008, 41.
11. Igor S. Electrophysiologic study. In
Igor Singer. Clinical Manual of Electrophysiology.
Williams & Wilkins, Baltimore. 1993, pp.52-58.



×