Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Nhận xét chẩn đoán và điều trị cắt gan rộng theo phương pháp Tôn Thất Tùng do chấn thương bụng kín và ung thư tế bào gan tại Bệnh viện Nhi Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.92 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

Nghiên cứu Y học

NHẬN XÉT CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ CẮT GAN RỘNG 
THEO PHƯƠNG PHÁP TÔN THẤT TÙNG DO CHẤN THƯƠNG BỤNG KÍN 
VÀ UNG THƯ TẾ BÀO GAN TẠI BỆNH VIỆN NHI THANH HÓA 
Tạ Văn Tùng*, Lê Tất Hải, Dương Văn Hùng*, Dương Văn Thông*, Nguyễn Thành Thắng* 

TÓM TẮT 
Mục tiêu: Nhận xét về chẩn đoán, điều trị cắt gan rộng theo phương pháp Tôn Thất Tùng do chấn thương
bụng kín và ung thư gan.
Phương pháp nghiên cứu: Báo cáo loạt ca. 
Kết quả: 3 ca: 2 ca vỡ gan độ 5 sau chấn thương bụng kín và 1ca u gan (T) đã được mổ cắt gan rộng theo
phương pháp Tôn Thất Tùng tại bệnh viện Nhi Thanh Hóa có kết quả tốt.
Kết luận: Phẫu thuật cắt gan theo phương pháp Tôn Thất Tùng điều trị vỡ gan nặng do chấn thương và
UTBMG là an toàn và hiệu quả có thể áp dụng tại bệnh viện Nhi Thanh Hóa.
Từ khóa: Cắt gan theo phương pháp Tôn Thất Tùng, vỡ gan nặng do chấn thương, u gan. 

ABSTRACT 
TO MAKE COMMENT ON DIAGNOSIS AND TREATMENT LARGE HEPATECTOMY WITH TON
THAT TUNG,S METHOD FOR HEPATORUPTURE DUE TO CLOSED ABDOMINAL TRAUMA AND
A HEPATOCELLULAR CARCINOMA AT PEDIATRIC THANH HOA HOSPITAL
Ta Van Tung, Le Tat Hai, Duong Van Hung, Duong Van Thong, Nguyen Thanh Thang 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 96 ‐ 101 
Objectives: To make comment on diagnosis and treatment large hepatectomy with Ton That Tung’s method
for hepatorupture due to closed abdominal trauma and a hepatocellular carcinoma.
Methods: Cases stady. 
Results: 3 cases: 2 cases of liver rupture due to closed abdominal trauma and a hepatocellular carcinoma was
opened large hepatectomy with Ton That Tung’s method in the Thanh Hoa Childrenʹs Hospital have good results. 
Conclusions: Large hepatectomy with Ton That Tung’s method is safe and effectively can apply in the


Thanh Hoa Childrenʹs Hospital.  
Key  words: Large hepatectomy with Ton That Tung’s method, severe hepatorupture due to closed
abdominal trauma, hepatocellular carcinoma.
thuật này(1). Chúng tôi xin nêu một số nhận xét 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
qua  3  ca  (2  ca  vỡ  gan  độ  5  sau  chấn  thương 
Cắt gan rộng là cắt 2 hoặc 3 phân thùy gan 
bụng  kín  và  1  u  gan  (T)  đã  được  mổ  cắt  gan 
được  áp  dụng  dụng  để  điều  trị  cho  chấn 
rộng  theo  phương  pháp  Tôn  Thất  Tùng  tại 
thương  gan  nặng  và  u  gan.  Đây  là  một  loại 
Bệnh viện Nhi Thanh Hóa. 
phẫu thuật khó phức tạp vì nhiều nguy cơ gây 
Mục tiêu nghiên cứu 
chảy  máu  ‐  mất  máu,  gây  rối  loạn  đông  máu 
Nhận xét về chẩn đoán, điều trị cắt gan rộng 
nên đòi hỏi phẫu thuật viên có kinh nghiệm và 
theo  phương  pháp  Tôn  Thất  Tùng  do  chấn 
nắm  rât  chắc  giải  phẫu  gan  áp  dụng  cho  kỹ 
* Bệnh viện Nhi Thanh Hóa 
Tác giả liên lạc: BS Tạ Văn Tùng, ĐT: 0373953979, Email:  

Chuyên Đề Ngoại Nhi 

97


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013


thương bụng kín và ung thư gan. 

