Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Đánh giá kết quả đặt catheter ổ bụng để thẩm phân phúc mạc trong điều trị bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.26 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

Nghiên cứu Y học

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐẶT CATHETER Ổ BỤNG ĐỂ THẨM PHÂN PHÚC 
MẠC TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN SUY THẬN MẠN  
GIAI ĐOẠN CUỐI 
Trần Vinh* 

TÓM TẮT 
Đặt vấn đề và mục tiêu: Đánh giá kết quả thực hiện kỹ thuật đặt catheter lọc màng bụng trong điều trị 
BN suy thận mạn giai đoạn cuối tại khoa ngoại bệnh viện Bạch mai từ 2004 ‐2010. Lựa chọn kỹ thuật thích hợp 
với điều kiện hiện tại.  
Đối  tượng:  Thời gian từ 13‐10‐2004 đến 14‐10‐2010 tại khoa ngoại bệnh viện Bạch mai chúng tôi thực 
hiện được 370 trường hợp là các BN với chẩn đoán suy thận mạn giai đoạn IIIb; IV. Được tiến hành đặt catheter 
Tenckhoff ổ bụng. Phương pháp nghiên cứu: tiến cứu mô tả không đối chứng.  
Kết quả: Kết quả sau mổ: Tỷ lệ BN theo dõi sau 5 năm đạt 86,76%. Theo phân loại: Tốt 218 BN (58,91%). 
Trung bình 19 BN (5,14%). Kém 133 BN (35,95%). Về lựa chọn kỹ thuật của phương pháp: Hoàn thiện kỹ 
thuật mổ mở để đặt catheter ổ bụng là một giải pháp hợp lý trong giai đoạn hiện nay. Có thể thực hiện được ở tất 
cả các bệnh viện có khoa ngoại tổng hợp. Không cần thiết phải cắt bỏ mạc nối lớn đối với cả hai kỹ thuật trên.  
Kết  luận: Đây là một kỹ thuật đơn giản, an  toàn  và  hiệu  quả.  Góp  phần  đáng  kể  trong  vấn  đề  điều  trị 
những bệnh nhân suy thận giai đoạn cuối. 
Từ khóa: thẩm phân phúc mạc, đặt catheter ổ bụng, suy thận mạn giai đoạn cuối 

ABSTRACT  
EVALUATING THE RESULTS OF ABDOMINAL CATHETER FOR PERITONEAL DIALYSIS IN 
THE TREATMENT OF PATIENTS WITH END‐STAGE RENAL FAILURE 
Tran Vinh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 147 ‐ 152 
Introduction  and  objective:  Evaluating  the  results  of  abdominal  catheter  for  peritoneal  dialysis  in  the 
treatment of patients with end‐stage renal failure. Select appropriate techniques for current conditions  
Patients  and  method:  from  10.13.2004  to  14.10.2010  at  Bach  Mai  hospital  surgery  we  performed  370 


surgical patients with abdominal catheter placed diagnosed with chronic renal failure stage III, IV.  
Results:  After  surgery:  percentage  of  patients  after  surgery  5‐year  follow‐up  86.76%.  The  classification: 
Good 218 patients (58.91%). On average 19 patients (5.14%). Least 133 patients. On the technical choices: open 
procedure is technically simple, less expensive and can perform surgery at all. No need to cut the omentum for 
open and laparoscopic procedures.  
Conclusion: This is a technically simple, safe and effective. Can be done in the general surgical. Contribute 
significantly to the problems in treating patients with end‐stage renal failure. 
Keywords: peritoneal dialysis, abdominal catheter, end‐stage renal failure 
như  tại  Việt  nam.  Năm  1970  khi  Tenckhoff  đã 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
đưa ra một loại catheter lọc màng bụng để điều 
Suy thận mạn mắc phải là một loại bệnh có 
trị  cho  những  BN  suy  thận  mạn  tính  giai  đoạn 
tỷ lệ mắc ngày càng tăng cao trên thế giới cũng 
cuối.  Từ  đó  đến  nay  phương  pháp  này  ngày 
* Khoa ngoại bệnh viện Bạch Mai    
Tác giả liên hệ: BS Trần Vinh  
ĐT: 04.8686988 – 2301

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 

Email:

