Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

So sánh giá trị điểm mMCR và CCQ trong đánh giá triệu chứng lâm sàng bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (419.04 KB, 9 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015

Nghiên cứu Y học

SO SÁNH GIÁ TRỊ ĐIỂM mMRC VÀ CCQ TRONG ĐÁNH GIÁ
TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH
Lê Khắc Bảo*

TÓMTẮT
Đặt vấn đề: GOLD2014khuyến cáo đánh giá triệu chứng lâm sàng bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
(BPTNMT)bằng cách dùng 1 trong ba thang điểm mMRC, CAT hoặc CCQ với các điểm cắt tương ứng là 2, 10
và 1 – 1,5. GOLD không nêu rõ điểm số ưu tiên.Chứng cứcho thấy sử dụng thang điểm CAT hoặc mMRC dẫn
đến hai kết quả phân loại khác nhau.
Mục tiêu: So sánh giá trị điểm mMRC và CCQ trongđánh giá triệu chứng lâm sàng BPTNMT.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả phân tích trên 151 bệnh nhân BPTNMT tại
phòng khám hô hấp BVĐHYD từ 01/2009–01/2011. Chúng tôi xác định hệ số tương quan giữa mMRC và CCQ
lần lượt với mức độ khó thở (BDI), khả năng gắng sức (6MWD), chất lượng cuộc sống (SGRQ).Hai phương
trình hồi qui tuyến tính giữa mMRC và CCQ với SGRQ cho phép tính điểm cắt tương ứng của mMRC và
CCQ.
Kết quả: Hệ số tương quan giữa mMRC với BDI, 6MWD và SGRQ là – 0,74; – 0,50 và 0,64 (p < 0,01).
Hệ số tương quan giữa CCQ với BDI, 6MWD và SGRQ là – 0,70; – 0,47 và 0,73 (p < 0,01). Điểm cắt phân biệt
triệu chứng ít hay nhiềucủa CCQ và mMRC đều bằng 1.
Kết luận: Để đánh giá triệu chứng lâm sàng BPTNMT, CCQ có giá trị đại diện tốt hơn mMRC. Điểm cắt
phân biệt triệu triệu chứng ít hay nhiều của mMRCvà CCQ đều bằng 1.
Từ khóa: Khó thở, khả năng gắng sức, chất lượng cuộc sống, BPTNMT.

ABSTRACT
COMPARISON VALUE OF mMRC AND CCQ FORSYMPTOM ASSESSMENT IN CHRONIC
OBSTRUCTIVE PULMONARY DISEASE
Le Khac Bao * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 541 - 548
Background: GOLD 2014 recommends the assessment of symptoms in chronic obstructive pulmonary


disease (COPD) using either one of three scales: mMRC, CAT or CCQ. Their respective cut-off points are 2, 10
and 1 – 1.5. GOLD has not mentioned the preferred scale. Evidence shows that the use of CAT or mMRC leads to
two different classification results.
Methodology: A descriptive cross sectional study was conducted on 151 patients with COPD at outpatient
respiratory department of Medical University Center at HCMC from Jan 2009 to Jan 2011.We find the
correlation ratios between mMRC and CCQ with dyspnea severity (BDI), exercise capacity (6MWD), quality of
life (SGRQ). The two linear regression equations between mMRC and CCQ with SGRQ allow calculating the
respective cut–off points for mMRC and CCQ.
Results: The correlation ratios between mMRC with BDI, 6MWD and SGRQ are – 0.74; – 0.50 and
0.64 respectively (p < 0.01). The correlation ratios between CCQ with BDI, 6MWD and SGRQ are – 0.70; –
0.47 and 0.73 respectively (p < 0.01). The cut–off points to differentiate more and less symptoms of both
mMRC and CCQ are 1.
* Bộ môn Nội, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: ThS. Lê Khắc Bảo
ĐT: 0908.888.702

Hô Hấp

Email:

541


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015

Conclusion: To assess symptoms in COPD, CCQ has a higher representative value than mMRC. The cut–
off points to differentiate more and less symptoms of both mMRC and CCQ are 1.
Key words: dyspnea, exercise capacity, quality of life, COPD.


