Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Đánh giá kết quả ban đầu của phẫu thuật cắt đốt nội soi bổ sung sớm trong điều trị bướu bàng quang nông bằng phẫu thuật cắt đốt nội soi bổ sung sớm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.44 KB, 5 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ BAN ĐẦU CỦA PHẪU THUẬT CẮT ĐỐT NỘI SOI 
BỔ SUNG SỚM TRONG ĐIỀU TRỊ BƯỚU BÀNG QUANG NÔNG BẰNG 
PHẪU THUẬT CẮT ĐỐT NỘI SOI BỔ SUNG SỚM 
Vũ Lê Chuyên*, Trần Ngọc Khắc Linh, Nguyễn Tuấn Vinh*, Đào Quang Oánh*,  
Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng*, Nguyễn Tiến Đệ*, Nguyễn Vĩnh Tuấn*, Nguyễn Văn Ân*,  
Chung Tuấn Khiêm*, Trần Thanh Nhân*, Lê Văn Hiếu Nhân*, Nguyễn Phước Vĩnh** 

TÓM TẮT 
Đặt vấn đề và mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả của phẫu thuật cắt đốt nội soi bổ sung sớm trong 
điều trị ung thư bàng quang nông. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Từ tháng 1/2011, tại Bệnh viện Bình Dân, bệnh nhân phù hợp 
với tiêu chuẩn chọn mẫu được phân bố ngẫu nhiên vào nhóm bệnh và nhóm chứng. Các trường hợp nhóm bệnh 
sẽ được thực hiện cắt đốt nội soi bổ sung sớm trong vòng 4‐6 tuần. Các trường hợp trong nhóm chứng sẽ được 
theo dõi thường quy bằng nội soi bàng quang tiêu chuẩn. 
Kết  quả:  Có 30 trường hợp được đưa vào nghiên cứu, trong đó có 14 trường hợp được CĐNS bổ sung 
sớm, có 4/14 (28,5%) phát hiện còn mô bướu tại sẹo cắt cũ. Trong đó, có 2/4 (50%) trường hợp từ chuyển giai 
đoạn từ Ta lên T1. Tuy nhiên, không có trường hợp nào thay đổi độ biệt hóa. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi 
kiểm định bằng phép kiểm Chi bình phương có hiệu chỉnh. Trong 16 trường hợp theo dõi thường quy, chỉ có 1/16 
(6,3%) trường hợp phát hiện tái phát qua nội soi thường quy và không có trường hợp nào chuyển độ biệt hóa 
cũng như giai đoạn. 
Kết luận: Cắt đốt nội soi bổ sung sớm trong điều trị bướu bàng quang xâm lấn lớp cơ nông cho thấy một số 
kết quả khả quan trong chẩn đoán, điều trị, tiên lượng bệnh. 
Từ khóa: cắt đốt nội soi bổ sung sớm, ung thư bàng quang nông, thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có 
nhóm chứng  

ABSTRACT 
THE ROLE OF EARLY RE‐TRANSURETHRAL RESECTION OF SUPERFICIAL BLADDER TUMOR – 


A RANDOMIZED TRIAL CONTROL AT BINH DAN HOSPITAL 
Vu Le Chuyen, Tran Ngoc Khac Linh, Nguyen Tuan Vinh, Dao Quang Oanh,  
Nguyen Phuc Cam Hoang, Nguyen Tien De, Nguyen Vinh Tuan, Chung Tuan Khiem,  
Nguyen Van An, Tran Thanh Nhan, Le Van Hieu Nhan, Nguyen Phuoc Vinh  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3‐ 2013: 268 ‐ 272 
Introduction and objectives: To evaluate the usefulness of early second transurethral resection for newly 
diagnosed superficial bladder tumors. 
Patients  and  methods:  From  1‐2011,  new  patients  diagnosed  with  superficial  bladder  tumors  in  first 
completely  transurethral  resection  of  bladder  tumor  has  randomly  assigned  into  two  groups:  early  re‐TURBP 
within 4‐6 weeks and routinely follow up by standard cystoscopy each 3 months in first year. Variables analyzed 
* Khoa Niệu bệnh viện Bình Dân  
Tác giả liên lạc: BS.Trần Ngọc Khắc Linh  

268

 
ĐT: 0989047088   

 

Email:   