147


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013


càng hoàn thiện, về kỹ thuật đặt catheter các tác 
giải đã áp dụng các kỹ thuật khác nhau như: mổ 
mở, mổ  nội soi,  có  cắt  mạc  nối  lớn  hoặc  không 
cắt mạc nối lớn, cố định mạc nối lớn vào thành 
bụng  vv,  nhưng  tỷ  lệ  biến  chứng  sau  mổ  còn 
gặp tỷ lệ cao. Xuất phát từ vấn đề đó chúng tôi 
tiến hành nghiên cứu đề tài với 2 mục tiêu sau: 
1.  Đánh  giá  kết  quả  thực  hiện  kỹ  thuật  đặt 
catheter  lọc  màng  bụng  trong  điều  trị  BN  suy 
thận  mạn  giai  đoạn  cuối  tại  khoa  ngoại  bệnh 
viện Bạch mai từ 2004 ‐2010.  

‐  Rạch  da  dài  4‐5  cm  song  song  với  đường 
trắng giữa trên rốn, cách đường này 2‐3 cm, trên 
rốn  3‐4  cm.  Rạch  tổ  chức  dưới  da  theo  đường 
rạch da.  
‐  Cân  cơ  thẳng  rạch  theo  đường  ngang 
vuông góc với đường rạch da tương ứng. Tách 
cơ theo đường rạch da. Mở cân ngang bụng. Mở 
phúc mạc một lỗ nhỏ, hút dịch trong ổ bụng. 

2. Lựa chọn kỹ thuật thích hợp với điều kiện 
hiện tại. 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Thời  gian  từ  13‐10‐2004  đến  14‐10‐2010  tại 
khoa  ngoại  bệnh  viện  Bạch  mai  chúng  tôi  thực 
hiện  được  370  trường  hợp  là  các  BN  với  chẩn 
đoán suy thận mạn giai đoạn IIIb; IV. Được tiến 

hành đặt catheter Tenckhoff ổ bụng. 

Hình 1. Cố định cuff I 

Phương pháp nghiên cứu và các bước tiến 
hành 
Phương pháp nghiên cứu 
Phương  pháp  nghiên  cứu  tiến  cứu  mô  tả 
không đối chứng. 
Xử lý số liệu  
Các số liệu được xử lý theo phần mềm INFO 
6.0 dùng trong y tế. 
Các bước tiến hành 
Tất cả các bệnh nhân được xếp lịch mổ phiên 
và  được  chuẩn  bị  theo  thường  quy.  Tất  cả  các 
BN  đều  được  đặt  catheter  Tenckhoff  đầu  cong 
dài 25‐30 cm có 2 cuff bằng Dacron và xử dụng 
dịch  lọc  của  công  ty  Baxter  loại  1,5%,  2,5%  và 
4,25%  lọc  4  túi/  ngày  loại  2000ml/túi.  Theo  dõi 
sau mổ và đánh giá kết quả. 
Phương pháp phẫu thuật 
Phương  pháp  mổ  mở  đặt  catheter  có  cắt  một  phần 
mạc nối lớn 
Gây tê tại chỗ, gây tê ngoài màng cứng, hoặc 
gây mê nội khí quản. 

148

 
Hình 2. Tạo đường hầm cho catheter 

‐  Kéo  mạc  nối  lớn  ra  ngoài,  cắt  bỏ  mạc  nối 
lớn tối đa. Đưa catheter vào trong ổ bụng xuống 
túi  cùng  Douglase.  Cố  định  cuff  I  bằng  cách 
khâu vòng kín phúc mạc quanh chân ống dẫn l‐
ưu bằng chỉ Safil 3.0, cuff II đặt dưới lớp cân cơ 
ngoài,  sau  đó  đặt  cathetr  dưới  da  theo  một 
đường vòng cung xuống dưới một khoảng 5‐10 
cm. Lỗ ra của catheter được đưa ra ở vị trí cách 
vết mổ 5‐6 cm và thấp hơn điểm cuối của vết mổ 
5‐10  cm.  Trước  khi  đóng  vết  mổ  phải  kiểm  tra 
chắc chắn catheter không gập, dịch ra vào tốt và 
phải không có máu. 
‐ Lắp đầu ngoại vi với hệ thống các túi đựng 
dịch lọc màng bụng, rửa ổ bụng bằng dung dịch 
1,5% để kiểm tra sự vào ra của catheter với 2000 

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

Nghiên cứu Y học

ml dịch có pha 1000 UI heparin. Lưu lại trong ổ 
bụng khoảng 200 ml dịch lọc.. 

74)(9). Varela là 35,3 ±11,3(11), của Aydin, Dalgic là 
34,3(2), Rui Maio là 46 (21‐81)(7). 

‐ Đậy nắp vô khuẩn đầu ngoài ống dẫn lưu 

băng kín. 

Về thời gian lọc so sánh với các đơn vị khác 
tôi thấy thời gian lọc càng dài thì tỷ lệ bệnh nhân 
không tiếp tục lọc giảm đi. Han SH là tác giả có 
thông  báo  số  lượng  BN  khá  lớn  2301  trong  25 
năm, số BN còn lọc sau 5 năm là 69,8%, sau 10 
năm  là  51,8%(5).  Thời  gian  BN  còn  lọc  dài  nhất 
của chúng tôi đến nay là 73,03 tháng, sau 5 năm 
còn 86,76%.  

‐ Chăm sóc vết mổ, sau một tuần thì bắt đầu 
tiến hành lọc màng bụng thường qui. 
Phương pháp mổ mở đặt catheter không cắt mạc nối lớn  
Các  bước  kỹ  thuật  tiến  hành  tương  tự  như 
trên chỉ duy nhất là không cắt mạc nối lớn. 
+ Phương pháp đặt catheter có hỗ trợ của nội 
soi ổ bụng  
‐ Bệnh nhân đặt  tư  thế  nằm  ngửa,  đầu  cao. 
Gây mê nội khí quản. 
‐ Mở một lỗ 5.0 mm dưới rốn để đặt camera, 
bơm  CO2  dưới  áp  lực  10‐14  mmHg,  quan  sát, 
đánh giá tình trạng ổ bụng. Đặt 1 trocar 10.0 mm 
ngang  rốn  trên  đường  giữa  đòn  trái  để  đưa 
cahteter  vào  ổ  bụng  và  đặt  đúng  túi  cùng 
Douglas  (dưới  sự  giám  sát  của  camera).  Đặt  1 
trocar 5 mm trên xương mu, qua đó lấy sợi chỉ 
lin đã được buộc sẵn trước khi đưa catheter vào 
ổ bụng sau đó khâu cố định catheter vào thành 
bụng  trước.  Cuff  1  được  điều  chỉnh  nằm  giữa 

phúc mạc và cân ngang bụng, khâu cố định với 
phúc mạc bằng chỉ Safil 3.0. Dùng dùi cong tạo 
một  đường  hầm  dưới  da  theo  quy  trình  trên. 
Cuff II được cố định dưới da. 

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 
Đặc điểm của nhóm nghiên cứu  
Thời  gian  từ  13‐10‐2004  đến  14‐10‐2010 
chúng tôi thực hiện được 370 trường hợp, với tỷ 
lệ BN nam là 204, nữ 166. Tuổi trung bình là 43,6 
trong đó nhỏ nhất là 6 tuổi, cao tuổi nhất là 80. 
Hiện  còn  đang  lọc  là  237  đạt  tỷ  lệ  64,05%.  Số 
bệnh  nhân  thôi  không  lọc  là  133  chiếm  35,95% 
với các lý do khác nhau. Về độ tuổi thì chúng tôi 
thấy tỷ lệ ở  độ  tuổi  30‐  60  gặp  khá  cao  252/370 
chiếm  68,1%%.  So  với  các  tác  giả  khác  thì  tỷ  lệ 
tuổi  và  tỷ  lệ  nam  nữ  của  nhóm  nghiên  cứu 
không có khác biệt: Phạm Văn Bùi BV Bình Dân; 
Tuổi  trung  bình  là:  47,1  (nhỏ  nhất  24,  lớn  nhất 