ĐẶT VẤNĐỀ
Năm 2011, GOLD thay đổi khuyến cáo đánh
giá lâm sàng BPTNMT từ dựa trên một thành
phần sang nhiều thành phần: triệu chứng lâm
sàng, tiền căn đợt cấp, chức năng hô hấp8). Để
đánh giá thành phần triệu chứng lâm sàng,
GOLD 2014 khuyến cáo dùng 1 trong 3 thang
điểm mMRC, CAT hoặc CCQ nhưng lại không
xác định rõ nên ưu tiên dùng thang điểm nào9).
Paul Jones thấy rằng khi lấy điểm SGRQ làm
mốc, điểm cắt mMRC = 2 không tương đương
với điểm cắt CAT = 10 trong phân loại bệnh
nhân thành nhóm ít và nhiều triệu
chứng(12).Sunmin Kim nhận thấy thay đổi tiêu
chí phân loại từ mMRC sang CAT đã làm số
bệnh nhân được phân vào nhóm nhiều triệu
chứng (nhóm B, D) tăng đáng kể(16). Kết quả
nghiên cứu của Summin Kim cũng lập lại trên
nghiên cứu của Ciro Casanova(5)và củaDavid
Price(27). David Price thấy thay đổi tiêu chí phân
loại từ mMRC sang CAT làm thay đổi phân loại
của 53,6% bệnh nhân, trong số đó 99,6% chuyển
từ nhóm ít triệu chứng (nhóm A, C) sang nhóm
nhiều triệu chứng (nhóm B, D)(27). GOLD 2014
cũng thừa nhận điểm cắt CCQ = 1 – 1,5 là áp đặt
vì thiếu chứng cứ(9).
Nghiên cứu tương quan giữa các thang điểm
đại diện với các biến số đánh giá triệu chứng lâm
sàng BPTNMT cho phép xác định được thang

điểm ưu tiên đồng thời xác định được điểm cắt
chính xác cho từng thang điểm. Vì thế chúng tôi
tiến hành đề tài nghiên cứu: “So sánh giá trị
điểm mMRC và CCQ trong đánh giá triệu chứng
lâm sàng BPTNMT”.
Mục tiêu nghiên cứu

Tổng quát
So sánh giá trị điểm mMRC và CCQ trong
đánh giá triệu chứng lâm sàng BPTNMT.

542

Chuyên biệt
Xác định hệ số tương quan giữa mMRC và
CCQ lần lượt với BDI, 6MWD, SGRQ trong
đánh giá triệu chứng lâm sàng BPTNMT.
Xác định phương trình hồi qui tuyến tính
giữa mMRC và CCQ với SGRQ và tính điểm cắt
của mMRC và CCQ.

ĐỐI TƯỢNG- PHƯƠNG PHÁPNGHIÊNCỨU
Thiết kế nghiên cứu
Cắt ngang mô tả phân tích.
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân BPTNMT tại Tp.HCM và các tỉnh
lân cận đến khám tại phòng khám hô hấp
BV.ĐHYD Tp.HCM từ tháng 01/2009 – 01/2011.

Tiêu chuẩn nhận bệnh

Bệnh nhân thỏa mãn tất cả các tiêu chuẩn
chọn bệnh:
Nam hoặc nữ tuổi ≥ 40
-Có ≥ 1 triệu chứng lâm sàng chỉ điểm
BPTNMT:
Khó thở khi gắng sức, dai dẳng, tiến triển
nặng dần hàng tháng hay hàng năm.
Ho, khạc đàm kéo dài ≥ 3 tuần.
-Tiền căn tiếp xúc yếu tố nguy cơ:
Đã từng hay đang hút thuốc lá ≥ 10 gói.năm
và / hoặc
Đã từng hay đang tiếp xúc chất đốt sinh khối
(biomass) ≥ 10 giờ.năm.
FEV1/FVC sau trắc nghiệm giãn phế quản <
0,7.
Tiêu chuẩn loại bệnh
Bệnh nhân vi phạm ít nhất một tiêu chuẩn
loại bệnh:
-Tiền căn bệnh lý:
Hen suyễn, dãn phế quản, ung thư phế
quản, lao phổi, bệnh phổi mô kẽ, cắt thùy phổi,

Chuyên Đề Nội Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
thuyên tắc phổi, tràn dịch màng phổi, tràn khí
màng phổi, gù vẹo cột sống.
Suy tim trái, đau thắt ngực không ổn định
hoặc nhồi máu cơ tim một tháng trước đó, tai

biến mạch máu não.
Di chứng sốt bại liệt, chấn thương gãy xương
chi dưới, đoạn chi dưới, biến dạng khớp do viêm
khớp, suy tĩnh mạch chi dưới.
-Tình trạng lúc khám:
Không hiểu tiếng Việt để trả lời các bộ câu
hỏi: mMRC, BDI, CCQ, SGRQ.
Nhịp tim> 120 lần/phút, huyết áp > 180/100
mmHg. Không thể hợp tác đo 6MWT.
Có chống chỉ định đo phế thân ký
không thể hợp tác đo phế thân ký.

(7,21)

hoặc

-Các xét nghiệm hỗ trợ:
X quang ± CT scan: lao phổi, dãn phế quản,
u phổi, bệnh phổi mô kẽ, tràn khí / dịch màng
phổi.
Soi đàm: trực trùng kháng cồn acid.
Điện tâm đồ ± siêu âm tim: rối loạn nhịp,

Nghiên cứu Y học

Chức năng hô hấp
Đánh giá với máy phế thân kế của hãng
CareFusion (Hoa Kỳ):
Tắc nghẽn luồng khí đánh giá với % FEV1 so
với dự đoán, tỷ lệ FEV1/ FVC.