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

Nghiên cứu Y học

included age, gender, multifocal T1 disease, carcinoma in situ, grade, recurrence rate, and restaging status. End 

points were overall and disease‐specific survival. Patients with incomplete primary resections were excluded. 
Results:  We  included  30  patients,  including  14  in  early  re‐TURBP  group  and  16  in  routine  follow‐up 
group, adapted with inclusion criteria. Residual disease was present in 4/14 (28.6%) patients undergoing early 
re‐resection and 1 (6.3%) patients in the routine check cystoscopy group. Upstaging of tumours from T1 to T2 
was demonstrated in 2/4 (50%) and no case within these respective groups. Grade of operating surgeon was not a 
predictor of adequacy of resection or tumour persistence/recurrence. Survival was not statistically different for 
patients who underwent an early re‐TURBP versus those who were followed by standard cystoscopy. 
Conclusions: A second transurethral bladder for resection may be warranted for superficial tumor and and 
Restaging transurethral resection identifies better patients with T1 bladder cancer who are at high risk for early 
tumor progression, justifying immediate cystectomy or intra‐vesical chemotherapy 
Key words: early re‐transurethral resection, superficial bladder cancer, randomized trial control 

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ung  thư  bàng  quang  là  bệnh  thường  gặp 
nhất trong các ung thư đường Tiết Niệu tại Việt 
Nam. Trên thế giới, bệnh đứng hàng thứ 2 trong 
các  ung  thư  đường  Tiết  Niệu  với  tần  suất  mới 
mắc  là  10,1/100.000  cho  nam  và  2,5/100.000  cho 
nữ giới. Tại thời điểm chẩn đoán, có khoảng 75‐
85%  các  trường  hợp  ung  thư  bàng  quang  còn 
khu  trú  tại  lớp  niêm  mạc  (giai  đoạn  Ta,  CIS) 
hoặc lớp dưới niêm (giai đoạn T1). Vì vậy, việc 
chẩn đoán đúng giai đoạn và tìm ra một phác đồ 
điều  trị  hợp  lý  cho  bệnh  lý  giai  đoạn  này  rất 
quan  trọng  nhằm  kéo  dài  thời  gian  tái  phát  và 
giảm độ tiến triển của bệnh(2).  
Phẫu thuật cắt đốt nội soi qua ngả niệu đạo 

các  tác  giả  gần  đây  cho  thấy,  ngay  khi  đã  thực 
hiện kỹ thuật CĐNS chuẩn, vẫn còn một lượng 

đáng kể bướu còn sót lại trong từ 30‐50% trường 
hợp,  trong  đó  có  từ  5  đến  20%  ở  giai  đoạn  cao 
hơn. Điều này sẽ dẫn đến hệ quả  là  chẩn  đoán 
giai đoạn cũng như tiên lượng và dự hậu không 
đúng(3,4,12,13,14,15,16). 

Mục tiêu nghiên cứu 
Đánh  giá  hiệu  quả  của  phẫu  thuật  cắt  đốt 
nội soi bổ sung sớm trong điều trị ung thư bàng 
quang nông. 

Tiêu chuẩn chọn bệnh và loại trừ 
Ung thư tế bào chuyển tiếp của bàng quang, 
giai đoạn bướu nông (Ta, T1 hoặc T2a). 

nông.  Mục  đích  điều  trị  là  lấy  đi  toàn  bộ  mô 

Thể tích bướu không quá lớn (<2cm) và có có 
thể cắt trọn trong lần phẫu thuật đầu tiên. 

bướu  đại  thể  nhằm  làm  sạch  bướu  và  định 

Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu. 

là  điều  trị  chuẩn  cho  các  bướu  bàng  quang 

chính  xác  giai  đoạn  để  có  chẩn  đoán  và  tiên 

Tiêu chuẩn loại trừ 


lượng điều trị bệnh chính xác. Đây cũng là yếu 

Ung  thư  bàng  quang  không  phải  tế  bào 
chuyển tiếp. 

tố  quan  trọng  nhất  ảnh  hưởng  đến  hiệu  quả 
điều trị về mặt ung thư học(4). 
Nhiều  phương  pháp  ra  đời  nhằm  nâng  cao 
hiệu quả điều trị của phẫu thuật cắt đốt nội soi 
bướu  bàng  quang  nông  như:  kết  hợp  ánh  sáng 
huỳnh quang xanh, chuẩn hóa kỹ thuật cắt đốt 
nội  soi  (CĐNS),  kết  hợp  hình  ảnh  có  độ  tương 
phản cao, v.v…Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu của 

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  

Ung  thư  bàng  quang  xâm  lấn  lớp  cơ  sâu. 
Ung thư bàng quang tái phát. 
Bệnh nhân không tham gia nghiên cứu. 