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 

Các tai biến ngoại khoa  
Viêm phúc mạc 
Viêm  phúc  mạc  là  một  biến  chứng  nặng  nề 
nhất,  là  mối  lo  ngại  của  các  nhà  thận  học. 
Nguyên  nhân  do  nhiễm  nấm  hoặc  vi  khuẩn  vì 
catheter  liên  thông  ổ  bụng  với  môi  trường  bên 
ngoài, mà  nguyên  nhân  chủ  yếu  do  bệnh  nhân 
không  tuân  thủ  chế  độ  đảm  bảo  vô  khuẩn  khi 

thực hiện quá trình lọc. Tỷ lệ của chúng tôi là 10‐
10.25%.  Khi  viêm  phúc  mạc  thì  BN  có  những 
biểu hiện sau: sốt, đau bụng, dịch sau lọc ra đục. 
Xét nghiệm cấy tế  bào  dịch  màng  bụng  có  trên 
1000  BC/1ml,  3  BN  cấy  có  E.Coli,  1BN  có 
Klebshiella, 12 BN có Staphylococcus 16 BN âm 
tính. Không có trường hợp nào cấy máu dương 
tính. Các bệnh nhân vẫn được tiếp tục lọc màng 
bụng, và điều trị kết hợp kháng sinh TM, 3 BN 
có Coli chúng tôi cho tiến hành rửa ổ bụng bằng 
huyết thanh mặn 0,9% có pha kháng sinh, trong 
số  BN  bị  VPM  có  15  BN  chúng  tôi  phải  rút 
catheter  và  chuyển  TNT.  Theo  Phạm  Văn  Bùi 
cũng nhận định VPM thường gặp nhất, thường 
tái phát nhiều lần trên cùng một BN, chủ yếu do 
BN không tuân thủ đúng nguyên tắc vô khuẩn 
trong thao tác thay đổi dịch, tỷ  lệ  VPM  của  tác 
giả  là:  36,2%(9).  M  Burkart  với  n  =565  gặp  6% 
viêm phúc mạc, trong đó 19% có E.Coli, 15% là 
Staphylococcus  Một  vài  tác  giả  khác  có  thông 
báo về hiện tượng viêm phúc mạc do lao nhưng 
với tỷ lệ rất thấp như; B Cakir gặp 4,7%, Holley 
HP, Tucker CT. Chúng tôi chưa gặp trường hợp 
nào. Kalishian có báo cáo một trường hợp viêm 
phúc mạc do nấm Aspergillus(1). Chúng tôi gặp 4 
trường hợp nhiễm nấm. 

149



Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

Nhiễm trùng chân catheter 
Tỷ lệ này của chúng tôi gặp 11,31‐16%, phải 
chuyển  bên  đặt  catheter  cho  1  BN  để  điều  trị 
nhiễm  trùng  chân  và  đường  hầm  của  catheter. 
Còn những trường hợp khác chỉ cần thay băng 
và kết hợp điều trị kháng sinh toàn thân, trong 
quá trình đó bệnh nhân vẫn được tiến hành lọc 
màng bụng. Phạm Văn Bùi cũng chỉ gặp 1/47(9). 
Tại viện nhi là 28,57%(4). Rui Mario 5/100 chiếm 
chỉ 2%(7). Các tác giả cũng nhận thấy rằng đối với 
các trường hợp nhiễm trùng chân catheter phần 
lớn chỉ cần  thay  băng,  điều  trị  kháng  sinh  toàn 
thân là đạt kết quả tốt, sau đó bệnh nhân lại có 
thể tiếp tục lọc màng bụng Chúng tôi cũng như 
các tác giả thấy: nhiễm trùng chân catheter hoặc 
đường  hầm  là  một  trong  những  nguyên  nhân 
gây nên VPM thứ phát.   
Dò dịch ổ bụng tại chân catheter 
Chủ yếu là do lỗi kỹ thuật khi khâu cố định 
cuff  I  với  phúc  mạc  không  chắc  và  lỗi  khi  tạo 
đường  hầm  bằng  dùi  cong.  Chúng  tôi  gặp  1 
trường  hợp  do  lỗi  kỹ  thuật  khi  dùi  vòng  vào 
trong ổ bụng rồi mới đưa đầu ngoài ra da. Hiện 
tượng rò dịch qua chân cuff I chúng tôi gặp 1,41‐
2%.  Phạm  Văn  Bùi  là:  4,3%,  tác  giả  cho  rằng 
nguyên  nhân  do  thực  hiện  thẩm  phâm  phúc 

mạc  quá  sớm  (01  ngày  sau  mổ)(9).  G  Del  Peso 
gặp 3,7% n=108)(5). Viện nhi thông báo 6/14 bị rò 
dịch quanh chân catheter(4). 
Tắc và di lệch vị trí catheter trong ổ bụng 
Tỷ lệ của chúng tôi là 5,41‐12.01%, thường 
là  tắc  đi  kèm  với  di  lệch  vị  trí.  Nguyên  nhân 
gây  ra  tắc  khác  nhau:  tắc  cơ  học  do  sự  di 
chuyển của đầu catheter không đúng vị trí, do 
sự chèn ép của các tạng lân cận, xoắn vặn ống 
bên  ngoài  catheter,  táo  bón  và  tắc  bên  trong 
lòng  catheter  do  nút  fibrin,  cục  máu  đông. 
Trong đó nguyên nhân chính là do mạc nối lớn 
cuộn  ôm  lấy  catheter,  khi  đó  có  hiên  tượng 
dịch  vào  thì  tốt  nhưng  dịch  ra  rất  chậm  hoặc 
tắc  hoàn  toàn,  như  van  một  chiều,  những 
trường hợp này chúng tôi tiến hành mở một lỗ 
dưới rốn lấy catheter ra khỏi ổ bụng, tiến hành 
cắt mạc nối lớn, bơm dưới áp lực để làm thông 

150

catheter.  Cục  fibrin  không  gây  tắc  hoàn  toàn 
được catheter vì đầu catheter rất nhiều lỗ bên, 
khi bị hiện tượng này thì dịch ra vào chậm, chỉ 
cần bơm rửa là thông tốt. Chúng tôi chỉ mổ để 
xử  lý hiện tượng tắc này sau khi  đã  cho  bệnh 
nhân thay đổi tư thế khi cho dịch vào, ra nhiều 
lần thất bại. Hoặc chụp XQ xác định vị trí của 
catheter nằm ở phía trên ổ bụng. 
Có 5 trường hợp chúng tôi gỡ dính qua nội 

soi ổ bụng, qua nội soi thường thấy mạc nối co 
kéo  catheter  lên  phía  trên  ổ  bụng.  Theo  chúng 
tôi, cũng như Stefano Santarelli: áp dụng nội soi 
ổ  bụng  can  thiệp  cho  những  trường  hợp  tắc 
catheter nhằm kéo dài sự lọc màng bụng là một 
giải pháp hữu ích(2). Theo Ram Gocal hiện tượng 
tắc  catheter  là  một  biến  chứng  có  thể  gặp  sớm 
nhất  chỉ  sau  2  tuần  lọc  màng  bụng  hoặc  có  thể 
liên  quan  đến  biến  chứng  của  viêm  phúc  mạc. 
Viện nhi thông báo 1/14(4). Phạm văn Bùi có tỷ lệ 
là 5/47 trong đó 4 do VPM, 1 do mạc nối quấn và 
đều  phải  rút  bỏ  cả  5(9).  Stefano  Santarelli  thông 
báo  trong  21  trường  hợp  tắc  catheter  phải  mổ 
nội soi lại thấy 12 trường hợp là mạc nối bọc đầu 
catheter, 5 trường hợp đầu catheter di lệch khỏi 
vị trí(10).  

Chảy máu trong ổ bụng sau mổ 
Chúng tôi không gặp trường hợp nào kể cả 
ở  nhóm  có  cắt  bỏ  mạc  nối.  Những  trường  hợp 
ngay  sau  mổ  dịch  ổ  bụng  có  ra  dịch  hồng  thì 
chúng  tôi  tiến  hành  rửa  ổ  bụng  bằng  huyết 
thanh mặn 0,9% có pha thêm 5000UI heparin/lit, 
sau  2‐3  túi  rửa  liên  tục  cho  đến  khi  trong. 
Arnoud  Peppelenbosch  cũng  nhận  xét:  chảy 
máu  là  một  biến  chứng  sớm  sau  mổ,  nhưng  ít 
gặp, dịch hồng có thể hết trong một vài ngày sau 
mổ  (8). Đặc biệt ở bệnh nhân là phụ nữ thì phải 
chú  ý  thời  kỳ  kinh  nguyệt  nếu  không  sẽ  chẩn 
đoán  nhầm  với  chảy  máu  do  catheter  làm  tổn 

thương  thành  phần  nào  đó  trong  ổ  bụng.  Viện 
nhi thông báo 1/14 bị chảy máu ổ bụng(4). 
Đau bụng 
Đau  bụng  vùng  đáy  chậu  và  hậu  môn, 
bệnh nhân có cảm giác đau thường xuất hiện ở 
cuối giai đoạn ra dịch và hết khi quá trình trao 

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
đổi dịch chấm dứt và thường hết sau 1‐2 tuần 
sau lọc. Hiện tượng này gặp phần lớn ở những 
bệnh nhân bị táo bón nên sau khi thụt tháo và 
điều trị thuốc chống táo bón thì hết. Tỷ lệ này 
gặp  25%  trong  nhóm  nghiên  cứu.  Đinh  Thị 
Kim Dung là 30%(4).  

