Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Nhân một trường hợp u tuyến vỏ thượng thận có đặc điểm mô học không điển hình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (988.78 KB, 6 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013

NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP U TUYẾN VỎ THƯỢNG THẬN  
CÓ ĐẶC ĐIỂM MÔ HỌC KHÔNG ĐIỂN HÌNH 
Trần Minh Thông*, Vương Gia Huy* 

TÓM TẮT 
U thượng thận là loại u thường gặp. Cùng với sự phát triển của chụp cắt lớp điện toán (CT scanner) và 
chụp cộng hưởng từ (MRI) các khối u ở tuyến thượng thận phát hiện một cách tình cờ ngày càng cao. Hiện 
nay, vấn đề bệnh lý được quan tâm nhất là xác định tính chất của khối u thượng thận là lành tính hay ác 
tính.Một số tác giả đã đề nghị các tiêu chuẩn mô học để phân biệt u tuyến vỏ thượng thận và carcinom vỏ 
thượng thận. Tuy nhiên, việc phân biệt biên giới lành ác vẫn là một thử thách rất lớn cho các nhà giải phẫu 
bệnh đặc biệt trong các trường hợp khối u có kích thước lớn và đặc tính nhân không điển hình. Nhân một 
trường hợp u tuyến vỏ thượng thận có hình ảnh mô học không điển hình; chúng tôi muốn nêu trường hợp 
này lên để bàn luận và rút kinh nghiệm nhằm tránh ngưỡng chẩn đoán carcinom vỏ thượng thận và hệ quả 
dẫn đến những chỉ định điều trị bất lợi cho người bệnh. 
Từ khóa: u tuyến vỏ thượng thận, carcinom vỏ thượng thận, u thượng thận 

SUMMARY 
CASE REPORT: ADRENOCORTICAL ADENOMA WITH ATYPICAL HISTOLOGICAL FEATURES 
Tran Minh Thong, Vuong Gia Huy  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2013: 600 ‐ 605 
Adrenal tumors were common neoplasms. The development of imaging studies such as CT scanner and MRI 
has resulted in raising the detection of adrenal masses incidentally. The most important target was to determine 
those tumors malignancies or benignancies. Currently, there were several recommended criterion to distinguish 
adrenocortical adenoma from carcinoma. However, differentiated diagnosis between adenoma and carcinoma was 
still a major challenge for pathologists, especially in huge tumors with atypical tumor cells. We reported a case of 
adrenocortical adenoma with atypical histological features to discuss and learn for experience in order to avoid 
carcinoma overdiagnosing which would lead to disadvantageous treatments for patient. 


Keywords: adrenocortical adenoma, adrenocortical carcinoma, adrenocortical tumor 
1,4:  1  đến  2,5:1(1,8,19).  Tuổi  phát  hiện  u  tuyến  vỏ 
TỔNG QUAN 
thượng thận trung bình là 62 tuổi. Trong khi đó, 
Carcinôm vỏ tuyến thượng thận là loại khối 
carcinom  vỏ  thượng  thận  do  phần  lớn  có  biểu 
u nội tiết hiếm gặp, có độ ác cao. Trong khi đó, u 
hiện triệu chứng nên tuổi phát hiện bệnh trung 
tuyến  thượng  thận  lành  tính  là  loại  u  thường 
bình là 47 tuổi(16) . 
gặp,  ít  gây  triệu  chứng  và  thường  được  phát 
Phần lớn các khối u thượng thận được phát 
hiện  bởi  các  phương  tiện  chẩn  đoán  hình  ảnh 
hiện  tình  cờ  là  các  loại  u  không  có  chức  năng 
một cách tình cờ. Các khối u thượng thận được 
sinh học và lành tính. Tuy nhiên, trong khoảng 
phát hiện tình  cờ  chiếm  2‐4%  dân  số  chung(8,12). 
10% số trường hợp các khối u thượng thận tăng 
Cả  u  tuyến  vỏ  thượng  thận  và  carcinom  vỏ 
tiết hormone và có biểu hiện triệu chứng(9). Triệu 
thượng thận chiếm ưu thế ở giới nữ với tỉ lệ từ 
chứng  thường  gặp  nhất  là  hội  chứng  Cushing. 
* Khoa Giải phẫu bệnh, BV Chợ Rẫy 
Tác giả liên lạc: BSCKII. Trần Minh Thông, ĐT: 0918202941, Email:  

600

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 
Bên cạnh đó, nhiều phụ nữ có u vỏ thượng thận 
sẽ  biểu  hiện  triệu  chứng  nam  hóa  do  cường 
androgen  (nổi  mụn,  rậm  lông,  kinh  nguyệt 
thưa). Nếu khối u tăng tiết cortisol quá mức có 
thể dẫn đến hạ kali máu. Ở  nhóm các u  không 
chức năng thì người bệnh thường đi khám vì các 
triệu  chứng  khó  chịu  ở  đường  tiêu  hóa  (buồn 
nôn, nôn, đầy bụng) hoặc đau lưng. 
Các khối u thượng thận bao gồm u vỏ tuyến 
thượng thận lành và ác tính, u tủy thượng thận 
và  các  loại  tổn  thương  lành  tính  khác.  Một 
nghiên cứu về các khối u thượng thận phát hiện 
tình  cờ  cho  thấy  tỉ  lệ  u  tuyến  vỏ  thượng  thận 
lành  nhiều  gấp  60  lần  carcinom  tuyến  nguyên 
phát ở vỏ thượng thận, do đó hầu hết các khối u 
ác tính ở vỏ thượng thận thường là di căn từ các 
nơi khác đến(15). 
Chẩn  đoán  phân  biệt  các  loại  u  vỏ  thượng 
thận chủ yếu dựa trên các đặc điểm mô học. Tuy 
nhiên,  các  nhà  giải  phẫu  bệnh  còn  đối  mặt  với 
nhiều hình ảnh mô học đa dạng vốn có của mô 
u  nên  gặp  khó  khăn  trong  chẩn  đoán.Tác  giả 
Weiss đã theo dõi 43 bệnh nhân có u vỏ thượng 
thận trong khoảng thời gian theo dõi trung bình 
là 11 năm(20). Tác giả đã đề nghị 9 tiêu chuẩn mô 
học và hình thái học đặc trưng để tiên đoán khả 
năng ác tính của khối u. Hình ảnh mô học có giá 
trị  tiên  lượng  cao  nhất  là  trên  5  nhân  chia  trên 
quang trường x500, nhân chia không điển  hình 

và  xâm  lấn  tĩnh  mạch.  Sau  đó,  Weiss  và  cộng 
sự(21)  đã  điều  chỉnh  các  tiêu  chuẩn  chẩn  đoán 
nhằm  phân  biệt  u  vỏ  thượng  thận  lành  và  ác 
tính: các khối u có nhiều hơn 3 đặc tính mô học 
gợi ý ác tính được xem như ác tính. Một nghiên 
cứu gần đây đã xác định 6 yếu tố hình thái học 
giúp  tiên  lượng  khả  năng  sống  còn  của  bệnh 
nhân  carcinom  vỏ  thượng  thận:  xâm  lấn  tĩnh 
mạch, vỏ bao và các cơ quan xung quanh; hoại 
tử trong u; tỉ lệ gián phân bào và gián phân bào 
không điển hình(17). 

Nghiên cứu Y học

một dấu ấn để phân biệt u có nguồn gốc từ  vỏ 
thượng  thận  và  không  từ  vỏ  thượng  thận  và 
trong  một  nghiên  cứu  lớn  sử  dụng  SF1  đã  cho 
thấy kết quả dương tính trong hơn 95% trường 
hợp u vỏ thượng thận và âm tính đối với tất cả 
các  trường  hợp  u  không  nguồn  gốc  từ  vỏ 
thượng thận(13,14). Một loại dấu ấn khác được sử 
dụng  để  phân  biệt  u  tuyến  và  carcinôm  vỏ 
thượng thận là Ki67. Trong một nghiên cứu trên 
320  bệnh  nhân  kết  hợp  cùng  với  kết  quả  của 
nhiều  nghiên  cứu  khác  đã  cho  thấy  chỉ  số 
nhuộm  Ki67  cao  có  liên  quan  đến  tiên  lượng 
bệnh xấu(3,10,18) Tác giả Nakano đã đề nghị dùng 
vimentin  để  phân  biệt  u  tuyến  vỏ  thượng  thận 
và carcinôm vỏ thượng thận. Trong nghiên cứu 
của  Nakano  và  cộng  sự  đã  cho  thấy  73,2% 

carcinôm  vỏ  thượng  thận  dương  tính  với 
vimentin; trong khi đó, chỉ 14,0% số trường hợp 
u  tuyến  vỏ  thượng  thận  dương  rải  rảc  với 
vimentin  và  86%  u  tuyến  vỏ  thượng  thận  âm 
tính khi nhuộm vimentin(11). 
Sau  đây  là  một  số  hình  ảnh  mô  học  của  u 
tuyến và carcinôm vỏ thượng thận 