269


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Quy trình thực hiện 
Bệnh  nhân  phù  hợp  với  tiêu  chuẩn  chọn 

mẫu được phân bố ngẫu nhiên vào nhóm bệnh 
và nhóm chứng. Tất cả các trường hợp đưa vào 
mẫu nghiên cứu đều được thực hiện phẫu thuật 
cắt đốt nội soi chuẩn làm 2 phần riêng biệt gồm: 
(1) mặt cắt bướu, (2) chân bướu. Các trường hợp 
nhóm bệnh sẽ được thực hiện cắt đốt nội soi bổ 
sung sớm trong vòng 4‐6 tuần lễ tại các vị trí: (1) 
đáy  sẹo  cắt  cũ;  (2)  rìa  sẹo  cắt  cũ;  (3)  vị  trí  nghi 
ngờ tái phát. Các trường hợp trong nhóm chứng 

sẽ được theo dõi thường quy bằng nội soi bàng 
quang  tiêu  chuẩn  mỗi  ba  tháng  trong  vòng  1 
năm  đầu  và  mỗi  6  tháng  trong  năm  tiếp  theo. 
Ngoài ra, tất cả các trường hợp trong cả 2 nhóm 
nghiên  cứu  đều  được  hoá  trị  chu  phẫu  bằng 
Mitomycine C trong vòng 24 giờ sau phẫu thuật. 

KẾT QUẢ  
Tổng  cộng  có  30  trường  hợp  đưa  vào  mẫu 
nghiên  cứu  từ  1/2011  đến  tháng  6  năm  2012, 
trong đó có 14 trường hợp đưa vào nhóm bệnh 
và 16 trường hợp được đưa vào nhóm chứng. 

Bảng 1. Đặc điểm dịch tể và lâm sàng của nhóm nghiên cứu ở lần CĐNS đầu 
CĐNS bổ sung sớm (n=14)

Theo dõi thường quy (n=16)

Số trường hợp


Số trường hợp

Tỉ lệ %

Trung bình ± độ lệch chuẩn
Giới

Độ biệt hóa

8

57,1

9

56,3

Nữ

6

43,9

7

43,8

54,7 ± 12,3

50,8 ± 8,1


> 0,05
> 0,05

Ta

4

28,6

6

37,5

T1

10

71,4

10

62,5

T2a

0

0


0

0

Cao

3

21,4

4

25

Trung bình

8

57,2

10

52,5

Thấp

3

21,4


2

12,5

Nhận  xét:  sự  khác  biệt  không  có  ý  nghĩa 

p

Trung bình ± độ lệch chuẩn

Nam

Tuổi trung bình (năm)
Giai đoạn

Tỉ lệ %

>0,05

>0.05

trường hợp nào chuyển độ biệt hóa cũng như 

thống  kê  giữa  các  đặc  điểm  lâm  sàng  và  cận 

giai đoạn. 

lâm sàng trong nhóm bệnh và nhóm chứng. 

BÀN LUẬN 


Trong 14 trường hợp được CĐNS bổ sung 

Cắt  đốt  nội  soi  bướu  bàng  quang  không 

sớm,  có  4/14  (28,5%)  phát  hiện  còn  mô  bướu 

phải  là  phẫu  thuật  “dễ”.  Yêu  cầu  quan  trọng 

tại  sẹo  cắt  cũ.  Trong  đó,  có  2/4  (50%)  trường 

nhất là phải lấy đi toàn bộ các mô ung thư để 

hợp  từ  chuyển  giai  đoạn  từ  Ta  lên  T1.  Tuy 

hạn chế tái phát. Ngoài ra, để tạo thuận lợi cho 

nhiên,  không  có  trường  hợp  nào  thay  đổi  độ 

nhà  giải  phẫu  bệnh,  mẫu  mô  cắt  ra  phải  có 

biệt hóa. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi 

chất lượng tốt, lấy được trọn bướu  và  đầy  đủ 

kiểm  định  bằng  phép  kiểm  Chi  bình  phương 

các  lớp  của  thành  bàng  quang,  kể  cả  toàn  bộ 

có hiệu chỉnh Yates. 


lớp  cơ  nông  và  sâu  mà  không  làm  “thủng” 

Trong 16 trường hợp theo dõi thường quy, 

bàng  quang  nhằm  tạo  thuận  thợi  cho  hóa  trị 

chỉ  có  1/16  (6,3%)  trường  hợp  phát  hiện  tái 

hỗ trợ trong bàng quang chu phẫu và theo dõi 

phát  qua  nội  soi  thường  quy  và  không  có 

hậu  phẫu.  Điều  này  không  phải  lúc  nào  cũng 

270

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

thực  hiện  được  trong  lần  cắt  đầu  tiên.  Hơn 
nữa, phẫu thuật viên cũng cần phải hạn chế tối 
đa khả năng “thủng” ra khỏi thanh mạc bàng 

Nghiên cứu Y học

nhận  yếu  tố  kinh  nghiệm  PTV  có  ảnh  hưởng 
đến kết quả CĐNS(1).  


nhiên, nghiên cứu cho thấy, hầu hết các trường 

Nhiều  nghiên  cứu  khác  cũng  cho  kết  quả 
tương tự với tỷ lệ phát hiện bướu trong lần cắt 
đốt  nội  soi  bổ  sung  sớm  ít  nhất  là  50%  các 
trường hợp, với tỷ lệ từ 44% Æ 86% bướu hiện 
diện  tại  vị  trí  cắt  đốt  cũ  và  14%  Æ  56%  bướu 
phát  hiện  tại  vị  trí  cũ.  Ngay  cả  khi  được  thực 
hiện với cùng một phẫu thuật viên thì tỷ lệ bướu 
còn  sót  lại  ở  giai  đoạn  T1  cũng  còn  khoảng 
17%(4,8,9,12).  

hợp  tái  phát  sớm  trong  vòng  3  tháng  thường 

Giá trị trong điều trị 

quang cả về mặt đại thể và vi thể. Bướu nhỏ < 
1cm có  thể  được  cắt  nguyên  khối  (phần  bướu 
và  chân  bướu),  trong  khi  bướu  lớn  hơn  cần 
được cắt từng phần, bao gồm phần bướu nhô 
ra ngoài, phần chân bướu có cả các lớp cơ bàng 
quang  và  phần  rìa  của  tổn  thương(2).  Tuy 

có nguyên nhân do phẫu thuật lần đầu không 
triệt để(11). 

Giá  trị  trong  chẩn  đoán  và  đánh  giá  giai 
đoạn 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, 

tỷ lệ còn sót bướu ở lần cắt đầu là 28,5%, trong 
đó có 50% là chuyển độ nặng hơn (Ta Æ T1) và 
không có trường hợp nào thay đổi độ biệt hóa. 
Nghiên  cứu  của  Dalbagi  G.  và  cs  (2002)  thực 
hiện trên 701 trường hợp bướu bàng quang giai 
đoạn  T1  trong  lần  cắt  đốt  nội  soi  đầu  tiên.  Sau 
khi được cắt đốt nội soi bổ sung sớm, tác giả ghi 
nhận có 23% có Ta/CIS, 25% có T1 và có từ  15‐
30%  xâm  lấn  lớp  cơ  (kèm  hay  không  kèm  với 
xâm lấn lớp cơ trong lần cắt đầu tiên)(3). Nghiên 
cứu tiếp theo của tác giả Herr (2008) nhận thấy, 
trong  409  trường  hợp  bướu  bàng  quang  T1  thì 
thấy  đa  số  các  trường  hợp  có  độ  biệt  hóa  kém, 
kết hợp Ta và CIS. Trong đó có 1/3 trường hợp là 
còn  hiện  diện  tế  bào  ung  thư  trong  cắt  đốt  nội 
soi  bổ  sung  sớm(11).  Nghiên  cứu  của  Jonathan 
J.Aning  –  trong  344  trường  hợp  CĐNS  lần  đầu 
có 110 (32%) trường hợp không thấy lớp cơ trên 
giải  phẫu  bệnh.  Hơn  nữa,  khi  thực  hiện  CĐNS 
bổ sung sớm cho 76 trường hợp thì ghi nhận có 
50% vẫn còn tế bào bướu sót lại và 7% là có giai 
đoạn cao hơn (pT2). Tỷ lệ này ở nhóm chỉ theo 
dõi đơn thuần bằng soi bàng quang 3 – 6 tháng 
là 40% và 5%. Ngoài ra, tác giả cũng không ghi 

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  

Cắt  đốt  nội  soi  bổ  sung  sớm  giúp  nâng  cơ 
hội làm sạch bướu trong lòng bàng quang, nhờ 
vậy mà nâng cao được hiệu  quả  của  hóa  trị  hỗ 

trợ  trong  bàng  quang.  Nghiên  cứu  lâm  sàng 
ngẫu  nhiên  cho  thấy  thời  gian  tái  phát  và  thời 
gian  phát  triển  bướu  lâu  hơn  ở  nhóm  được  cắt 
đốt nội soi bổ sung sớm khi so với nhóm chỉ cắt 
đốt  nội  soi  1  lần  duy  nhất(5,7).  Hơn  nữa,  khi  so 
sánh  hiệu  quả  đáp  ứng  của  hóa  trị  trong  bàng 
quang bằng BCG trong 2 nhóm, tác giả Herr và 
cs  cũng  ghi  nhận  đáp  ứng  lâu  dài  của  nhóm 
được cắt đốt nội soi bổ sung sớm tốt hơn so với 
nhóm còn lại(4,9,12). 

Giá trị trong tiên lượng 
Trong nghiên cứu của tác giả Herr và cs thực 
hiện  CĐNS  bổ  sung  sớm  trên  409  trường  hợp 
bướu bàng quang T1, có 67% trường hợp không 
phát hiện tái phát khi và chỉ có 9% trường hợp 
tiến triển khi theo dõi ở trong nhóm không phát 
hiện bướu còn sót lại trong lần CĐNS bổ sung. 
Ngược  lại  ở  trong  nhóm  phát  hiện  còn  bướu 
trong  lần  CĐNS  bổ  sung,  có  78%  trường  hợp 
bướu  tiếp  tục  phát  triển  trong  vòng  2  năm  cho 
dù  đã  hóa  trị  hỗ  trợ  trong  bàng  quang  bằng 
BCG(8,9,10).  Nghiên  cứu  của  tác  giả  Divrik  cho 
thấy tỷ lệ không tái phát trong nhóm được thực 
hiện  CĐNS  bổ  sung  sớm  lần  lượt  là  86,3%, 
77,7%,  68,7%  sau  1‐2‐3  năm.  Sự  khác  biệt  có  ý 
nghĩ thống kê khi tỷ lệ này ở nhóm không được 
cắt  đốt  nội  soi  bổ  sung  sớm  là  47,1%,  42,3%  và 

271



Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

37,0%.  Tất  cả  các  trường  hợp  đều  được  hóa  trị 
trong bàng quang hỗ trợ trong vòng 24h sau khi 
cắt đốt nội soi(6). 

urothelial  carcinoma  with  respect  to  recurrence,  progression 
rate, and disease‐specific survival: a prospective randomised 
clinical trial. Eur Urol, 58(2), 185‐190. 
6.

Divrik,  R.  T.,  Yildirim,  U.,  Zorlu,  F.  &  Ozen,  H.  (2006).  The 
effect  of  repeat  transurethral  resection  on  recurrence  and 
progression  rates  in  patients  with  T1  tumors  of  the  bladder 
who  received  intravesical  mitomycin:  a  prospective, 
randomized clinical trial. J Urol, 175(5), 1641‐1644. 

7.

Divrik,  T.,  Yildirim,  U.,  Eroglu,  A.  S.,  Zorlu,  F.  &  Ozen,  H. 
(2006). Is a second transurethral resection necessary for newly 
diagnosed pT1 bladder cancer? J Urol, 175(4), 1258‐1261. 

8.

Harry  Herr  &  Guido  Dalbagni.  (2011).  Is  ‘second‐look’  (re‐

staging)  transurethral  resection  of  bladder  tumours  a  new 
standard of care? Arab Journal of Urology, 9. 

9.

Herr, H. W. (2005). Restaging transurethral resection of high 
risk  superficial  bladder  cancer  improves  the  initial  response 
to bacillus Calmette‐Guerin therapy. J Urol, 174(6), 2134‐2137. 

10.

Herr,  H.  W.  (2011).  Is  repeat  transurethral  resection  needed 
for  minimally  invasive  T1  urothelial  cancer?  Pro.  J  Urol, 
186(3), 787‐788. 

11.

Herr,  H.  W.  &  Donat,  S.  M.  (2008).  Quality  control  in 
transurethral resection of bladder tumours. BJU Int, 102(9 Pt 
B), 1242‐1246. 

12.

Herr,  H.  W.,  Donat,  S.  M.  &  Dalbagni,  G.  (2007).  Can 
restaging  transurethral  resection  of  T1  bladder  cancer  select 
patients  for  immediate  cystectomy?  J  Urol,  177(1),  75‐79; 
discussion 79. 

13.


Klan,  R.,  Loy,  V.  &  Huland,  H.  (1991).  Residual  tumor 
discovered  in  routine  second  transurethral  resection  in 
patients  with  stage  T1  transitional  cell  carcinoma  of  the 
bladder. J Urol, 146(2), 316‐318. 

14.

Miladi, M., Peyromaure, M., Zerbib, M., Saighi, D. & Debre, B. 
(2003).  The  value  of  a  second  transurethral  resection  in 
evaluating  patients  with  bladder  tumours.  Eur  Urol,  43(3), 
241‐245. 

15.

Schips,  L.,  Augustin,  H.,  Zigeuner,  R.  E.,  Galle,  G., 
Habermann,  H.,  Trummer,  H.,  et  al.  (2002).  Is  repeated 
transurethral  resection  justified  in  patients  with  newly 
diagnosed superficial bladder cancer? Urology, 59(2), 220‐223. 

16.

Schwaibold,  H.  E.,  Sivalingam,  S.,  May,  F.  &  Hartung,  R. 
(2006).  The  value  of  a  second  transurethral  resection  for  T1 
bladder cancer. BJU Int, 97(6), 1199‐1201. 

Giá trị tiên đoán bệnh sau điều trị 
Nhờ vào đánh giá giai đoạn bệnh chính xác 
hơn  cũng  như  khả  năng  làm  sạch  bướu  cao 
hơn,  phác  đồ  điều  trị  tiếp  theo  cũng  sẽ  chính 
xác và hiệu quả và vì vậy sẽ cải thiện được kết 

quả  điều  trị  chung  cũng  như  thời  gian  sống 
không ung thư. 

KẾT LUẬN 
Cắt  đốt  nội  soi  bổ  sung  sớm  trong  điều  trị 
bướu bàng quang xâm lấn lớp cơ nông cho thấy 
một số kết quả khả quan trong chẩn đoán, điều 
trị,  tiên  lượng  bệnh.  Tuy  nhiên,  vẫn  còn  nhiền 
vấn đề còn đặt ra như: (1) Kết hợp sử dụng nội 
soi  huỳnh  quang  có  kết  quả  như  thế  nào?  (2) 
Giai đoạn và độ biệt hóa nào là tốt nhất để ứng 
dụng quy trình trên? (3) Phác đồ điều trị sau khi 
có kết quả CĐNS bổ sung sớm. Vì vậy, cần thiết 
phải  có  những  công  trình  nghiên  cứu  với  số 
lượng mẫu lớn hơn và thời gian theo dõi dài hơn 
để giúp trả lời những câu hỏi trên. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

4.

5.

Aning, J. J., Hotston, M., Pisipatti, S., Davenport, K., Goh, M., 
Walton, M., et al. (2011). Early re‐resection for T1 transitional 

cell carcinoma of the bladder—A study of current practice in 
the  South  West  of  England.  British  Journal  of  Medical  and 
Surgical Urology, 4(1), 18‐23. 
Babjuk, M., Oosterlinck, W., Sylvester, R., Kaasinen, E., Bohle, 
A.,  Palou‐Redorta,  J.,  et  al.  (2011).  EAU  guidelines  on  non‐
muscle‐invasive urothelial carcinoma of the bladder, the 2011 
update. Eur Urol, 59(6), 997‐1008. 
Dalbagni, G., Herr, H. W. & Reuter, V. E. (2002). Impact of a 
second  transurethral  resection  on  the  staging  of  T1  bladder 
cancer. Urology, 60(5), 822‐824; discussion 824‐825. 
Dalbagni,  G.,  Vora,  K.,  Kaag,  M.,  Cronin,  A.,  Bochner,  B., 
Donat, S. M., et al. (2009). Clinical outcome in a contemporary 
series of restaged patients with clinical T1 bladder cancer. Eur 
Urol, 56(6), 903‐910. 
Divrik, R. T., Sahin, A. F., Yildirim, U., Altok, M. & Zorlu, F. 
(2010). Impact of routine second transurethral resection on the 
long‐term  outcome  of  patients  with  newly  diagnosed  pT1 

 
Ngày nhận bài báo:   

 

10‐05‐2013 

Ngày phản biện nhận xét bài báo:   30‐05‐2013 
Ngày bài báo được đăng:  

 


15–05‐2013 

 

272

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  



×