Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Khảo sát kiến thức về chế độ dinh dưỡng ở bệnh nhân hội chứng thận hư điều trị tại Bệnh viện đa khoa Trung ương Cần Thơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (419.37 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 

Nghiên cứu Y học

KHẢO SÁT KIẾN THỨC VỀ CHẾ ĐỘ DINH DƯỠNG  
Ở BỆNH NHÂN HỘI CHỨNG THẬN HƯ ĐIỀU TRỊ  
TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG CẦN THƠ 
Trần Đặng Đăng Khoa*, Đinh Thị Ngọc Yến* 

TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: khi bệnh nhân (BN) hội chứng thận hư (HCTH) có kiến thức đúng về chế độ dinh dưỡng sẽ có 
tác động hết sức quan trọng đến diễn tiến, tiến trình điều trị cũng như tiên lượng bệnh.  
Mục tiêu: xác định tỷ lệ BN có kiến thức tốt về dinh dưỡng ở BN HCTH, xác định một số yếu tố liên quan 
ảnh hưởng đến kiến thức dinh dưỡng ở BN HCTH.  
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: gồm 38 BN HCTH điều trị tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương 
Cần Thơ từ tháng 9/2012 đến 5/2013.  
Kết quả: Sự thiếu hụt kiến thức của các đối tượng được thể hiện rõ qua tỷ lệ BN có kiến thức chưa tốt về 
dinh dưỡng HCTH rất cao chiếm 94,7%. Kiến thức dinh dưỡng của BN chịu ảnh hưởng bởi trình độ học vấn. 
Sự gia tăng tỷ lệ BN có kiến thức dinh dưỡng tốt theo trình độ học vấn có ý nghĩa thống kê với p=0,009. Bên 
cạnh đó, các nhân tố như tuổi, giới, địa chỉ, nghề nghiệp, mức sống và BN đã tái phát không ảnh hưởng đến kiến 
thức dinh dưỡng HCTH.  
Kết luận: tỷ lệ BN có kiến thức chưa tốt về dinh dưỡng HCTH rất cao, kiến thức dinh dưỡng của BN liên 
quan với trình độ học vấn. 
Từ khóa: hội chứng thận hư, kiến thức dinh dưỡng hội chứng thận hư. 

ABSTRACT 
KNOWLEDGE SERVEY ABOUT NUTRITIONAL DIET IN PATIENTS WITH NEPHROTIC 
SYNDROME TREATED IN CAN THO CENTRAL GENERAL HOSPITAL 
Tran Đang Đang Khoa, Đinh Thi Ngoc Yen 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 4 ‐ 2013: 189 ‐ 194 
Background: when patients nephrotic syndrome have the right knowledge about nutrition will be crucial 


impact on the progression, the treatment process as well as prognosis.  
Objectives: determine the proportion of patients with a good knowledge of nutrition in patients nephrotic 
syndrome,  determine  some  of  relevant  factors  affecting  the  nutritional  knowledge  in  patients  with  nephrotic 
syndrome.  
Patients  and  methods:  38  patients  with  nephrotic  syndrome  are  treated  in  Can  Tho  Central  General 
Hospital from Septemper 2012 to May 2013.  
Results: The lack of knowledge of the subjects is evident in the proportion of patients have no knowledge of 
nutrition  in  nephrotic  syndrome  diet  is  highly  accounted  for  94.7%.  Knowledge  of  nutrition  is  influenced  by 
patient education. An increase in the proportion of patients with good nutritional knowledge by level education is 
statistically significant with p=0.009. Beside that, factors such as age, sex, address, occupation, living standards 
and relapse status do not affect the nutritional knowledge of nephrotic syndrome.  
* Đại học Y Dược Cần Thơ 
Tác giả liên lạc: ThS.BS. Trần Đặng Đăng Khoa, ĐT: 0913 617 176, Email:  

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học

189


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013

Conclusion: the proportion of patients have no knowledge of nutrition in nephrotic syndrome diet is highly 
accounted, knowledge of nutrition associated with patient education. 
Keywords: nephrotic syndrome, the nutritional knowledge of nephrotic syndrome.  

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hội  chứng  thận  hư  là  một  bệnh  cầu  thận 
mạn tính khá phổ biến. Nhiều nghiên cứu dịch 

tể học cho thấy tỷ lệ mới mắc hội chứng thận hư 
ở vùng Nam Á ngày một gia tăng(5,6,8).  Khi mắc 
hội  chứng  thận  hư,  bệnh  nhân  thường  bị  suy 
dinh  dưỡng  vì  thiếu  protein,  thiếu  năng  lượng 
do mất nhiều protein qua đường niệu kèm theo 
chán ăn do giảm dịch ruột, phù gan và nội tạng. 
Ngoài  ra,  ăn  kém  còn  do  bệnh  nhân  cảm  thấy 
căng  trướng  khi  có  tràn  dịch  màng  bụng.  Hội 
chứng  thận  hư  kéo  dài  sẽ  dẫn  đến  tiêu  cơ  bắp, 
rụng tóc. Thiếu dinh dưỡng làm tăng tỷ lệ mắc 
các bệnh nhiễm khuẩn trong hội chứng thận hư 
như: viêm phổi, viêm cơ, viêm phúc mạc...(6,7,12,15). 
Cho  nên,  chế  độ  dinh  dưỡng  trong  hội  chứng 
thận  hư  đóng  một  vai  trò  hết  sức  quan  trọng 
trong  việc  giúp  cơ  thể  tăng  sức  đề  kháng  và 
chống lại các rối loạn thành phần sinh hóa trong 
máu  (17).  Như  vậy,  nếu  bệnh  nhân  hội  chứng 
thận  hư  có  kiến  thức  đúng  về  chế  độ  dinh 
dưỡng  sẽ  có  tác  động  hết  sức  quan  trọng  đến 
diễn tiến, tiến trình điều trị cũng như tiên lượng 
bệnh.  Tuy  nhiên,  ở  Việt  Nam  nói  chung  và 
thành phố Cần Thơ nói riêng các khảo sát về vấn 
đề này chưa nhiều. Vì vậy, với mong muốn góp 
phần nâng cao kiến thức về chế độ dinh dưỡng 
ở  bệnh  nhân  hội  chứng  thận  hư  chúng  tôi  tiến 
hành nghiên cứu đề tài với mục tiêu: xác định tỷ 
lệ bệnh nhân có kiến thức tốt về dinh dưỡng ở bệnh 
nhân hội chứng thận hư, xác định một số yếu tố liên 
quan  ảnh  hưởng  đến  kiến  thức  dinh  dưỡng  ở  bệnh 
nhân hội chứng thận hư. 


ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Đối  tượng  nghiên  cứu  gồm  38  bệnh  nhân 
HCTH  điều  trị  tại  Bệnh  viện  Đa  khoa  Trung 
ương Cần Thơ từ tháng 9/2012 đến 5/2013. 

190

Tiêu chuẩn loại trừ 
BN không đồng ý tham gia nghiên cứu; BN 
đang  mắc  các  bệnh  cấp  tính  nguy  hiểm  khác; 
những  BN  bị  rối  loạn  tâm  thần,  bị  câm  điếc; 
những  bệnh  nhân  HCTH  quá  già  lú  lẫn;  BN 
đang mang thai; BN đang cho con bú. 
Tiêu chuẩn đánh giá 
Tiêu chuẩn đánh giá kiến thức dinh dưỡng ở 
BN HCTH theo khuyến cáo của Bộ  Y tế về chế 
độ dinh dưỡng HCTH(2,10). 

Cách đánh giá kiến thức 
Tiến hành đánh giá kiến thức về chế độ dinh 
dưỡng  HCTH  ở  BN  tham  gia  nghiên  cứu  bằng 
cách  phỏng  vấn  lần  lượt  các  vấn  đề  về  chế  độ 
dinh dưỡng HCTH với các câu hỏi và ghi nhận 
câu trả lời từ BN. Tổng số câu hỏi gồm có 30 câu. 
Mỗi  câu  trả  lời  đúng  sẽ  được  1  điểm.  Các 
trường  hợp  trả  lời  còn  lại  đều  không  đúng  và 
không được tính điểm. Không trừ điểm cho các 
câu trả lời sai. Bệnh nhân càng có nhiều câu trả 

lời đúng thì điểm càng cao, nghĩa là kiến thức về 
chế độ dinh dưỡng của bệnh nhân càng tốt. Kiến 
thức của bệnh nhân được chia làm 3 mức độ: tốt, 
trung bình và kém. Mức độ trung bình và kém 
đều xếp loại chưa tốt. Tốt khi bệnh nhân trả lời 
đúng từ 75% nội dung trở lên (>22 câu) về kiến 
thức dinh dưỡng của bệnh nhân HCTH. Trung 
bình khi bệnh nhân đạt từ 50‐74% tổng số điểm 
(15‐22  câu).  Kém  khi  bệnh  nhân  đạt  được  dưới 
50% tổng số điểm (< 15 câu). 

Phương pháp nghiên cứu 
Mô tả cắt ngang tiến cứu. 

Phương pháp thu thập số liệu 
Số  liệu  được  thu  thập  bằng  cách  dùng  “Bộ 
câu hỏi” để phỏng vấn trực tiếp BN. Tất cả các 
đối tượng nghiên cứu được thu thập một số đặc 
điểm về hành chính và kiến thức về chế độ dinh 
dưỡng HCTH. 

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 
Phương pháp xử lý số liệu 
Số liệu được xử lý theo phương pháp thống 
kê y học, sử dụng phần mềm SPSS 18.0 để tính 
ra các đặc trưng về thống kê. 


KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 
Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu 
Đa  số  các  đối  tượng  được  chọn  vào  nghiên 
cứu  là  nữ  giới  chiếm  68,4%  (so  với  nam  là 
31,6%);  chủ  yếu  ở  lứa  tuổi  dưới  60  (dưới  30  là 

Nghiên cứu Y học

50%; 30‐60 tuổi là 44,7%), trên 60 rất ít chỉ chiếm 
5,3%. Phần lớn các đối tượng trong nghiên cứu 
đều sinh sống ở nông thôn (81,6%) với trình độ 
học vấn chưa cao (trên cấp III chỉ chiếm 23,7%), 
trong đó nghề nông là chủ yếu (34,2%). Tuy tình 
hình  kinh  tế  gia  đình  khá  giả  chiếm  đa  số 
(55,3%)  nhưng  tỷ  lệ  nghèo  vẫn  khá  cao  với 
44,7%.  Trong  đó,  tỷ  lệ  bệnh  nhân  bị  bệnh  lần 
đầu bằng với tỷ lệ bệnh nhân bị HCTH tái phát 
(50%). 

Kiến thức về chế độ dinh dưỡng hội chứng thận hư 
Tần số và tỷ lệ về các kiến thức dinh dưỡng HCTH 
Bảng 1‐ Kiến thức về dinh dưỡng của các đối tượng 
Đúng

Nội dung

Tần số (n) Tỷ lệ (%) Tần số (n)

Nhiều sữa
Nhiều cơm

Nhiều trái cây ngọt
Nhiều trái cây chua
Nhiều dưa leo, bầu, bí
Nhiều tôm, cua, cá sụn
Ít muối
Hạn chế rượu, bia
Không hút thuốc
Hạn chế cà phê
Tăng đạm (không phải tổn thương cầu thận tối thiểu), giảm đạm (tổn thương
cầu thận tối thiểu)
Hạn chế chất béo (đồ chiên xào, dầu mỡ, bơ...)
Hạn chế thức ăn chứa cholesterol (phủ tạng, mỡ...)
Khi kali máu tăng cần hạn chế thức ăn giàu kali, ăn nhiều khi tiểu nhiều

Theo  ngành  dinh  dưỡng  học,  dinh  dưỡng 
không  chỉ  đóng  vai  trò  quan  trọng  trong  việc 
nuôi  sống  con  người  mà  dinh  dưỡng  tốt  còn 
giúp  phòng  tránh  một  số  bệnh.  Đối  với  bệnh 
nhân, khi có một chế độ dinh dưỡng tốt sẽ góp 
phần đáng kể trong việc hồi phục và làm giảm 
biến chứng. Từ đó, rút ngắn thời gian nằm viện, 
góp phần nâng  cao  chất  lượng  và  giảm  chi  phí 
điều trị(4, 14). Thật vậy, khi BN có kiến thức tốt về 
dinh  dưỡng  sẽ  có  tác  động  hết  sức  quan  trọng 
trong  hổ  trợ  điều  trị,  phòng  ngừa  tái  phái  và 
ngăn  ngừa  biến  chứng  HCTH.  Kết  quả  nghiên 
cứu  của  chúng  tôi  về  kiến  thức  dinh  dưỡng 
HCTH được thể hiện qua bảng 1 cho thấy đa số 
các đối tượng có kiến thức dinh dưỡng tốt là nên 
ăn nhiều chất đạm (thịt cá...) khi không phải tổn 


Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học

Sai
Tỷ lệ (%)

12
20
8
22
10
14
34
37
37
33

31,6
52,6
21,1
57,9
26,3
36,8
89,5
97,4
97,4
86,8

26
18

30
16
28
24
4
1
1
5

68,4
47,4
78,9
42,1
73,7
63,2
10,5
2,6
2,6
13,2

23

60,5

15

39,5

29
24

15

76,3
63,2
39,5

9
14
23

23,7
36,8
60,5

thương cầu thận tối thiểu, ăn ít khi tổn  thương 
cầu  thận  tối  thiểu  (60,5%);  và  ăn  nhiều  cơm 
(52,6%). Điều này phù hợp với đặc điểm về địa 
lý, đặc điểm kinh tế (nghề nông: trồng trọt, chăn 
nuôi  là  chủ  yếu)  và  truyền  thống  ăn  uống  của 
người  Việt  (Việt  Nam  dùng  lúa  gạo  và  thịt  cá 
làm  nguồn  chính)  (16).  Bên  cạnh  đó,  có  thể  do 
quan điểm của nhân dân ta là khi bệnh là phải 
tăng  cường  bổ  sung  dinh  dưỡng  (nhất  là  quan 
điểm  khi  bị  bệnh  nên  ăn  nhiều  cháo  thịt,  cá...). 
Vậy hiểu biết tốt về giá trị dinh dưỡng của thịt, 
cá và gạo của bệnh nhân phù hợp với lý thuyết 
về  dinh  dưỡng  HCTH  là  ăn  nhiều  chất  đạm 
(thịt, cá...); nhiều cơm tùy theo cơ địa của bệnh 
nhân khi chưa suy thận(2, 10). 


191


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013

Tuy nhiên các bệnh nhân có kiến thức đúng 
về  chế  độ  dinh  dưỡng  của  những  loại  thức  ăn 
khác chiếm tỷ lệ thấp: khoai (12,3%); dưa, bầu, bí 
(26,3%);  chuối,  su  hào,  củ  cải,  củ  dền  (60,5%); 
tôm, cua, cá sụn (63,2%)... Đối với các loại thức 
ăn  vừa  nêu  trên  thường  được  sử  dụng  với  tần 
suất  không  cao  (vì  không  là  nguồn  thức  ăn 
chính  yếu)(3),  không  phổ  biến  nên  giá  trị  dinh 
dưỡng của nó càng ít được biết đến. Vì vậy, đa 
số  BN  có  kiến  thức  không  tốt  về  giá  trị  dinh 
dưỡng  cũng  như  chế  độ  ăn  những  thực  phẩm 
trên là hoàn toàn có khả năng. 
Điều  đáng  quan  tâm  là  hầu  hết  các  đối 
tượng không biết lượng cần cung cấp mỗi ngày: 
năng  lượng  cần  đưa  vào  cơ  thể  là  khoảng  35  – 
40Kcal/kg  (89,5%);  lượng  đạm  nên  cung  cấp 
khoảng  1–1,2g/kg  khi  không  phải  tổn  thương 
cầu thận tối thiểu và 0,8‐<1g/kg khi tổn thương 
cầu  thận  tối  thiểu  (92,1%);  lượng  cholesterol 
(phủ tạng động vật, mỡ…) nên cung cấp khoảng 
<300mg/ngày  (94,7%)…  Trong  quá  trình  phỏng 
vấn  về  lượng  cần  cung  cấp  các  loại  thực  phẩm 
mỗi  ngày,  phần  lớn  các  đối  tượng  trả  lời  là 

không  biết  (quy  định  là  kiến  thức  chưa  tốt).  Vì 
hầu hết mọi người chỉ ăn theo tính tự phát, ít ai 
chú ý ăn theo khẩu phần, ăn theo lượng, hay cân 
đo đong đếm lượng thức ăn cần cung cấp là bao 
nhiêu  trong  một  ngày.  Đặc  biệt,  không  ai  đặt 
vấn  đề  những  món  ấy  cho  bao  nhiêu  dinh 
dưỡng và đã hợp lý chưa (1). Bên cạnh đó, lượng 
nước  uống  hàng  ngày  là  vấn  đề  không  kém 
phần  quan  trọng  trong  BN  HCTH,  tuy  nhiên 
phần đông các đối tượng không biết lượng nước 
cung  cấp  hàng  ngày  bằng  thể  tích  nước  tiểu  + 
thể  tích  dịch  bất  thường  (sốt,  nôn,  tiêu  chảy)  + 
300‐500ml nước (73,7%). Do đa số BN cho rằng 
nên  uống  càng  nhiều  nước  càng  tốt  (trên  2 
lít/ngày),  hay  có  BN  sợ  uống  nước  sẽ  bị  phù 
nhiều hơn (nên họ không dám uống nước). Có lẽ 
do họ chưa được hướng dẫn chế độ nước uống 
cần  cung  cấp  hàng  ngày  dẫn  đến  những  quan 
điểm sai lầm (có đối tượng thì uống quá nhiều, 
đối  tượng  thì  uống  quá  ít  hay  không  uống). 
Ngoài  ra,  lượng  nước  uống  hàng  ngày  cũng  ít 
được ai chú trọng quan tâm. Vì vậy, việc các BN 

192

có  kiến  thức  không  tốt  về  lượng  cần  cung  cấp 
các  thành  phần  dinh  dưỡng  nêu  trên  là  hoàn 
toàn có thể giải thích được. 
Khi  xét  đến  chế  độ  dinh  dưỡng  cho  bệnh 
HCTH  thì  các  loại  trái  cây  là  phần  không  thể 

thiếu,  chúng  góp  phần  bổ  sung  nhiều  vitamin 
(có tác dụng chống oxy hóa, chống tăng các gốc 
tự do ‐ là những chất gây xơ hóa cầu thận, từ đó 
làm hạn chế dẫn đến suy thận)(10). Tuy nhiên, các 
đối  tượng  biết  cần  cung  cấp  đủ  vitamin  và 
khoáng chất chiếm tỷ lệ thấp (42,1%). Cũng như 
việc  nên  ăn  nhiều  trái  ngọt  (21,1%),  kết  quả 
không  phù  hợp  với  lý  thuyết  dinh  dưỡng  của 
bệnh(10).  Điều  đáng  quan  tâm,  trong  quá  trình 
phỏng  vấn  chúng  tôi  có  nghe  không  ít  các  đối 
tượng có cách trả lời là không biết hay có ý kiến 
là  “ăn  ngọt  quá  sẽ  bị  nóng  trong  người  hay  bị 
mập”. Đó là những quan điểm sai lầm dẫn đến 
kiến  thức  dinh  dưỡng  không  tốt.  Cần  có  sự 
hướng dẫn và giải thích về chế độ  dinh  dưỡng 
cho bệnh nhân một cách rõ ràng hơn. Bên cạnh 
đó,  bệnh  nhân  lại  có  kiến  thức  đúng  là  cần  ăn 
nhiều trái cây chua (57,9%). Kết quả trên có thể 
được hiểu là do trong nghiên cứu của chúng tôi, 
các  đối  tượng  HCTH  được  phỏng  vấn  đa  số  là 
nữ  giới  (nữ/nam=2,2/1).  Họ  biết  rằng  ăn  nhiều 
vitamin C giúp đẹp da, chống lão hóa(11). 
Vậy  các  kiến  thức  dinh  dưỡng  không  đúng 
trên có thể được giải thích do quan niệm sai lầm, 
tập  quán  dinh  dưỡng  trong  cộng  đồng  người 
Việt.  Quan  trọng  nhất  là  trình  độ  hiểu  biết  của 
bệnh  nhân  về  giá  trị  dinh  dưỡng,  đặc  biệt  về 
lượng  cung  cầu  cần  cung  cấp  của  các  loại  thức 
ăn  chưa  tốt,  cũng  như  các  hoạt  động  truyền 
thông về dinh dưỡng nói chung và dinh dưỡng 

HCTH nói riêng chưa thỏa đáng. 
Ngoài  ra,  cũng  có  phần  lớn  các  đối  tượng 
có  kiến  thức  đúng  về  việc  nên  ăn  ít  phủ  tạng 
động  vật,  mỡ  (63,2%);  hạn  chế  chất  béo 
(76,3%); ăn ít muối (89,5%); ăn nhạt tương đối, 
tùy mức độ phù và các thói quen như hạn chế 
rượu  bia,  không  hút  thuốc,  hạn  chế  uống  cà 
phê,  các  đối  tượng  có  kiến  thức  khá  cao  lần 
lượt  là  97,4%;  97,4%;  86,8%.  Việc  này  dễ  hiểu 

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 
khi  chế  độ  sử  dụng  các  loại  thức  ăn  này 
thường  xuyên  được  nhắc  đến  trong  giáo  dục, 
trên  các  phương  tiện  báo  đài,  thông  tin  đại 
chúng  do  có  liên  quan  đến  nhiều  bệnh  phổ 
biến khác như tăng huyết áp, béo phì, các bệnh 
về tim mạch... nên bệnh nhân dễ tiếp cận và có 
kiến thức tốt. Vì vậy, nên có sự đầu tư  cụ thể 
cho việc giáo dục dinh dưỡng HCTH. 
Kết  quả  trong  nghiên  cứu  chúng  tôi  tỷ  lệ 
bệnh nhân có kiến thức về chế độ ăn nhạt đúng 
chiếm 89,5% cao hơn so với nghiên cứu Nguyễn 
Thị Nghĩa(9) (2009) ở bệnh viện Nhi Đồng 2, kiến 
thức dinh dưỡng tốt về chế độ ăn nhạt của thân 
nhân bệnh nhi HCTH là 3,7%; nghiên cứu Trần 
Thị  Mộng  Hiệp(13)  (2004)  trên  thân  nhân  bệnh 
nhi  là  5,7%.  Sự  khác  biệt  này  có  thể  được  giải 

thích là do nghiên cứu của họ đã được thực hiện 
cách  đây  khá  lâu,  lúc  ấy  công  tác  tuyên  truyền 
cũng như truyền thông giáo dục sức khỏe chưa 
được phát triển như hiện nay. 

Mức độ hiểu biết về kiến thức dinh dưỡng 
HCTH của các đối tượng 
Bảng 2‐ Tỷ lệ mức độ hiểu biết về kiến thức dinh 
dưỡng HCTH 
Kiến thức dinh dưỡng
HCTH
Kém
Chưa tốt
Trung bình
Tốt
Tốt
Tổng

Tần số (n)

Tỷ lệ (%)

29
7
2
38

76,3
18,4
5,3

100

dưỡng một cách rõ ràng, cụ thể và dễ hiểu cho 
BN HCTH. 

Ảnh  hưởng  của  dân  số  kinh  tế  xã  hội  lên 
kiến thức dinh dưỡng  
Bảng 3‐ Ảnh hưởng của DSKTXH lên kiến thức 
dinh dưỡng HCTH 
Kiến thức dinh
p
dưỡng
Tổng OR
2
χ
Chưa tốt
Tốt n(%)
n(%)
> 60
2(100)
0(0)
2
0,732
Tuổi
34(94,4) 2(5,6) 36
0,117
≤ 60
Nam
12(100)
0(0)

12
0,324
Giới
Nữ
24(92,3) 2(7,7) 26
0,974
Nông thôn 30(96,8) 1(3,2) 31
0,237
Địa chỉ
5
Thành thị 6(85,7) 1(14,3) 7
1,401
Dưới cấp
III
29(100)
0(0)
29
0,009
Trình độ
học vấn Cấp III trở 7(77,8) 2(22,2) 9
6,802
lên
0(0)
13
0,295
Nghề Nông dân 13(100)
nghiệp
Khác
23(92)
2(8)

25
1,098
Nghèo
17(100)
0(0)
17
0,191
Mức sống
Khá giả 19(90,5) 2(9,5) 21
1,709
Lần
đầu
19(100)
0(0)
19
0,146
Tính chất
bệnh
Tái phát 17(89,5) 2(10,5) 19
2,111
Đặc điểm của đối
tượng

Qua khảo sát các yếu tố về tuổi, giới, địa chỉ, 
nghề  nghiệp,  mức  sống  và  tình  trạng  bệnh  tái 
phát,  khi  tiến  hành  so  sánh  kiến  thức  dinh 
dưỡng  tốt  và  chưa  tốt  trong  các  phân  nhóm  có 
sự khác biệt giữa nam và nữ, giữa nông thôn và 
thành thị, nghề nghiệp, mức sống và tình trạng 
bệnh tái phát nhưng sự khác biệt này chưa có ý 

nghĩa thống kê. Vậy các đặc điểm về tuổi, giới, 
địa  chỉ,  nghề  nghiệp,  mức  sống  và  tình  trạng 
bệnh tái phát là những yếu tố không ảnh hưởng 
đến kiến thức dinh dưỡng của BN. 

 
Biểu đồ 1‐ Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu có kiến thức 
dinh dưỡng HCTH đúng 
Sự  phân  bố  điểm  về  kiến  thức  dinh  dưỡng 
của các đối tượng được thể hiện qua bảng 2 và 
biểu đồ 1 kết quả cho thấy tỷ lệ BN có kiến thức 
tốt rất thấp chỉ 5,3%; trong khi kiến thức kém và 
trung  bình  chiếm  đa  số  với  76,3%  và  18,4%. 
Thiết  nghĩ  cần  tăng  cường  công  tác  tuyên 
truyền, giáo dục sức khỏe và truyền thông dinh 

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học

Nghiên cứu Y học

Bên cạnh đó ở nhóm BN có trình độ học vấn 
từ cấp III trở lên sẽ có kiến thức dinh dưỡng tốt 
cao hơn so với nhóm mù chữ, cấp I, II. Sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê với p=0,009 và χ2=6,802. 
Vậy trình độ học vấn ảnh hưởng nhiều đến kiến 
thức dinh dưỡng và dưới cấp III là yếu tố nguy 
cơ chính. Sự ảnh hưởng này có thể giải thích do 
kiến thức phổ cập càng cao thì trình độ hiểu biết 
cũng  như  khả  năng  tiếp  thu  càng  tốt.  Từ  đó 
ngoài  việc  cần  cung  cấp  kiến  thức  cho  BN,  thì 


193


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013

công  tác  nâng  cao  trình  độ  học  vấn  cho  nhân 
dân cũng không kém phần quan trọng giúp thúc 
đẩy BN có hiểu biết tốt hơn. 

4.

Hà  Huy  Khôi  (2004).  Sự  phát  triển  của  dinh  dưỡng  học.  Dinh 
dưỡng  và  vệ  sinh  an  toàn  thực  phẩm,  Nhà  xuất  bản  y  học, 
trang 9‐14. 
Lê  Nam  Trà,  Trần  Đình  Long  (2000).  Hội chứng thận hư.  Bài 
giảng Nhi khoa tập 2, Bộ Môn Nhi, Trường Đại học Y Khoa 
Hà Nội, trang 155‐167. 
Lê Thị Luyến (2010). Hội chứng thận hư. Bệnh học ‐ Sách đào 
tạo Dược sĩ Đại học, NXB Y Học, trang 188‐191. 
Lê Văn An, Hoàng Văn Ngoạn (2008). Chăm sóc bệnh nhân Hội 
chứng  thận  hư.  Điều  dưỡng  nội  2,  Nhà  xuất  bản  Y  học,  Hà 
Nội, trang 32‐41.  
Nguyễn Quốc Anh, Ngô Quý Châu (2011). Hội chứng thận hư. 
Hướng  dẫn  chẩn  đoán  và  điều  trị  bệnh  Nội  khoa,  NXB  Y 
Học, trang 589‐591. 
Nguyễn Thị Nghĩa (2009). Khảo sát kiến thức thái độ hành vi của 
thân nhân bệnh nhi bị hội chứng thận hư điều trị tại khoa thận máu 