Tăng kháng lực đường thở đánh giá với %
sGaw so với dự đoán.
Ứ khí phế nang đánh giá với % FRC so với
dự đoán, tỷ lệ RV/TLC.
Cách đánh giá các biến số nghiên cứu
Bệnh nhân tự đọc và trả lời câu hỏi mMRC,
SGRQ, CCQ. Nếu bệnh nhân không tự đọc
được, bác sỹ sẽ đọc to cho bệnh nhân nghe,
không giải thích thêm. Bệnh nhân không mang
bộ câu hỏi về nhà trả lời, người thân đi kèm
không được giải thích khibệnh nhân trả lời câu
hỏi.Đối với bộ câu hỏi BDI: bác sỹ hỏi và cho
điểm. Một bác sỹ hỏi, cho điểm BDI trong suốt
nghiên cứu để tránh biến thiên giữa hai người
đánh giá.Trình tự trả lời mMRC, CCQ, SGRQ và
cho điểm BDI, được thay đổi ngẫu nhiên để

thiếu máu cơ tim, suy tim.

tránh kết quả trả lời bị tác động qua lại khi trả lời

Các biến số nghiên cứu

liên tiếp các bộ câu hỏi.

Đặc điểm dân số học

Trắc nghiệm đi bộ sáu phút (6MWT)được

Tuổi – Giới – Chiều cao – Cân nặng.


thực hiện trên một hành lang dài 40 m, lót gạch

Tình trạng hút thuốc lá hiện tại.

20x20 cm. Hai bên hành lang, mỗi 5 m có một

Tiền căn hút thuốc lá ± tiếp xúc chất đốt sinh

vạch đánh dấu giúp tính khoảng cách đi. Hai

khối.

ghế nhựa được đặt ở hai đầu hành lang để đánh

Tiền căn đợt cấp BPTNMT: số đợt cấp trong
12 tháng trước đó.

dấu vị trí quanh lại. Qui trình thực hiện và ghi

Triệu chứng lâm sàng

ATS 2002(2).

Mức độ khó thở đánh giá với bộ câu hỏi
mMRC (20) và BDI (19).

Phân tích thống kê

Khả năng gắng sức đánh giá với khoảng


trữ và xử lý dữ liệu.

cách đi bộ sáu phút 6MWD (2).
Chất lượng cuộc sống đánh giá với bộ câu
hỏi CCQ và SGRQ (9).

Hô Hấp

nhận kết quả của 6MWT tuân thủ hướng dẫn

Phần mềm SPSS 15.0 được sử dụng để lưu
Phân tích tương quan đơn biến giữa mMRC
và CCQ lần lượt với BDI, 6MWD, SGRQ.

543


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015

Nghiên cứu Y học

Vẽ biểu đồ tương quan đơn biến giữa

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

mMRC và CCQ với SGRQ, qua đó xác định

Đặc điểm dân số nghiên cứu


phương trình hồi qui tuyến tính và điểm cắt

174 bệnh nhân đồng ý tham gia.23 bệnh
nhân có tiêu chuẩn loại gồm:9 lao phổi, 4 gù
vẹo, 3 dãn phế quản, 2 suy tim, 5 không thể đo
phế thân ký. Cuối cùng,151 bệnh nhân được
thu dung.

của mMRC và CCQ.

Bảng 1: Đặc điểm dân số nghiên cứu
Đặc điểm dân số học (n = 151)

Triệu chứng &chức năng phổi (n = 151)

Tuổi

66 ± 11

Mức độ khó thở

Giới nam, n (%)

140 (93)

mMRC

1,8 ± 1,1

21 ± 5


BDI

6,5 ± 2,7

2

BMI, kg/m

Tình trạng hút thuốc lá

Khả năng gắng sức

Đang hút, n (%)

65 (43)

6MWD (m)

Đã cai, n (%)

76 (50)

Chất lượng cuộc sống

Không hút thuốc lá, n (%)

10 (7)

SGRQ


51 ± 18

CCQ

1,8 ± 1,0

Tiền căn hút thuốc lá

476 ± 114

Tuổi bắt đầu hút thuốc lá

19 ± 5

Tắc nghẽn luồng khí

Số gói.năm

43 ± 22

Post FEV1 (% dự đoán)

56 ± 20

Tiếp xúc chất đốt sinh khối, n (%)

129 (85)

Post FEV1/FVC (%)


47 ± 12

Số đợt cấp 12 tháng trước

Tăng kháng lực đường thở

0, n (%)

112 (74)

Post sGaw (% dự đoán)

1, n (%)

16 (11)

Ứ khí phế nang

≥ 2, n (%)

23 (15)

Post FRC (% dự đoán)

27 ± 14

154 ± 80

mMRC: Điểm khó thở theo bộ mMRC. BDI: Điểm khó thở tính theo chỉ số BDI. SGRQ: Điểm chất lượng cuộc sống SGRQ.