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Báo cáo loạt ca. 

KẾT QUẢ 
Bệnh án 1 
Bệnh  nhân  Trần  Kim  Hoàng  11  tuổi.  Quê 
quán: Đông Tiến 2, xã Thiệu Tâm, huyện Thiệu 
hóa, tỉnh Thanh Hóa vào viện ngày: 24/08/2011 
do  ngã  đập  bụng  vào  tường  gạch.  Bệnh  nhân 
vào  viện  trong  tình  trạng  vật  vã,  kêu  đau 
bụng,  da  xanh  niêm  mạc  mắt  nhợt,  mạch  130 
l/ph, HA 60/40 mmHg, thở 35 l/ph, sonde tiểu 
nước  tiểu  vàng  không  có  máu.  Bụng  chướng 
có cảm ứng phúc mạc, gõ đục vùng thấp, vùng 
đục  trước  gan  còn.  Thăm  trực  tràng  túi  cùng 
Douglas căng đau. 

Tiến  hành  Cắt  gan  (F)  theo  phương  pháp 
Tôn Thất Tùng, khâu buộc kỹ các mạch máu và 
ống mật ở mặt cắt. Lau rửa sạch ổ bụng kiểm tra 
không chảy máu các bộ phận khác bình thường 
đặt  dẫn  lưu  dưới  gan  và  Douglas,  khâu  đóng 
bụng.  Trong  thời  gian  hồi  sức  đến  khi  kết  thúc 
cuộc mổ bệnh nhân được truyền 4 đơn vị máu. 
Bệnh nhân hồi phục và ra viện sau 12 ngày điều 
trị.  Hiện  tại  bệnh  nhân  khỏe  mạnh  tăng  trọng 
lượng, sinh hoạt và đi học bình thường. 


Bệnh án 2 

Siêu âm: Dịch tự do không đồng nhất trong 
ổ bụng, tụ dịch bao gan có các ổ trống âm ở gan. 

Bệnh  nhân  Trần  Quốc  Khánh  10  tuổi,  Quê 
quán: Cà Lạt ‐ xã Thọ Xương – huyện Thọ Xuân 
‐ Thanh Hóa. Vào viện: 20h15ph ngày 4/9/2012; 
Số  bệnh  án  19810,  mã  bệnh  án:  1202940.  Lý  do 
vào  viện:  Đau  hạ  sườn  phải  sau  ngã  xe  đạp. 
Bệnh nhân đi xe đạp tự ngã bị tay cầm thúc vào 
DSP lúc 11h ngày 4/9/2012. Sau tai nạn đau bụng 
tăng, nôn và bụng chướng dần, vào viện lúc 20 
giờ  15  cùng  ngày  trong  tình  trạng:  Bệnh  nhân 
tỉnh,  da  xanh,  niêm  mạc  nhợt,  mạch 
110lần/phút,  huyết  áp  115/70mmHg,  bụng 
chướng vừa, ấn đau nhiều vùng hạ sườn phải. 

CT Scanner: Hình ảnh khối giảm âm tỷ trọng 
không  đều  choán toàn  bộ  gan  phải  và  hạ  phân 
thùy IV. 

Các xét nghiệm: CTM: Hồng cầu 3,2 x 1012/l; 
Bạch cầu: 23,75 x109/l; TC 270 x 109/l; HST 93g/l; 
Hem 27l/l. 

XN: HC 3,1 x 1012/l; HST: 92 g/l; Hematocrit: 
0,26  l/l;  TC:  413x  109/l,  BC:  27,8  x  109/L;  ALAT: 
373 U/L; ASAT: 644 U/L. 


Chẩn  đoán:  Vỡ  gan  sau  chấn  thương  bụng 
kín. 
Bệnh nhân được hồi sức tích cực truyền dịch 
máu,  thở  oxy  nhưng  tình  trạng  không  tốt  hơn, 
huyết  áp  tiếp  tục  giảm  (HA:  50/40  mmHg  khi 
chuyển  mổ),  mổ  cấp  cứu  lúc  18  giờ  ngày 
24/8/2011  với  chẩn  đoán:  Chảy  máu  trong  ổ 
bụng do vỡ gan. Mở bụng thấy ổ bụng đầy máu, 
có ít máu đông ở dưới gan, bao gan phải và một 
phần  HPT  IV  căng  mọng  do  chứa  máu  phía 
trong ngay mặt trên gan (F) gần tĩnh mạch chủ 
dưới  có  đường  vỡ  lớn  đang  chảy  máu  từ  tĩnh 
mạch trên gan (F) khâu cầm máu chỗ chảy ngay. 
Kiểm  tra  tổ  chức  gan  phải  dập  nát  không  thể 
khâu  bảo  tồn  gan  được,  thùy  đuôi  và  tổ  chức 
gan  còn  lại  bình  thường,  các  tạng  khác  trong  ổ 
bụng bình thường. Chẩn đoán trong mổ: Vỡ gan 
phải độ V. 

98

Sinh hoá: ASAT 657U/l, ALAT 510U/l 
Siêu  âm  ổ  bụng:  Nhu  mô  gan  phải  có  khối 
tăng âm kích thước 69 x 88 mm, dịch dưới bao 
gan dày 14 mm, ổ bụng dịch dày 14 mm. 
CT  Scanner  ổ  bụng:  Có  hình  ảnh  vỡ  gan 
phải, máu tụ dưới bao gan. 
Bệnh  nhân  được  chẩn  đoán  là  vỡ  gan  sau 
chấn  thương  bụng  kín  được  điều  trị  nội  khoa: 

Bù nước điện giải, truyền máu, kháng sinh, thở 
Oxy,  an  thần,  bất  động  và  theo  dõi  mạch,  HA 
1h/lần đến ngày 6/9, trẻ đau bụng tăng, khó thở, 
bụng  chướng  căng  ấn  đau,  huyết  áp  110/60 
mmHg, mạch 110lần/phút, nhịp thở 40 lần/phút. 
Xét nghiệm: ASAT 1660 U/l, ALAT 1260U/l. Hội 
chẩn mổ cấp cứu lúc 4h ngày 6/9/2012 với chẩn 
đoán: Tụ máu gan dọ vỡ. 

Chuyên Đề Ngoại Nhi  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
Vào ổ bụng kiểm tra thấy tụ máu dưới bao 
gan rất lớn, chèn ép vào cơ hoành, sau khi giải 
phóng khối máu tụ kiểm tra thấy đứt tình mạch 
trên gan phải ( được khâu cầm máu ngay), dập 
nát  nhu  mô  gan  phải  và  HPT  IV  >  75%  không 
thể  điều  trị  bảo  tồn,  thùy  đuôi  và  tổ  chức  gan 
còn lại bình thường, các tạng khác trong ổ bụng 
bình thường. Chẩn đoán trong mổ: Vỡ gan phải 
đô V. Bệnh nhân được phẫu thuật cắt gan phải 
và  HPT  IV  theo  phương  pháp  Tôn  Thất  Tùng, 
dẫn lưu dưới gan. Sau phẫu thuật bệnh nhân ổn 
định. Xét nghiệm ngày thứ  4 sau mổ  HC: 3,6  x 
1012/l,  HST  105  g/l;  Hem  0,316  l/l;  ASAT  146 
U/L;  ALAT  21U/l.  Huyết  áp:  100/60  mmHg; 
Mạch: 100lần/phút; Nhịp thở: 25lần/phút. 
Ngày  thứ  11  sau  mổ  bệnh  nhân  ổn  định 
không  sốt,  ăn  uống  tốt,  thể  trạng  trung  bình, 