 
Hình 1: U tuyến vỏ thượng thận H&E x200: hình 
ảnh các tế bào u xếp các dây và ổ san sát nhau. 
Nguồn: Webpathology.com 

Về mặt hóa mô miễn dịch, một số kháng thể 
đã được sử dụng để xác định chắc chắn nguồn 
gốc  các  u  tuyến  thượng  thận  là  từ  lớp  vỏ.  Vào 
năm 1995, Sasano và cộng sự đã đề nghị SF1 là 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012

601


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG 
Bệnh nhân nữ, 37 tuổi, khám sức khỏe định 
kỳ, không tiền căn bệnh lý, không ghi nhận cao 
huyết  áp  hay  các  triệu  chứng,  dấu  chứng  đặc 

biệt.  Thầy  thuốc  đã  phát  hiện  một  khối  u  ở 
tuyến thượng thận phải trong khi siêu âm tổng 
quát.  

 
Hình 2: U tuyến vỏ thượng thận H&E x 400: Các 
tế bào u có bào tương rộng, bắt màu eosin, nhân tròn 
đều. Có một vài tế bào 2 nhân hoặc nhiều nhân. 
Không có hình ảnh hoại tử hoặc gián phân bào không 
điển hình. 

Các xét nghiệm đo nồng độ  hormone,  công 
thức máu và sinh hóa máu trong giới hạn bình 
thường.  Hình  ảnh  chụp  cắt  lớp  cho  thấy  một 
khối choán chỗ vị trí ở hố thượng thận phải, kích 
thước 3x3x3,5 cm, đường bờ rõ, đậm độ  không 
đồng nhất. Bắt quang không đồng nhất sau tiêm 
thuốc cản quang. 

 
Hình 3: Carcinôm vỏ thượng thận H&E x 200: 
Một trường hợp một bệnh nhân được chụp CT phát 
hiện khối u 12,5cm ở tuyến thượng thận trái. U 
tuyến vỏ thượng thận hiếm khi có kích thước lớn hơn 
5cm hoặc nặng hơn 50g. Trên vi thể, có hình ảnh 
gián phân bào không điển hình – một hình ảnh hiếm 
gặp trong u lành. (Nguồn: webpathology.com) 

 
Hình 4: Carcinôm vỏ thượng thận H&E x 400: 

Các tế bào u có bào tương rộng, bắt màu eosin, nhân 
tăng sắc kiềm và nhiều tế bào có hạt nhân rõ. Có 
nhiều hình ảnh nhân chia không điển hình. (Nguồn: 
webpathology.com) 

602

Hình 5: 
Bệnh  nhân  đã  được  phẫu  thuật  nội  soi  sau 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 
phúc  mạc  cắt  u  tuyến  thượng  thận  phải  và  gửi 
giải  phẫu  bệnh.  Mô  u  lấy  được  cố  định  trong 
formol 10%. Đường kính u sau cố định 6 giờ là 

Nghiên cứu Y học

3,0  cm,  mặt  cắt  có  màu  vàng  nghệ,  không  hoại 
tử, chảy máu.  

 

 

Hình 6: Các mẫu cắt được xử lí theo kỹ thuật thường qui giải phẫu bệnh Hematoxylin & Eosin. 

 

Hình 7: Hình vi thể H&E x200: Tế bào u có nhân lớn, có thể vùi trong nhân, nhiều tế bào có nhiều nhân; không 
nhân chia bất thường. Tế bào xếp theo cấu trúc bè, ổ và một số vùng mất cấu trúc. Không hoại tử, chảy máu. 
lâm sàng, chỉ khoảng 10% số trường hợp có biểu 
BÀN LUẬN 
hiện  triệu  chứng  do  rối  loạn  tăng  tiết  hormone 
Báo cáo truờng hợp lâm sàng của chúng tôi 
từ mô u và thường có liên quan đến ác tính (50 ‐ 
là một bệnh nhân nữ 37 tuổi tình cờ phát hiện u 
80%  số  trường  hợp  carcinôm  vỏ  thượng  thận 
tuyến  thượng  thận  bằng  siêu  âm.  U  phát  hiện 
biểu hiện triệu chứng do tăng tiết hormone)(5,7,22) 
tình  cờ  ở  tuyến  thượng  thận  có  tần  suất  phát 

hiện  cao  nhất  ở  nhóm  50  –  70  tuổi.  Tuổi  người 
Chụp CT là phương pháp lựa chọn đầu tay 
bệnh lúc phát hiện bệnh trung bình là 55 tuổi và 
để  phát  hiện  khối  u  tuyến  thượng  thận  có  kích 
không có sự phát biệt ở tuổi phát hiện bệnh giữa 
thuớc nhỏ từ 1.0cm trở lên với độ nhạy lên đến 
nam và nữ(4,6,8). Như vậy ở trường hợp chúng tôi 
100%. U tuyến thượng thận lành tính thường có 
người  bệnh  tình  cờ  được  phát  hiện  bệnh  ở  độ 
kích thước nhỏ, giới hạn rõ, mật độ đồng nhất, 
tuổi sớm hơn so với các báo cáo trong y văn. Cả 
bờ  tròn  đều,  ít  bắt  thuốc  khi  tiêm  thuốc  cản 
u tuyến vỏ thượng thận và carcinôm vỏ thượng 
quang. Hiện tuợng lắng đọng vôi, chảy máu và 
thận đều được ghi nhận chiếm ưu thế ở giới nữ 
hoại  tử  hiếm  thấy.Trong  khi  đó,  hình  ảnh  điển 
so với nam với tỉ lệ từ 1,4:1 đến 2,5:1 theo nhiều 

hình của carcinôm vỏ thượng thận là khối u có 
nghiên cứu(1,8,19). 
mật độ không đồng nhất, hoại tử hoặc chảy máu 
Theo  y  văn,  hầu  hết  các  trường  hợp  khối  u 
trong u, bờ khối u không đều và một số truờng 
tuyến thượng thận không biểu hiện triệu chứng 
hợp xâm lấn mô xung quanh. Kích thước khối u 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012

603


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013

trên  10cm  là  một  dấu  hiện  có  giá  trị  gợi  ý  ác 
tính(2)  Hình  ảnh  CT‐  scan  của  bệnh  nhân  có 
nhiều đặc điểm gợi ý u tuyến thượng thận lành 
tính: kích thước nhỏ, bờ đều, mật độ tương đối 
đồng nhất; không vôi hóa, hoại tử và chảy máu 
trong u. 
Sự phát triển của hình ảnh học đã giúp phát 
hiện  sớm  các  khối  u  ác  tính  vỏ  thượng  thận, 
nhưng  để  điều  trị  thì  cần  phải  khẳng  định  bởi 
giải  phẫu  bệnh.  Trong  trường  hợp  bệnh  nhân 

của  chúng  tôi,  về  mặt  đại  thể  u  hình  cầu  có 
đường  kính  khoảng  3cm;  mặt  cắt  màu  vàng, 

không hoại tử và chảy máu trong u. Tuy nhiên 
khi quan sát vi thể, u có biểu hiện nhiều vùng tế 
bào không điển hình, nhiều tế bào có nhân lớn, 
tăng sắc kiềm, dị dạng, có hạt nhân rõ và có thể 
vùi trong nhân. Một số vùng tế bào có hai hoặc 
nhiều nhân. Không nhân chia không điển hình. 
Những  hình  ảnh  này  rất  dễ  làm  ta  chẩn  đoán 
lầm với carcinôm vỏ thượng thận.  

 
Hình 8: Hình ảnh nhuộm H&E x 400: nhân tế bào không điển hình: tế bào nhiều nhân 

 
Hình 9: Hình ảnh nhuộm hóa mô miễn dịch tế bào u âm tính với vimentin 
III  –  IV,  nhân  chia  trên  5  trên  quang  trường 
Từ  trước  đến  nay  đã  có  nhiều  tác  giả  đề 
500, nhân chia không điển hình, thành phần tế 
nghị  các  tiêu  chuẩn  để  phân  biệt  u  tuyến  vỏ 
bào  sáng  dưới  25%,  cấu  trúc  tế  bào  lan  tỏa, 
thượng  thận  và  carcinôm  vỏ  thượng  thận. 
hoại  tử,  xâm  lấn  tĩnh  mạch,  xoang  và  vỏ  bao. 
Trong số đó, bảng hệ thống của Weiss được sử 
Tác giả cho rằng khi có từ 4 trong 9 tiêu chuẩn 
dụng  rộng  rãi  nhất.  Năm  1984,  Weiss  đưa  ra 
vi thể vừa mô tả trở lên được xếp vào nhóm u 
tiêu  chuẩn  tăng  số  lượng  nhân  chia  đặc  biệt 
ác  tính(21).  Như  vậy  truờng  hợp  của  chúng  tôi 
khi có kèm với dạng mô học không điển hình 
không  đủ  4  trong  9  tiêu  chuẩn  kể  trên.  Chẩn 
và  xâm  lấn  tĩnh  mạch  là  tiêu  chuẩn  có  giá  trị 

đoán  phù  hợp  với  u  tuyến  vỏ  thuợng  thận 
nhất  để  chẩn  đoán  ác  tính(20).  Đến  năm  1989, 
lành tính. Tuy nhiên hiện nay vẫn chưa có tiêu 
Weiss và cộng sự đã cải biên  bảng  tiêu  chuẩn 
chuẩn nào khẳng định lành tính hoàn toàn do 
thành  9  tiêu  chuẩn  như  sau:  nhân  độ  mô  học 

604

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 
đó  chúng  tôi  đề  nghị  chẩn  đoán  là  u  tuyến 
thuợng thận với đặc điểm mô học không điển 
hình  để  thầy  thuốc  lâm  sàng  theo  dõi  bệnh 
nhân.  Về  mặt  giải  phẫu  bệnh  chúng  tôi  thấy 
cần  thiết  phải  làm  thêm  xét  nghiệm  hóa  mô 
miễn dịch đặc biệt là Ki67 để xác định đặc tính 
ác của nhân như một số tác giả bệnh học hiện 
đại đã khuyến cáo. Ở trường hợp này, Ki67 tỉ 
lệ nhân dương tính thấp. Nó cũng phù hợp với 
sự  nhân  chia  trong  mô  bướu,  nhân  chia  rất 
hiếm  gặp.  Bên  cạnh  đó  chúng  tôi  cũng  tiến 
hàng  nhuộm  hóa  mô  miễn  dịch  với  vimentin 
để  củng  cố  chẩn  đoán  và  kết  quả  là  âm  tính 
phù hợp với các nghiên cứu trên thế giới. 

6.


7.

8.

9.

10.

11.

KẾT LUẬN 
Hiện nay nhờ sự phát triển của các công cụ 
chẩn đoán hình ảnh đã giúp làm tăng khả năng 
chẩn đoán sớm và phát hiện các khối u ở tuyến 
thượng thận. Tuy nhiên điều này cũng mang lại 
nhiều  thử  thách  trong  chẩn  đoán  phân  biệt  u 
tuyến  vỏ  thượng  thận  và  carcinôm  vỏ  thượng 
thận  đặc  biệt  trong  trường  hợp  u  tuyến  vỏ 
thượng  thận  có  hình  ảnh  tế  bào  không  điển 
hình.  Vai  trò  của  hóa  mô  miễn  dịch  hỗ  trợ  cho 
chẩn  đoán  thuờng  qui  H  &  E  đã  giúp  cho  nhà 
giải phẫu bệnh đương đầu thử  thách phân biệt 
giữa  u  lành  và  u  ác  ở  những  u  có  đường  kính 
nhỏ  dưới  10cm  và  mối  tương  quan  tuổi  người 
mắc bệnh trên 50 liên quan với u ác tính. 

12.
13.

14.


15.

16.

17.

18.

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

4.

5.

Ambrosi B, Peverelli S, Passini E, Re T, Ferrario R, Colombo P 
(1995),  ʺAbnormalities  of  endocrine  function  in  patients  with 
clinically  ʹsilentʹ  adrenal  massesʺ.  European  Journal  of 
Endocrinology, 132, 422‐428. 
Fassnacht  M,  Allolio  B  (2009),  ʺClinical  management  of 
adrenocortical carcinomaʺ. Best Pract Res Clin Endocrinol Metab, 
23, 273‐289. 
Fassnacht  M,  Libe  R,  Kroiss  M,  Allolio  B  (2011), 
ʺAdrenocortical  carcinoma:  a  clinicianʹs  updateʺ.  Endocrinol 7, 
323‐335. 

Herrera  MF,  Grant  CS,  Van  Heerden  JA,  Sheedy  PF,  Ilstrup 
DM  (1991),  ʺIncidentally  discovered  adrenal  tumors:  an 
institutional perspectiveʺ. Surgery, 110, 1014‐1021. 
Kendrick  ML,  Lloyd  R,  Erickson  L  (2001),  ʺAdrenocortical 
carcinoma:  surgical  progress  or  status  quo?  ʺ.  Arch Surg, 136, 
 

19.