CCQ: Điểm chất lượng cuộc sống CCQ. 6MWD: Khoảng cách đi bộ 6 phút. Post: Sau trắc nghiệm giãn phế quản

Hệ số tương quan giữa giữa mMRC và CCQ lần lượt với BDI, 6MWD, SGRQ
Bảng 2: Hệ số tương quan giữa mMRC, CCQ với BDI, 6MWD, SGRQ
n = 151

BDI

6MWD

SGRQ

mMRC

– 0,74 (p < 0,001)

– 0,50(p < 0,001)

0,64(p < 0,001)

CCQ

– 0,70 (p < 0,001)

– 0,47(p < 0,001)

0,73(p < 0,001)

mMRC: Điểm khó thở theo bộ mMRC. BDI: Điểm khó thở tính theo chỉ số BDI. SGRQ: Điểm chất lượng cuộc sống SGRQ


544

Chuyên Đề Nội Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015

Nghiên cứu Y học

Phương trình hồi qui tuyến tính giữa mMRC và CCQ với SGRQ; Điểm cắt mMRC và CCQ
Linear Regression through the Origin


Điểm mMRC Điểm CCQ

4





MRC visit 1



3






          

MRC visit 1 = 0.04 * SGRQ_total_1

         

2



1



   

  

     

 







Điểm SGRQ



0
0.0



 

 

25.0

  

 

 

50.0

75.0

total SGRQ visit 1

Điểm SGRQ
Biểu đồ 1: Tương quan mMRC và SGRQ. SGRQ:

Biểu đồ 2: Tương quan CCQ và SGRQ SGRQ: điểm


Điểm chất lượng cuộc sống tính theo bộ câu hỏi SGRQ.

chất lượng cuộc sống tính theo bộ câu hỏi SGRQ. CCQ:

mMRC: Điểm khó thở tính theo bộ câu hỏi khó thở mMRC.

điểm chất lượng cuộc sống tính theo bộ câu hỏi CCQ.

Phương trình hồi qui tuyến tính: mMRC = 0,04 x SGRQ

Phương trình hồi qui tuyến tính: CCQ = 0,04 x SGRQ

Biểu đồ phân tán tương quan giữa mMRC
với SGRQ (Biểu đồ 1) giúp thành lập phương
trình hồi qui tuyến tính giữa mMRC và SGRQ.
Biểu đồ phân tán tương quan giữa CCQ với
SGRQ (Biểu đồ 2) giúp thành lập phương trình
hồi qui tuyến tính giữa CCQ và SGRQ.
Hai phương trình hồi qui tuyến tính giữa
mMRC, CCQ và SGRQ ở trên cho phép tính được
SGRQ = 25 tương đương CCQ = 1 và mMRC = 1.
SGRQ = 25 được dùng làm điểm mốc phân loại
BPTNMT thành nhóm ít hay nhiều triệu
chứng(23). Do vậy, CCQ = 1 hay mMRC = 1 cũng
có thể làm điểm cắt phân loại BPTNMT thành
nhóm ít hay nhiều triệu chứng.

Hô Hấp

BÀNLUẬN

Tương quan giữa mMRC với mức độ khó thở,
khả năng gắng sức, chất lượng cuộc sống
Bảng 3: Tương quan giữa mMRC với mức độ khó
thở, khả năng gắng sức, chất lượng cuộc sống
Nghiên cứu
(6)

Chhabra, S. K.
(4)
Camargo Lilia Azzi
(3)
Lonneke M Boer
(14)
Paul W Jones
Nguyễn Ngọc Phương
(25)
Thư
Chúng tôi

Khả
Mức
Cỡ
năng
độ khó
mẫu
gắng
thở
sức
88 – 0,67
50 – 0,60 – 0,51

128
– 0,41
2294
169
151 – 0,74

Chất
lượng
cuộc
sống

0,62
0,51

– 0,50

0,64

Tất cả các hệ số tương quan đều có ý nghĩa thống kê với p <
0,01

Tương tự nghiên cứu của Camargo Lilia
Azzi(4) và Lonneke M Boer(3), chúng tôi xác
định tương quan cóý nghĩa thống kê mức độ
vừa giữa mMRC với khả năng gắng sức. Do