huyết  động  ổn  định,  bụng  không  chướng,  vết 
mổ  liền  tốt.  BN  xuất  viện.  Hiện  tại  sức  khỏe 
bệnh nhân tốt. 
Hai  ca  vỡ  gan  độ  V  sau  chấn  thương  (theo 
phân độ của “AAST” Hiệp hội phẫu thuật chấn 
thương  Hoa  Kỳ)  được  phẫu  thuật  cắt  gan  phải 
và HPT IV tại Khoa Ngoại tổng hợp Bệnh viện 
Nhi Thanh Hoá thành công. 

Bệnh án 3 
Bệnh  nhân  Lê  Thị  Ngọc  Anh  8  tuổi.  Quê 
quán thôn 8, xã Thọ Lộc, huyện Thọ Xuân, tỉnh 
Thanh  Hóa  vào  viện  lúc  9  giờ  ngày  14/05/2012; 
Số  bệnh  án  10166.  Vào  viện:  Vì  u  gan.  Tiền  sử 
khỏe  mạnh  tình  cờ  siêu  âm  phát  hiện  u  gan, 
chụp CT Scanner xác định u gan trái và đã được 
mổ sinh thiết u với chẩn đoán u nguyên bào tế 
bào  gan  type  biểu  mô.  Xét  nghiệm  trước  mổ: 
AFP:  37100  ng/ml;  HCV  và  HbsAg  âm  tính; 
blirubin: 13,5 mmol/l; ASAT 262 U/L; ALAT 198 
U/L; Protein 56 g/l; HC 4,4 x 1012//L; HST 132g/l; 
Hematocit 0,39 l/l. Chẩn đoán trước mổ: K gan  
Bệnh  nhân  được  mổ  lúc  9  giờ  ngày 
20/5/2012.  Vào  bụng  theo  đường  vòng  cung 
dưới bờ sườn (F) và dưới bờ sườn (T). Kiểm tra ổ 
bụng  sạch  gan  hồng,  gan  (T)  to  có  khối  u  màu 
trắng ngà KT 4,5x 5 cm mặt u hơi gồ ghề khu trú 
ở HPT III và lấn sang phân thùy giữa cạnh dây 

Chuyên Đề Ngoại Nhi 


Nghiên cứu Y học

chằng  tròn,  mật  độ  chắc,  tổ  chức  gan  còn  lại 
quanh  u  bình  thường.  Không  thấy  hạch  ở  rốn 
gan  và  mạc  nối  bé,  các  bộ  phận  khác  bình 
thường . 
Chẩn đoán trong mổ: U gan (T)  
Tiến hành cắt gan (T) theo phương pháp Tôn 
Thất Tùng quá trình mổ thuận lợi. Sau mổ bệnh 
nhân diễn biến tốt xuất viện ngày 28/5/2012 cho 
đén  nay  (20/05/2013)  bệnh  nhân  được  điều  trị 
hóa trị liệu 2 đợt: Thể trạng bệnh nhân tốt (lên 5 
kg so với ngày mổ), siêu âm không thấy u gan, 
không  thấy  di  căn  hạch  và  các  tạng  trong  ổ 
bụng.  Chụp  tim  phổi  bình  thường,  không  sốt, 
gan  không  có  u.  Xét  nghiệm  chức  năng  gan  và 
chỉ  số  các  xét  nghiệm  bình  thường.  AFP  10 
ng/ml. 

BÀN LUẬN 
2 ca vỡ gan do chấn thương đều do tai nạn 
sinh hoạt, 1 ca được hồi sức tích cực trước mổ để 
mổ cấp cứu ngay, 1 ca điều trị bảo tồn không có 
kết quả được mổ cấp cứu sau tai nạn 2 ngày. 
1  ca  u  gan  khu  trú  ở  giai  đoạn  T2,N0.  đã 
được mổ sinh thiết u trước mổ và sau mổ. 

Vỡ gan do chấn thương 
Là  một  cấp  cứu  ngoại  khoa  thường  gặp 

đứng hàng thứ 2 sau chấn thương lách tỷ lệ gặp 
15‐  20%  ngày  càng  gia  tăng(9).  Vỡ  gan  thường 
phối hợp với tổn thương các tạng khác hoặc đa 
chấn thương. Vỡ gan đơn thuần chỉ chiếm 34% 
trong đó Vỡ gan (P) 69,4%, vỡ gan (T) 21,4%, vỡ 
gan 2 bên 9,2%(6). 

Lâm sàng 
Biểu hiện đau bụng từ vị trí tổn thương sau 
lan  khắp  bụng.  Bụng  chướng  co  cứng  ấn  đau 
toàn bụng, gõ đục vùng thấp và thăm trực tràng 
túi  cùng  Douglas  căng  đau.  Toàn  thân  có  tình 
trạng  choáng:  Mạch  nhanh,  huyết  áp  không 
nâng lên được khi hồi sức tích cực.  
Cận lâm sàng 
Siêu âm dịch tự do không đồng nhất trong ổ 
bụng, tổn thương ở gan.  

99


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

CT  Scanner  ổ  bụng:  Có  hình  ảnh  vỡ  gan 
phải, máu tụ dưới bao gan. 

biến gì sau mổ, bệnh nhân xuất viên ngày thứ 
11 ‐ 12 an toàn. 


Xét  nghiệm:  HC  giảm,  Hematocrite  giảm, 
HST  giảm,  SGOT  và  SGPT  tăng  cao  đây  là 
trường hợp điển hình của vỡ gan mà bệnh nhân 
ở  bệnh  án  1  đã  được  chẩn  đoán  xác  định  ngay 
trước mổ. Việc chẩn đoán độ vỡ gan của chúng 
tôi  chỉ  được  thực  hiện  trong  mổ  vì  siêu  âm  và 
chụp CT Scanner của chúng tôi chưa đưa đủ các 
tiêu chuẩn phân độ  vỡ. Bệnh nhân thứ  2 (bệnh 
án 2) của chúng tôi cũng có đầy đủ những biểu 
hiện trên nhưng mạch tăng và huyết áp ổn định 
nên  chúng  tôi  hồi  sức  tích  cực  và  theo  dõi  sát 
nhưng khối tụ máu gan to dần và đau làm bệnh 
nhân khó thở dữ dội nên được chuyển mổ ngay   
Chẩn đoán trước mổ: Khối máu tụ gan dọa vỡ. 

Ung thư gan nguyên phát (UTGNP)  

Điều trị 
Trước đây khi đã chẩn đoán xác dịnh là vỡ 
gan thì mổ sớm là một việc làm quan trọng và 
tích  cực  để  hồi  sức  bệnh  nhân(6),  khoảng  30 
năm trở lại đây do sự phát triển của chẩn đoán 
hình  ảnh,  hồi  sức  cấp  cứu  ngoại  khoa  cũng 
như  nghiên  cứu  của  nhiều  tác  giả  nhận  thấy 
70%  máu  đã  tự  cầm  khi  mổ  và  hiệu  quả  của 
phương  pháp  điều  trị  bảo  tồn  không  mổ  đối 
với  chấn  thương  gan  đã  làm  thay  đổi  thái  độ 
xử trí chấn thương gan. Phương pháp điều trị 
bảo  tồn  đã  có  những  chỉ  định  tương  đối  rõ 

