Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Nghiên cứu thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi về hiến máu dự bị ở người dân tại huyện đảo Phú Quốc và Cát Hải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.77 KB, 5 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 

Nghiên cứu Y học

NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG NHