Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Nhận xét về đặc điểm lâm sàng và kết quả điều trị liệt dây thần kinh VI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.44 KB, 8 trang )

y
của Rucker và Hugonnier. Có lẽ do ngày
nay việc chẩn đoán và điều trị giang mai
thường cho kết quả tốt hơn, hầu hết BN

trị nội khoa):
Có 45 BN liệt dây TK VI được chỉ
định và có khả năng tuân thủ chỉ định

được điều trị ở giai đoạn I, II nên hiếm
thấy liệt dây thần kinh sọ. Ngoài ra một
số bệnh lý mà các tác giả khác [3], [5],
[4], [7] đã đề cập như: bạch hầu, uốn

điều trị trong đó có 25 BN xác định được
nguyên nhân gây liệt, 20 BN không tìm
được nguyên nhân.

Kết quả

Tốt

Khá

Kém

n (45)

32

3



10

%

71,11%

6,67%

22,22

Trong số 10 ca kết quả kém thì 6
BN đến muộn sau 3 tháng phát hiện
bệnh. 3 bệnh nhân thời gian đầu điều trị
bệnh tiến triển tốt sau đó liệt tái phát lại.

20 BN cần được xử lý phẫu thuật
với 25 mắt bị liệt dây TK VI. Tất cả 20
BN này mắt lác liệt không đưa ra được
đường giữa do vậy chúng tôi tiến hành

Chúng tôi cho kiểm tra lại các xét
nghiệm và Xquang phát hiện 1 ca bệnh
nhân u não.
17/20 ca liệt dây TK VI không tìm

phẫu thuật lùi rút cơ trực ngang phối hợp
di thực 1/2 cơ trực đứng theo
Hummelshein.
Kết quả điều trị được đánh giá sau


được nguyên nhân đều cho kết quả điều trị
nội khoa tốt.

mổ 1 tuần, 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng theo
các mức độ dựa vào tình trạng liệt được
kết quả sau:

2.2. Điều trị phẫu thuật giai đoạn liệt đã ổn
định:
Bảng 6. Kết quả phẫu thuật 25 mắt liệt cơ trực ngoài

27


Kết
quả
Tr.C
Lác

Trướ
c
phẫu

Sau phẫu thuật
Tố

Kh




Tố

Kh



Tố

Kh



thuật

t

á

m

t

á

m

t

á


m

1 tuần

1 tháng

3 tháng

6 tháng
Tốt

Kh



á

m

25

22

3

0

23


2

0

24

1

0

24

1

0

Hạn
chế VN

25

17

8

0

19

6


0

19

6

0

19

6

0

Song
thị

20

17

3

0

17

2


1

17

2

1

17

1

2

Lệch
mặt

15

13

2

0

14

1

0


14

0

1

14

0

0

mắt

Kết quả phẫu thuật cho thấy sự cải

Tổn thương trong liệt dây TK VI là: hạn
chế vận nhãn (93,5%), lác mắt (90,9%),
song thị (84,4%) và lệch mặt (54,5%).
Có 22,1% số BN bị mất thị giác hai mắt.
Liệt dây TK VI đơn thuần gặp 90,9%;
một mắt là 77,9% và mắc phải là 97,4%.
Nguyên nhân do sang chấn vùng đầu mặt
là 41,6%; bệnh mạch máu 16,9%; u não
3,9% và không tìm thấy nguyên nhân ở
22,0% số bệnh nhân liệt dây TK VI.
Điều trị nội khoa tích cực trong
giai đoạn đầu kết hợp với điều trị nguyên
nhân tìm được thấy cho kết quả tốt ở

32/45 BN. Phẫu thuật can thiệp vào hai
cơ trực ngang và di thực 1/2 các cơ trực
đứng làm cho biểu hiện lâm sàng của liệt
dây TK VI tiến triển rất đáng khả quan.

thiện đáng kể đối với các triệu chứng của
lác liệt.
Kết quả sau theo dõi 6 tháng tốt
hơn sau 1 tháng phẫu thuật. 24 ca hết lác,
19 ca vận nhãn tốt lên và 17 ca song thị
gần như hết. Phẫu thuật di thực 1/2 cơ
trực trên và trực dưới nhẹ nhàng, hạn chế
được biến chứng thiếu máu hoại tử bán
phần trước như nhiều tác giả đã đề cập
[1],[2],[10].
KẾT LUẬN
Liệt dây TK VI thường gặp ở
những người trong độ tuổi lao động và
không có sự khác biệt về giới. 45,5% liệt
VI có tiền sử sang chấn và 40,2% không
rõ lý do. Song thị và lác mắt là các dấu
hiệu bất thường khiến BN phải đi khám.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
TRẦN THỊ CHU QUÝ (2003), Luận án Thạc sĩ y học, Đại học Y Hà Nội.
2.
R.HUGONNIER ET S. HUGONNIER (1981), Strabismes,
Hétérophories et Paralysies oculo-motrice, Ed Masson, 179 - 184.
28



3.

4.
5.

6.
7.
8.
9.
10.

RICHARDS BW, JONES FR, YOUNGE BR (1992), "Causes and
prognosis in 4278 cases of paralysis of the Doculomotor, Trochlear, and
Abducens Crarial Nerves", Am. J. of Ophthalmology, Vol 113, pp 489 496.
RUCKER C.W. (1966), “The causes of paralysis of the third, fourth
and sixth nerves”, Am. J. Ophthalmol, Vol 61, pp 1293 - 1298.
RUSH J.A., YOUNGE B.R. (1981), "Paralysis of Crarial Nerves III, IV
and VI: cause and prognosis in 1000 cases " Archives of Ophthalmology,
Vol 99, Number 3, pp 76 - 79.
PHẠM VĂN TẦN (1998), "Điều trị phục hồi tổn thương 2 mắt trong phức
hợp điều trị lác cơ năng", Luận án tiến sỹ Y học, Đại học Y Hà nội.
HÀ HUY TIẾN (1972), “Rối loạn vận động nhãn cầu”, “Lác”, Nhãn khoa
tập II, NXB Y học Hà Nội, tr 152 - 241.
HÀ HUY TIẾN (1973), "Di thực toàn bộ hai cơ trực đứng, một phương pháp
mới điều trị liệt nặng cơ trực ngoài", Y học Việt Nam, số 2, tập 63, tr. 37.
HÀ HUY TIẾN, NGUYỄN THÀNH (1977), “Liệt dây TKVI do K vòm
họng”, Thực hành nhãn khoa, Số 3, tr 90 - 99.
HÀ HUY TIẾN, (1978) "Nhân 6 trường hợp liệt dây TK VI do u tiểu não ở

trẻ em", Nhãn khoa thực hành, số 6, tr 171 - 176.

29



×