ràng được chấp nhận và khá phổ biến trên thế 
giới  cũng  như  1  số  bệnh  viện  của  Việt  nam(6), 
tiêu chuẩn quan trọng quyết định điều trị bảo 
tồn là tình trạng huyết động ổn định. Đối với 2 
bệnh  nhân  của  chúng  tôi  đều  được  hồi  sức 
trước mổ nhưng tình trạng huyết động tiếp tục 
giảm và tình trạng bụng chướng dần gây đau ‐ 
khó  thở  tăng,  nên  được  chuyển  mổ  cấp  cứu 
chẩn  đoán  trong  mổ:  Vỡ  gan  độ  5.  Chúng  tôi 
sử  dụng  phương  pháp  cắt  gan  của  Tôn  Thất 
Tùng  (sau  khi  đã  khâu  cầm  máu  tĩnh  mạch 
gan  phải  vỡ)  có  chuẩn  bị  cuống  gan  nhưng 
không ga ro mà chỉ kiểm soát thắt cắt các mạch 
và  đường  mật  trong  gan,  dẫn  lưu  dưới  gan. 
Quá  trình  phẫu  thuật  thuận  lợi  không  có  tai 

100

Thường gặp là ung thư biểu mô tế bào gan 
(UTBMG)  rất  ác  tính  và  thường  gặp:  500.000  ‐ 
1000.000  ca/năm  trên  thế  giới  và  chết  500.000 
người/  năm(3)  Phạm  Hoàng  Phiệt  thống  kê  ở 
Bệnh  viện  Việt  Đức  1972‐1975  trẻ  em  dưới  10 
tuổi mắc 3,75%, tỉ lệ nam/ nữ là 3/1 và nhận thấy 
k  liên  bào  gan  chiếm  89%  trong  tổng  số  k  gan 
nguyên phát(5) Văn Tần và cộng sự thấy UTGNP 
ở  TP  Hồ  Chí  Minh  cao  hơn  ở  Hà  Nội  và  các 
nước trong khu vực, đặc biệt là loại ung thư  tế 
bào gan (HCC) cao chiếm 92,25%, tỉ lệ nam/nữ là 
3/1 ở các nước khác tỉ lệ này có thể lên đến 8/1(10). 


Chẩn đoán 
Dựa  vào  triệu  chứng  lâm  sàng:  mệt  mỏi, 
nặng vùng DSP, sờ thấy u. Triệu chứng cận lâm 
sàng:  Siêu  âm  và  chụp  CT  scanner,  xét  nghiệm 
AFP,  chọc  hút  hoặc  mổ  sinh  thiết  gan.  Qua 
nghiên cứu các tác giả thấy kết quả xét nghiệm 
HbsAg chiếm 83,3% và nhận định UTBMG hầu 
hết đều nhiễm vi rút viêm gan B và thường phát 
triển  trên  nền  gan  mạn  tính  như  viêm  gan  xơ 
gan(2,4) AFP > 200 ng/ml gặp 72,4%, siêu âm phát 
hiện  u  gan  100%,  chụp  CT  Scanner  thấy  hình 
ảnh  điển  hình  của  ung  thư  94,8%.  Hướng  dẫn 
thực  hành  ung  thư  của  mạng  các  quốc  gia  về 
ung  thư  (2010)  siêu  âm  là  phương  pháp  chẩn 
đoán  thuận  lợi  và  thường  được  thực  hiện  đầu 
tiên ở các bệnh nhân ung thư gan và sử dụng để 
kiểm  tra  định  kỳ  các  bệnh  gan  mạn  tính.  Khi 
siêu  âm  gan  thấy  khối  bất  thường  nên  tiếp  tục 
thử  AFP,  chụp  CT  Scanner(4).  Quan  điểm  hiện 
nay trong chẩn đoán UTBMG hầu hết các tác giả 
đều  thống  nhất  chẩn  đoán  xác  định  khi  nhận 
thấy  hình  ảnh  đặc  trưng  của  u  gan  tăng  tưới 
máu ở thì động mạch trên 2 phương pháp chẩn 
đoán  hình  ảnh  hoặc  trên  1  phương  pháp  thấy 
dấu hiệu đặc trưng và AFP > 200 ng/ml(2,4). Sinh 
thiết u là tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán ung 
thư gan bằng phương pháp chọc sinh thiết hoặc 
mổ  sinh  thiết.  phương  pháp  mổ  sinh  thiết  cho 
chẩn doán chính xác nhất. 