545


Nghiên cứu Y học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015

hệsố tương quan ở mức vừa, Lonneke M Boer
kết luận mMRC không thểđại diện khả năng
gắng sức và đề nghị GOLD 2011 nêu rõ vấn đề
này(3). Tuy nhiên trên thực hành, 6MWT và
SWT không phải là luôn khả thi trong đánh giá
khả năng gắng sức(17).Trong bối cảnh đó, điểm
mMRC vẫn có thểđại diện đánh giá khả năng
gắng sức.Denis E. O’Donnell nêu mMRC như
thang đánh giá khả năng gắng sức quan trọng
ngoài 6MWT và SWT(26). Janwillem WH Kocks
khẳng định điểm mMRC và điểm CCQ chức
năng là phương tiện đánh giá khả năng gắng
sức tốt nhất trên lâm sàng(17).
Thang điểm SGRQ vẫn được xem là chuẩn
mực đểđánh giá triệu chứng lâm sàng tại các thử
nghiệm lâm sàng trong BPTNMT, điểm SGRQ =
25 được chứng minh là điểm cắt phân loại bệnh
nhân BPTNMT thành nhóm triệu chứng ít và
nhiều, trong đó SGRQ < 25 ít gặp trên bệnh nhân
BPTNMT, ngược lại SGRQ ≥ 25 ít gặp trên người
khỏe mạnh(1,23). Nghiên cứu chúng tôi xác định
SGRQ = 25 tương đương mMRC = 1 (Biểu đồ 1).
Khi dùng mMRC đại diện đánh giá triệu chứng
lâm sàng BPTNMT, điểm cắt phân loại thành
nhóm ít và nhiều triệu chứng nên là mMRC = 1
chứ không phải điểm cắt mMRC = 2 của
GOLD(8,9).

Điểm cắt mMRC = 2 do GOLD đề nghị thực
sự là chủđề cho nhiều tranh luận. Nghiên cứu của
Sunmin Kim trên 257 bệnh nhân BPTNMT cho
thấy thay đổi tiêu chí phân loại dựa trên mMRC
hay CAT làm thay đổi khá lớn kết quả phân
loại(16). Kết quả nghiên cứu này đã được khẳng
định một lần nữa trong nghiên cứu của David
Price trên 1659 bệnh nhân BPTNMT(27): thay đổi
tiêu chí phân loại dựa trên mMRC = 2 sang CAT
= 10 dẫn đến thay đổi phân loại của 890 (54%)
bệnh nhân, trong đó 99,7% đổi từ nhóm ít triệu
chứng (A/C) sang nhóm nhiều triệu chứng (B/D),
chỉ 0,3% đổi ngược từ nhóm nhiều triệu chứng
(B/D) sang ít triệu chứng(27). Điểm cắt mMRC = 2
dường như phân nhóm “dưới mức” trong khi đó

546

điểm cắt CAT = 10 phân nhóm “quá mức” triệu
chứng BPTNMT. Điều này dẫn đến nhu cầu phải
chọn lại điểm cắt mMRC và/hoặc CAT sao cho
phân loại dựa trên hai tiêu chí tương đồng. David
Price sử dụng thuật toán thống kê Kappa và
đường cong ROC đề nghịđiểm cắt CAT = 24 – 26
tương đương mMRC = 2(27), nghĩa là chấp nhận
CAT phân nhóm “quá mức” triệu chứng. Paul W
Jones, ngược lại, dựa trên phân tích tương hợp
giữa mMRC và CAT đề nghịđiểm cắt mMRC = 1
tương đương CAT = 10(12), nghĩa là chấp nhận
mMRC phân nhóm “dưới mức” triệu chứng.

Chúng tôi ủng hộđề nghị của Paul W Jones với lý
do là điểm cắt CAT = 10 đã được tính toán dựa
trên phương trình hồi qui tuyến tính: CAT = 1,54
+ 0,36 x SGRQ chứng minh CAT = 10 tương
đương SGRQ = 25, là điểm mốc phân loại bệnh
nhân thành nhóm ít hay nhiều triệu chứng(13).
Nói cách khác, điểm cắt mMRC = 2 đã phân
nhóm “dưới mức”, chứ không phải điểm cắt CAT
= 2 phân nhóm “quá mức” triệu chứng BPTNMT.
Tương quan đơn biến giữa CCQ với mức độ
khó thở, khả năng gắng sức, chất lượng cuộc
sống
Bảng 4: Tương quan giữa CCQ với mức độ khó thở,
khả năng gắng sức, chất lượng cuộc sống
Nghiên cứu
Lonneke M
(6)
Boer
Thys van der
(35)
Molen
Björn
(29)
Ställberg
Chúng tôi

n

Mức độ
khó thở


Khả năng
gắng sức

Chất lượng
cuộc sống

128

– 0,65

– 0,37

0,63

119

0,71

111

0,84

151

– 0,70

– 0,47

0,73


Tương tự nghiên cứu của các tác giả (3,29, 35),
nghiên cứu chúng tôi xác định CCQ tương quan
mạnh với mức độ khó thở và chất lượng cuộc
sống, nhưng chỉ tương quan vừa với khả năng
gắng sức. Như vậy, trên lý thuyết, CCQ có thể
đại diện đánh giá mức độ khó thở và chất lượng
cuộc sống, nhưng không thể đại diện đánh giá
khả năng gắng sức. Tuy nhiên trên thực hành,
cũng như mMRC(25,26), CCQ vẫn có thể được
dùng đại diện đánh giá khả năng gắng sức(17).

Chuyên Đề Nội Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Khi dùng CCQ làm đại diện đánh giá triệu
chứng lâm sàng BPTNMT, điểm cắt CCQ = 1 từ
nghiên cứu chúng tôi (Biểu đồ 2) cũng nằm
trong khoảng giá trị CCQ từ 1 – 1,5 do GOLD
2014 đề nghị(9). Trong phạm vi hiểu biết của
chúng tôi, hiện chưa có nhiều nghiên cứu công
bố về điểm cắt CCQ trong BPTNMT(15).
So sánh giữa mMRC và CCQ vềgiá trị đại
diện đánh giá triệu chứng lâm sàng BPTNMT,
nghiên cứu chúng tôi xác định điểm CCQ tương
quan mạnh với đồng thời chất lượng cuộc sống
và khó thở, tương quan vừa với khả năng gắng
sức, trong khi đó mMRC chỉ tương quan mạnh
với khó thở, tương quan vừa với chất lượng cuộc

sống và khả năng gắng sức (Bảng 2). Kết quả
này gợi ý khả năng đại diện đánh giá triệu
chứng lâm sàng BPTNMT của CCQ tốt hơn
mMRC.
Đề xuất này cũng phù hợp với suy luận
thông thường là CCQ bao gồm ba phần đánh giá
triệu chứng (ho, khó thở), chức năng và tâm
thần(35), mMRC chỉ đánh giá khó thở nên có thể
đánh giá sót các triệu chứng khác như ho, khạc
đàm(20). Khó thở là triệu chứng quan trọng
nhưng không phải là duy nhất trong BPTNMT,
ho kéo dài, khạc đàm thường là triệu chứng xuất
hiện đầu tiên, đồng thời là yếu tố tiên lượng đợt
cấp, nhập viện và tiến triển nặng hơn của
BPTNMT(34). Hiện nay, SGRQ là thước đo đánh
giá triệu chứng lâm sàng tin cậy vì có đề cập
nhiều khía cạnh khác nhau trong BPTNMT(9).
Nghiên cứu chúng tôi xác định SGRQ tương
quan mạnh với CCQ nhưng chỉ tương quan vừa
với mMRC (Bảng 2).Nghiên cứu của các tác giả
khác cũng xác định tương quan mạnh giữa CCQ
và SGRQ(29,35) và ủng hộ đề xuất dùng CCQ thay
SGRQ đánh giá chất lượng cuộc sống và triệu
chứng lâm sàng BPTNMT(34).
Nghiên cứu chúng tôi không cho phép so
sánh trực tiếp CCQ và CAT về giá trị đại diện
đánh giá triệu chứng lâm sàng BPTNMT vì
không có số liệu, tuy nhiên có thể cho phép so
sánh gián tiếp thông qua các nghiên cứu khác
(Bảng 5).


Hô Hấp

Nghiên cứu Y học

Bảng 5: Tương quan đơn biến giữa SGRQ với CCQ
và CAT
Nghiên cứu
(12)

Paul W Jones
(29)
Björn Ställberg
(28)
Thomas Ringbaek
(32)
Ioanna G Tsiligianni
(31)
Thái Thị Thùy Linh
(30)
Tạ Hữu Duy
Chúng tôi

Cỡ SGRQ & SGRQ &
mẫu CCQ
CAT
227
0,80
111
0,84

90
0,75
0,73
90
0,77
0,65
100
0,51
100
0,80
151
0,73

Trị số p
< 0,001
< 0,001
< 0,001
< 0,01
< 0,001
< 0,001
< 0,01

Nghiên cứu của Paul W Jones và Björn
Ställberg được thiết kế nhằm kiểm định lần lượt
CAT và CCQ bằng cách so sánh với SGRQ. Dù
hai nghiên cứu này không so sánh trực tiếp CAT
và CCQ trên cùng dân số, hệ số tương quan giữa
SGRQ lần lượt với CAT (r=0,80) và CCQ (r=0,84)
trong hai nghiên cứu đều rất cao và tương
đương nhau gợi ý vai trò tương đương giữa

CAT và CCQ trong đánh giá chất lượng cuộc
sống và triệu chứng lâm sàng BPTNMT(15,29).
Kết quả trên được khẳng định lại một lần
nữa trong hai nghiên cứu so sánh đối đầu trực
tiếp CAT và CCQ của Thomas Ringbaek(28) và
Ioanna G Tsiligianni(32). Thomas Ringbaek so
sánh CAT và CCQ trên 90 bệnh nhân BPTNMT
giai đoạn nặng tham gia phục hồi chức năng hô
hấp(28), Ioanna G Tsiligianni so sánh CAT và
CCQ trên 90 bệnh nhân BPTNMT ở mọi giai
đoạn nặng của bệnh(32). Cả hai nghiên cứu đều
thấy vai trò tương đương giữa CAT và CCQ. Sự
khác biệt nếu có giữa CAT và CCQ, như đã chỉ
ra từ nghiên cứu của Ioanna G Tsiligianni, chỉ là
sự ưa thích sử dụng của bệnh nhân mà thôi,
trong đó 61% bệnh nhân cho rằng CCQ phản
ảnh tốt triệu chứng hơn CAT vì có nhiều chi tiết
hỏi về khó thở vốn quan trọng với bệnh nhân
hơn là câu hỏi về giấc ngủ hay là sức sống
(energy)(32).
Nghiên cứu kiểm định CAT tại Việt Nam
của Thái Thị Thùy Linh trên 100 bệnh nhân tại
bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM cho r = 0,51
tương quan giữa CAT và SGRQ(31). Hệ số này
thấp hơn hệ số r = 0,73 tương quan giữa CCQ và
SGRQ từ nghiên cứu chúng tôi. Tuy nhiên, sẽ là
quá vội vàng khi kết luận CCQ tốt hơn CAT