Những biến chứng khác 
‐  Tắc  ruột:  chúng  tôi  chưa  gặp  trường  hợp 
nào. Stefano gặp 1cas. Giãn ruột do dính Cakir B 
thông báo 3/42 BN (7,1%)(1,10). 
‐  Thủng  ruột  là  một  biến  chứng  có  thể  gặp 
khi: đặt trocar đầu tiên vì phải đặt mù, do sự cọ 
sát của cathetẻ với thành ruột. Hoặc hiện tượng 
thiếu  máu  cục  bộ  của  thành  ruột  trên  cơ  địa 
những BN có tiền sử viêm loét. Chúng tôi chưa 
gặp trường hợp nào. Arnout gặp gần 1% khi mổ 
nội  soi.  B  Cakir  gặp  2/42  (4,7%)  trong  đó  1  BN 
thủng ruột non, 1 BN thủng đại tràng sigma(1). 

 ‐Thoát  vị  vết  mổ,  thoát  vị  bẹn,  thoát  vị  cơ 
hoành: thường gặp ở bệnh nhân có thành bụng 
yếu trong khi đó dịch trong ổ bụng luôn làm cho 
áp lực ổ bụng tăng. Phạm Văn Bùi gặp 1/47(9). G 
Del Peso trong thời gian 5 năm có tới 12% thoát 
vị(3). Man Fai Lam gặp 19/743 BN(6). Cakir B gặp 
5/42 (11,9%)(1). 
‐ Tràn dịch màng phổi, màng tinh hoàn, sau 
phúc  mạc:  đây  cũng  là  những  tai  biến  thường 
gặp và bệnh nhân phải ngừng lọc một thời gian 
thì hiện tượng này hết. Chúng tôi gặp 15 BN có 
tràn  dịch  màng  tinh  hoàn.  Man  Fai  Lam  gặp 
17/743  BN  tràn  dịch  màng  phổi(6),  G  Del  Peso 
gặp  5,6%  tràn  dịch  màng  phổi,  21,3%  tràn  dịch 
sau phúc mạc(3). 
‐ Máu tụ trong ổ bụng và thành bụng: chúng 
tôi chỉ gặp 1 trường hợp tụ máu thành bụng, tụ 
máu  trong  ổ  bụng  chưa  gặp  trường  hợp  nào, 
nhưng các tác giả có thông báo B Cakir gặp 5/42 
(11,9%)(1). 
‐ Abscess sau phúc mạc, cơ đái chậu: chúng 
tôi chưa gặp trường hợp nào nhưng các tác giả 
có nói tới: Belma Cevik gặp 3 trường hợp, trong 
đó 1 ở vùng tiểu khung, 2 ở sau phúc mạc abcess 
cơ đái chậu trái. 

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 

Nghiên cứu Y học


‐ Viêm tụy cấp thể không có nguyên nhân cơ 
giới, chúng tôi chưa gặp trường hợp nào nhưng 
có  tác  giả  thông  báo:  Ismail  Kirbas  gặp  2/42 
trong đó 1 BN bị 5 lần, 1 BN khác bị 3 lần. 
‐  Sốc  nhiễm  khuẩn:  đây  là  một  biến  chứng 
rất nặng có thể gây tử vong cho BN. Chúng tôi 
chưa gặp trường hợp nào, nhưng tác giả Cakir B 
thông báo gặp 2/5 trường hợp tử vong và 1 BN 
tử vong do suy hô hấp ngừng thở(1). 