Chuyên Đề Ngoại Nhi  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
Bệnh  nhân  của  chúng  tôi  không  có  triệu 

Nghiên cứu Y học

và trong cắt gan trái do u truyền 2 đơn vị máu, 

chứng  lâm  sàng  như  trên,  chỉ  tình  cờ  siêu  âm 

chúng tôi không thấy có rối loạn đông máu. 

siêu âm phát hiện u gan trái rồi nhập viện được 

Tỷ lệ tử vong 

chụp CT scanner thấy hình ảnh của u gan (T) KT 

Giai đoạn trước đây, tỷ lệ tử vong chung của 

5  cm,  xét  nghiệm  AFP  >  31100  ng/ml.  Đã  được 

cắt gan do ung thư nguyên phát là 17,4%(8). Theo 

mổ  sinh  thiết  gan  chẩn  đoán  là  ung  thư  tế  bào 

nghiên  cứu  của  Tôn  Thất  Bách  và  CS  từ  năm 


biểu mô gan. 

1994‐1999  tại  Bệnh  viện  Việt  Đức  tỉ  lệ  này  là 

Điều trị 

6,06%, trên thế giới theo G. Mentha cắt gan rộng 

Việc  điều  trị  của  chúng  tôi  được  thực  hiện 

là 10%(8), của Văn Tần và CS 2004 là 3,7%(10). Lê 

theo hướng dẫn của mạng các quốc gia về ung 

Văn Thành, Nguyễn Cường Thịnh, Lương Công 

thư  NCCN  (2010):  Chức  năng  gan  ở  Child  – 

Chánh là 0,64%(9). Kết quả khác nhau này chúng 

Pugh A, tình trạng u ≤ 5 cm, thể tích gan còn lại 

tôi nghĩ do trình độ kỹ thuật và gây mê hồi sức 

đủ  đảm  bảo  chức  năng  gan  sau  mổ,  u  không 

ngày  càng  tiến  bộ,  do  việc  chọn  lọc  bệnh  nhân 

xâm lấn vào các mạch máu lớn .  


mổ.  Tổng  kết  tỷ  lệ  tử  vong  chung  trong  chấn 

(4)

Sau khi chẩn đoán xác định K gan trái chúng 

thương  và  vết  thương  gan  tại  Bệnh  viện  Việt 

tôi đã tiến hành cắt gan trái (cắt PT bên và giữa) 

Đức 2004 của Dương Trọng Hiền là 13% tương 

theo Phương pháp Tôn Thất Tùng thuận lợi do 

đương các tác giả nước ngoài(8).  

u đơn độc gianh giới rõ và cắt bỏ gan xa tổ chức 

Trong 3 ca mổ cắt gan của chúng tôi đều rất 

u 5 cm. Kết quả sinh thiết u sau mổ là ung thư tế 

thuận  lợi  trong  mổ  và  điều  trị  sau  mổ,  bệnh 

bào biểu mô gan.  

nhân đủ tiêu chuẩn xuất viện từ 8 ‐12 ngày, hiện 

Kỹ thuật cắt gan 


tại sức khỏe bệnh nhân tốt tăng cân, siêu âm và 

Cặp cuống gan

các  chỉ  số  xét  nghiệm  được  kiểm  tra  định  kỳ 

Chuẩn bị và kẹp cuống gan để đảm bảo một 
phẫu  trường  khô  và  tiết  kiệm  máu,  có  những 

bình thường, sinh hoạt và học tập tốt. 

KẾT LUẬN 

thông  báo  trên  y  văn  thế  giới  thời  gian  cặp 

Hai trường hợp cắt gan do vỡ gan nặng sau 

cuống gan ở thân nhiệt bình thường tới 24 phút 

chấn thương bụng kín và tổn thương tĩnh mạch 

thậm chí của các tác giả nước ngoài tới 65 phút 

gan phải được chỉ định cắt gan phải ngay. 1 ca u 

của  Tôn  Thất  Bách  77  phút   nhưng  vẫn  có 

gan  trái  được  cắt  gan  trái  với  diện  cắt  cách  u  5 


những nguy hiểm do thiếu máu cho gan và ứ trệ 

cm.  Các  ca  mổ  này  đều  thuận  lợi  trong  mổ  và 

tuần  hoàn  cửa  dẫn  đến  rối  loạn  về  sinh  học. 