– nội tiết bệnh viện Nhi đồng II, Tạp chí Y Học TP. HCM, Tập 
13, trang 22‐28. 
Nguyễn  Văn  Xang,  Trần  Văn  Chất  (2008).  Chế  độ  ăn  uống 
trong bệnh thận. Bệnh Thận, NXB Y học, trang 137‐156. 
Nguyễn  Xuân  Ninh  (2004).  Vitamin  tan  trong  nước.  Dinh 
dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm, NXB Y Học, trang 102‐
106. 
STEPHAN  R.O.,  RIRZ  E.  (1998).  The nephrotic syndrome.  The 
New England Journal of Medicine, 23: 1202‐1211. 
Trần Thị Mộng Hiệp, Hoàng Thị Thanh Hằng, Vưu Tiểu Hà 
và  Nguyễn  Trường  Tâm  (2004).  Khảo  sát  kiến  thức  –  hành  vi 
chăm sóc tại nhà của mẹ bệnh nhi hội chứng thận hư điều trị ngoại 
trú tại bệnh viện Nhi đồng II. Tạp chí Y Học TP. Hồ Chí Minh , 
Tập 8, trang 36‐38. 
Trần Thị Phúc Nguyệt (2004). Tổ chức ăn uống trong bệnh viện 
và một số chế độ ăn thường gặp. Dinh  dưỡng  và  vệ  sinh  thực 
phẩm, NXB Y học, trang 116‐130. 
Trần Văn Chất (2008). Hội chứng thận hư. Bệnh  thận,  NXB  Y 
Học, trang 331‐341. 
Trương Bút (2007). Một số suy nghĩ về truyền thống ăn uống của 
người  VN.  Tạp  chí  dinh  dưỡng  và  thực  phẩm,  Tập  3  (2+3), 
trang 62‐66. 
Vogt  B.A.,  Ellis  D.A.  (2011).  Nephrotic  Syndrome.  Nelson 
Textbook pediatric, Elsevier Saunder, pp. 1753‐1757. 

5.

KẾT LUẬN 
Qua  nghiên  cứu  38  bệnh  nhân  hội  chứng 
thận  hư  điều  trị  tại  Bệnh  viện  Đa  khoa  Trung 

ương  Cần  Thơ  chúng  tôi  rút  ra  được  kết  luận 
như sau 
‐  Sự  thiếu  hụt  kiến  thức  của  các  đối  tượng 
được  thể  hiện  rõ  qua  tỷ  lệ  bệnh  nhân  có  kiến 
thức chưa tốt về dinh dưỡng hội chứng thận hư 
rất cao chiếm 94,7%. Trong đó, tỷ lệ bệnh nhân 
chưa biết năng lượng cần cung cấp mỗi ngày 35‐
40Kcal/kg  là  89,5%;  cũng  như  lượng  đạm  nên 
cung  cấp  hàng  ngày  1‐1,2g/kg  khi  không  phải 
tổn thương cầu thận tối thiểu và 0,8‐ <1g/kg khi 
tổn thương cầu thận tối thiểu là 92,1%. 
‐ Kiến thức dinh dưỡng của bệnh nhân chịu 
ảnh  hưởng  bởi  trình  độ  học  vấn.  Nhóm  bệnh 
nhân  có  trình  độ  học  vấn  từ  cấp  III  trở  lên  có 
kiến thức dinh dưỡng cao hơn so với nhóm bệnh 
nhân  có  trình  độ  học  vấn  dưới  cấp  III,  sự  gia 
tăng  tỷ  lệ  bệnh  nhân  có  kiến  thức  dinh  dưỡng 
tốt theo trình độ học vấn có ý nghĩa thống kê với 
p=0,009. Các yếu tố như tuổi, giới, địa chỉ, nghề 
nghiệp,  mức  sống  và  tình  trạng  bệnh  tái  phát 
không ảnh hưởng đến kiến thức dinh dưỡng hội 
chứng thận hư. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.
2.
3.

Băng  Sơn  (2007).  Suy nghĩ về vài cách ăn hợp lý của Việt Nam. 
Tạp chí dinh dưỡng và thực phẩm, Tập 3(2+3), trang 68‐71. 

Bộ Y tế (2007). Chế độ ăn cho các bệnh Thận – Tiết niệu. Hướng 
dẫn chế độ ăn bệnh viện, NXB Y học Hà Nội, trang 15‐16. 
Đào Thị Yến Nhi (2007). Dinh dưỡng hợp lý trong cách ăn uống 
truyền thống Nam Bộ. Tạp chí dinh dưỡng và thực phẩm, Tập 
3(2+3), trang 53‐56. 

6.
7.

8.

9.

10.
11.

12.
13.

14.

15.
16.

17.

 
Ngày nhận bài 
 
 

Ngày phản biện nhận xét bài báo 
Ngày bài báo được đăng:   
 

 30/07/2013. 
03/09/2013. 
18/10/2013 

 

194

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học  



×