547



Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015

trong đánh giá chất lượng cuộc sống và triệu
chứng lâm sàng BPTNMT tại Việt Nam. Hệ số
tương quan r = 0,51 trong nghiên cứu của Thái
Thị Thùy Linh có thể là ngoại lệ vì thấp hơn rất
nhiều so với kết quả các nghiên cứu kiểm định
CAT từng thực hiện. Các nghiên cứu kiểm định
CAT bằng cách xác định hệ số tương quan giữa
CAT và SGRQ tại Hoa Kỳ (n = 277) cho r =
0,80(15), tại Nhật Bản (n= 301) cho r = 0,82(33), tại
Hàn Quốc (n= 100) cho r = 0,76(11). Nghiên cứu
kiểm định CAT trên 100 bệnh nhân tại bệnh viện
Bạch Mai của Tạ Hữu Duy cho hệ số tương quan
r = 0,80(30). Như vậy, hệ số tương quan r giữa
CAT và SGRQ trong các nghiên cứu cũng tương
tự hệ số r giữa CCQ và SGRQ trong nghiên cứu
chúng tôi.

6.

Tổng quan kết quả 36 nghiên cứu chất lượng
về CAT đã thực hiện từ năm 2009 cho hệ số
tương quan trực tiếp giữa CAT và CCQ trên
BPTNMT ngoài đợt cấp dao động trong khoảng
0,68 – 0,78(10). CCQ và CAT vẫn tương quan
mạnh trong và sau đợt cấp BPTNMT bất kể đợt

cấp phải nhập viện hay chỉ cần điều trị ngoại trú
với r = 0,75 – 0,78(22). Kết quả này một lần nữa
khẳng định có thể dùng CCQ hay CAT đại diện
đánh giá triệu chứng lâm sàng BPTNMT với vai
trò như nhau.

14.

KẾT LUẬN

19.

Để đánh giá triệu chứng lâm sàng BPTNMT,
CCQ có giá trị đại diện tốt hơn mMRC. Điểm cắt
phân biệt triệu triệu chứng ít hay nhiều của
mMRC và CCQ đều bằng 1.

TÀI LIỆU THAMKHẢO
1.
2.

3.

4.

5.

Agusti A, et al. (2010)."Characterisation of COPD heterogeneity
in the ECLIPSE cohort". Respir Res, vol 11, pp. 122.
American Thoracic Society (2002). "ATS statement: guidelines

for the six-minute walk test". Am J Respir Crit Care Med, vol
166(1), pp. 111-7.
Boer LM, et al. (2012). "How do dyspnoea scales compare with
measurement of functional capacity in patients with COPD and
at risk of COPD?". Prim Care Respir J, vol 21(2), pp. 202-7.
Camargo LA, et al (2010). "Dyspnea in COPD: beyond the
modified Medical Research Council scale". J Bras Pneumol, vol
36(5), pp. 571-8.
Casanova C et al. (2014). "New GOLD classification:
longitudinal data on group assignment". Respir Res, vol 15, p. 3.

548

7.
8.

9.

10.
11.

12.

13.

15.
16.

17.


18.

20.
21.
22.

23.

24.

25.

Chhabra SK, et al (2009). "Evaluation of three scales of dyspnea
in chronic obstructive pulmonary disease". Ann Thorac Med,
vol 4(3), pp. 128-32.
Cooper BG (2011)."An update on contraindications for lung
function testing". Thorax, vol 66(8), pp. 714-23.
Global Initiative for Chronic Obstructive Lung Disease (2011).
Global Strategy for the Diagnosis, Management and Prevention
of Chronic Obstructive Pulmonary Disease.
Global Initiative for Chronic Obstructive Lung Disease (2014).
Global Strategy for the Diagnosis, Management and Prevention
of Chronic Obstructive Pulmonary Disease.
Gupta N, et al. (2014). "The COPD assessment test: a systematic
review". Eur Respir J. 44(4): 873 - 884
Hwang YI, et al. (2013). "A Validation Study for the Korean
Version of Chronic Obstructive Pulmonary Disease Assessment
Test (CAT). "Tuberc Respir Dis (Seoul), vol 74(6), pp. 256-63.
Jones PW, et al. (2013). "Comparisons of health status scores
with MRC grades in COPD: implications for the GOLD 2011