điều tri sau mổ bệnh nhân không có biến chứng 

Chúng tôi chỉ chuẩn bị cuống gan mà không kẹp 

gì và xuất viện an toàn. 

(7)

cuống  bởi  chúng  tôi  kiểm  soát  và  buộc  tốt  các 

Phẫu  thuật  cắt  gan  theo  phương  pháp  Tôn 

cuống  mạch  và  đường  mật  của  gan  trong  nhu 

Thất Tùng điều trị vỡ gan nặng do chấn thương 

mô gan  

và  UTBMG  là  an  toàn  và  hiệu  quả  có  thể  áp 

Truyền máu 

dụng tại bệnh viện Nhi Thanh Hóa. 


Mỗi ca cắt gan trong chấn thương từ khi hồi 
sức đến khi mổ xong chúng tôi truyền 4 đon vị 

Chuyên Đề Ngoại Nhi 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

Cao  Thị  Anh  Đào,  Nguyễn  Thụ  (2012).  Đặc  điểm  rối  loạn 
đông  máu  ở  bệnh  nhân  được  mổ  cắt  gan  lớn  tại  bệnh  viện 

101


Nghiên cứu Y học 

2.

3.

4.
5.
6.
7.

102

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

Việt Đức. Tạp chí nghiên cứu y học, 80, tr 12‐15. 

Cescon  M  (2009).  Trends  in  perioperative  outcome  after 
hepatic  resection  analysis  of  1500  consecutive  unselected 
cases over 20 year, annals of surgery, 249; pp 995‐1001. 
Lê  Văn  Thành,  Nguyễn  Cường  Thịnh,  Lương  Công  Chánh 
(2012). Kết qủa 156 trường hợp cắt gan kết hợp phương pháp 
Tôn Thất Tùng và Lortat ‐ Jacob điều trị ung thư biểu mô tế 
bào gan, Tập san ngoại khoa tập 61, tr 43‐49. 
NCCN  Clinical  practic  guidelines  in  oncology  (2011). 
Hepatobiliary cancers, www.nccn.org.  
Phạm Gia Khánh (1993). Ung thư gan. Bệnh học ngoại khoa 
sau đại học tập 2, Học viện Quân Y Hà Nội, tr 93‐100. 
Tôn  Thất  Bách  (1993).  Chấn  thương  gan.  Bệnh  học  ngoại 
khoa, Nhà xuất bản Y Học Hà Nội, tr 53‐57. 
Tôn Thất Bách,Trần Bình Giang, Nguyễn Duy Huề, Nguyễn 
Thanh Long (2008). Phẫu thuật gan mật. Nhà xuất bản y học, 
tr 1‐138. 
 

8.

9.

10.

Tôn Thất Bách,Trần Bình Giang, Nguyễn Thanh Long (2004). 
Một số nhận xét qua 87 trường hợp cắt gan. Tạp chí y hoc việt 
nam tập 297, tr 52‐56. 
Trịnh Hồng Sơn, Lê Trung Thành, Trần Đức Quý (2011). Điều 
trị  bảo  tồn  chấn  thương  gan  do  chấn  thương  bụng  kín  tại 
Bệnh viện Đa khoa Thái Nguyên. YHTH 787.10 ,tr 45‐49 

Văn Tần, Hoàng Danh Tấn, Nguyễn Cao Cương (2004). Cắt 
gan trong ung thư gan nguyên phát. Tạp chí y học việt nam 
tập 297, tr 13‐18. 

 
Ngày nhận bài

30/06/2013.

Ngày phản biện nhận xét bài báo

20/07/2013.

Ngày bài báo được đăng:

15–09‐2013

 

Chuyên Đề Ngoại Nhi  



×