KẾT LUẬN 
1‐ Kết quả sau mổ: Tỷ lệ BN theo dõi sau 5 
năm  đạt  86,76%.  Theo  phân  loại:  Tốt  218  BN 
(58,91%).  Trung  bình  19  BN  (5,14%).  Kém  133 
BN (35,95%). 
2‐  Về  lựa  chọn  kỹ  thuật  của  phương  pháp: 
Đây  là  một  kỹ  thuật  đơn  giản,  an  toàn  và  hiệu 
quả. Hoàn thiện kỹ thuật mổ mở một giải pháp 
hợp  lý  trong  giai  đoạn  hiện  nay.  Có  thể  thực 
hiện được ở tất cả các bệnh viện có khoa ngoại 
tổng  hợp.  Không  cần  thiết  phải  cắt  bỏ  mạc  nối 
lớn đối với cả hai kỹ thuật trên. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.


4.

5.

6.

7.

8.

Cakir B, Kirbas I, Cevik B (2008) Complications of continuous 
ambulatory  peritoneal  dialysis:  evaluation  with  CT,  Diagn 
Interv Radiol 14:212‐220. 
Dalgic  A,  Ersoy  E,  Anderson  ME,  Lewis  J,  Engin  A, 
DʹAlessandro  AM.  (2002).  A  Novel  Minimally  Invasive 
Technique  for  Insertion  of  Peritoneal  Dialysis  Catheter 
Surgical  Laparoscopy,  Endoscopy  Percutaneous  Techniques; 
Volume 12‐ Issue 4‐ pp 252‐254.  
Del  Peso  G,  Bajo  MA,  Costero  O,  Hevia  C,  Gil  F,  Diaz  C, 
Aguilera  A,  and  Selgas  R  (2003)  Risk  factors  for  abdominal 
wal  complications  in  peritoneal  dialysis  patients;  Peritoneal 
Dialysis International, Vol 23, Issue 3, pp 249‐254. 
Đinh Thị Kim Dung, Trần Vinh (2006), Bước đầu áp dụng và 
đánh giá hiệu quả của lọc màng bụng liên tục ngoại trú sau 3 
tháng điều trị ở bệnh nhân suy thận mạn tính giai đoạn cuối, 
Y học lâm sàng số 5; tr 42‐47.  
Henderson  S  (2009),  Safety  and  efficacy  of  percutaneous 
insertion  of  peritoneal  dialysis  catheter  under  sedation  and 
local  anaesthetic;  Oxford  Journals  Nephrology  Dialysis 
Transplantation, Volume 24(11), pp 3499‐3504.  

Lam MF, Lo WK (2009) Retropeeitoneal leakage as a cause of 
acute  ultrafiltration  failure:  its  associated  risk  factors  in 
peritoneal dialysis 29(5): 542‐547. 
Maio  R,  Figueiredo  N,  and  Costa  P  (2008).  Laparascopic 
placement  of  tenckhoff  catheters  for  peritoneal  dialysis:  A 
safe,  effective,  and  reproducible  procedure,  Vol  28,  pp  170‐
173. 
Peppelenbosch  A,  van  Kuijk  WHM,  Bouvy  ND,  van  der 
Sande  FM  and  Tordoir  JHM  (2008),  Peritoneal  dialysis 

151


Nghiên cứu Y học 

9.

10.

152

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

catheter  placement  technique  and  compactions  Oxford 
Journals  Nephrology  Dialysis  Transplantation,  Volume  1(4), 
pp 23‐28.  
Phạm Văn Bùi (2005), Khảo sát các biến chứng của tp liên tục 
lưu động trong điều trị bệnh suy thận mạn giai đoạn cuối, Y 
học Việt nam, tr 451‐462. 
Santarelli  S,  Zeiler  M  (2006)  Vidieolaparoscopy  as  rescue 

therapy  and  placement  of  peritoneal  dialysis  catheters:  a 
thirty‐two case single centre experience: Nephrology Dialysis 
Transplantation, Volume 21, Number 5, pp 1348‐1354. 
 

Varela  E.J,  Elli  E.F,  Horgan  S  (2005),  Moni‐lapararoscopic 
placemrnt  of  a  peritoneal  dialysis  catheter  A  single  2‐mmm 
port technique; Surg Endosc 17; 2005‐2007. 

11.

 
Ngày nhận bài báo  

 

15‐05‐2013 

Ngày phản biện nhận xét bài báo:  01‐06‐2013 
Ngày bài báo được đăng:    

15–07‐2013 

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  



×