classification". Eur Respir J, vol 42(3), pp. 647-54.
Jones, PW, et al. (2011). "Properties of the COPD assessment test
in a cross-sectional European study". Eur Respir J, vol 38(1), pp.
29-35.
Jones PW, et al. (2012). "Patient-centred assessment of COPD in
primary care: experience from a cross-sectional study of healthrelated quality of life in Europe". Prim Care Respir J, vol 21(3),
pp. 329-36.
Jones PW, et al. (2009). "Development and first validation of the
COPD Assessment Test". Eur Respir J, vol 34(3), pp. 648-54.
Kim S, et al. (2013). "Differences in classification of COPD group
using COPD assessment test (CAT) or modified Medical
Research Council (mMRC) dyspnea scores: a cross-sectional
analyses". BMC Pulm Med, vol 13, pp. 35.
Kocks JW, et al. (2011). "Functional status measurement in
COPD: a review of available methods and their feasibility in
primary care". Prim Care Respir J, vol 20(3), pp. 269-75.
Kon SS, et al. (2014). "The clinical chronic obstructive pulmonary
disease questionnaire: cut point for GOLD 2013 classification".
Am J Respir Crit Care Med, vol 189(2), pp. 227-8.
Mahler DA, et al. (1984). "The measurement of dyspnea.
Contents, interobserver agreement, and physiologic correlates
of two new clinical indexes". Chest, vol 85(6), pp. 751-8.
Mahler DA, Wells CK (1988). "Evaluation of clinical methods for
rating dyspnea". Chest, vol 93(3), pp. 580-6.
Miller MR, et al. (2005). "General considerations for lung
function testing". Eur Respir J, vol 26(1), pp. 153-61.
Miravitlles M, et al. (2013). "Course of COPD assessment test
(CAT) and clinical COPD questionnaire (CCQ) scores during
recovery from exacerbations of chronic obstructive pulmonary
disease". Health Qual Life Outcomes, vol 11, pp. 147.

Miravitlles M, et al. (2009). "Prevalence of COPD in Spain:
impact of undiagnosed COPD on quality of life and daily life
activities". Thorax, vol 64(10), pp. 863-8.
Nishimura K, et al. (2014). "Reanalysis of the Japanese
experience using the combined COPD assessment of the 2011
GOLD classification". Respir Investig, vol 52(2), pp. 129-35.
Nguyễn Ngọc Phương Thư, Lê Thị Tuyết Lan (2005). "Khảo sát
sự tương quan giữa mức độ khó thở và FEV1 với chất lượng
cuộc sống ở bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính". Y học
thành phố Hồ Chí Minh, tập 9(1), tr. 11 - 15.

Chuyên Đề Nội Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
26. O'Donnell DE, et al (2014). "Activity restriction in mild COPD: a
challenging clinical problem". Int J Chron Obstruct Pulmon Dis,
vol 9, pp. 577-88.
27. Price DB, et al. (2014). "Real-world characterization and
differentiation of the Global Initiative for Chronic Obstructive
Lung Disease strategy classification". Int J Chron Obstruct
Pulmon Dis, vol 9, pp. 551-61.
28. Ringbaek T, et al (2012). "A comparison of the assessment of
quality of life with CAT, CCQ, and SGRQ in COPD patients
participating in pulmonary rehabilitation". COPD, vol 9(1), pp.
12-5.
29. Stallberg B, et al. (2009)."Validation of the clinical COPD
Questionnaire (CCQ) in primary care". Health Qual Life
Outcomes, vol 7, pp. 26.
30. Tạ Hữu Duy (2011). Nghiên cứu áp dụng bộ câu hỏi CAT đá

nh
giáchất lượng cuộc sống bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính tại Trung
tâm Hô hấp bệnh viện Bạch Mai. Luận án thạc sỹ y học. Trường
đại học Y Hà Nội.
31. Thái Thị Thùy Linh, Lê Thị Tuyết Lan (2012). "Ứng dụng bộ câu
hỏi CAT phiên bản tiếng Việt đểđánh giáchất lượng cuộc sống

Hô Hấp

32.

33.
34.

35.

Nghiên cứu Y học

ởbệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính". Y học thành phố
Hồ Chí Minh, tập 16(1), tr. 33-38.
Tsiligianni IG, et al. (2012). "Assessing health status in COPD. A
head-to-head comparison between the COPD assessment test
(CAT) and the clinical COPD questionnaire (CCQ)". BMC Pulm
Med, vol 12, pp. 20.
Tsuda T, et al. (2012). "Development of the Japanese version of
the COPD Assessment Test". Respir Investig, vol 50(2), pp. 34-9.
Van der Molen T, et al (2013). "COPD management: role of
symptom assessment in routine clinical practice". Int J Chron
Obstruct Pulmon Dis, vol 8, pp. 461-71.
Van der Molen T, et al. (2003). "Development, validity and

responsiveness of the Clinical COPD Questionnaire". Health
Qual Life Outcomes, vol 1, pp.

Ngày nhận bài báo:

07/11/2014

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

30/10/2014

Ngày bài báo được đăng:

10/01/2015

549



×