20.

21.

22.

Nghiên cứu Y học

543‐549. 
Kloos  RT,  Gross  MD,  Francis  IR,  Korobkin  M,  Shapiro  B 
(1995),  ʺIncidentally  discovered  adrenal  massesʺ.  Endocrine 
Reviews 16, 460‐484. 
Koschker  AC,  Fassnacht  M,  Hahner  S,  Weisman  D,  Allolio  B 
(2006), ʺAdrenocortical carcinoma ‐ improving patient care by 
establishing new structuresʺ. Exp Clin Endocrinol Diabetes, 114, 
45‐51. 
Mantero  F,  Arnaldi  G  (2000),  ʺManagement  approaches  to 
adrenal incidentalomas: a view from Ancona, Italyʺ. Endocrinol 
Metab Clin North Am, 29, 107‐125. 
Mantero  F,  Masini  AM,  Opocher  G  (1997),  ʺAdrenal 
Incidentaloma:  an  overview  of  hormonal  data  from  the 

National Italian Study Groupʺ. Horm Res, 47(284‐289). 
Morimoto R (2008), ʺImmunohistochemistry of a proliferation 
marker  Ki67/MIB1  in  adrenocortical  carcinomas:  Ki67/MIB1 
labeling  index  is  a  predictor  for  recurrence  of  adrenocortical 
carcinomasʺ. Endocr J, 55, 49‐55. 
Nakano  M  (1988),  ʺAdrenal  cortical  carcinoma:  a 
clinicopathological  and  Immunohistochemical  Study  of  91 
autopsy casesʺ. Pathology International, 38(2), 163‐180. 
Reincke M, Beuschlein F, Slawik M, Borm K (2000), ʺMolecular 
adrenocortical tumorigenesisʺ. Eur J Clin Invest, 30, 63‐68. 
Sasano  H  (1995),  ʺTranscription  factor  adrenal  4  binding 
protein as a marker of adrenocortical malignancyʺ. Hum Pathol, 
26, 1154 ‐ 1156. 
Sbiera  S  (2010),  ʺHigh  diagnostic  and  prognostic  value  of 
steroidogenic  factor‐1  expression  in  adrenal  tumorsʺ.  J  Clin 
Endocrinol Metab, 95, 161‐171. 
Schteingart  DE  (2000),  ʺManagement  approaches  to  adrenal 
incidentalomas.  A  view  from  Ann  Arbor,  Michʺ.  Endocrinol 
Metab Clin North Am, 29, 127‐139. 
Stojadinovic A, Brennan MF, Hoos A, Omeroglu A, Leung HY, 
Dudas  ME,  et  al.  (2003),  ʺAdrenocortical  Adenoma  and 
Carcinoma:  Histopathological  and  Molecular  Comparative 
Analysisʺ. Mod Pathol, 16 (8), 742‐751. 
Stojadinovic A, Ghossein RA, Hoos A, Nissan A, Brennan MF, 
Jacques  DP  (2002),  ʺAdrenocortical  carcinoma:  clinical, 
morphologic and molecular characterizationʺ. J Clin Oncol, 20, 
941 ‐ 950. 
Terzolo  M  (2001),  ʺImmunohistochemical  assessment  of  Ki67 
in the differential diagnosis of adrenocortical tumorsʺ. Urology, 
57, 176‐182. 

Terzolo  M,  Ali  A,  Osella  G,  Mazza  E  (1997),  ʺPrevalance  of 
adrenal  carcinoma  among  incidentally  discovered  adrenal 
masses.  A  retrospective  study  from  1989  to  1994ʺ.  Archives of 
Surgery, 132, 914‐919. 
Weiss  LM  (1984),  ʺComparative  histologic  study  of  43 
metastasizing  and  nonmetastasizing  adrenocortical  tumorsʺ. 
Am J Surg Pathol, 8, 163 ‐ 169. 
Weiss  LM,  Medeiros  LJ,  Vickery  AL  (1989),  ʺPathologic 
features  of  prognostic  significance  in  adrenocortical 
carcinomaʺ. Am J Surg Pathol, 13, 202‐206. 
Wooten  MD,  King  DK  (1993),  ʺAdrenal  cortical  carcinoma. 
Epidermiology  and  treatment  with  mitotane  and  a  review  of 
the literatureʺ. Cancer, 72, 3145‐3155. 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012

605



×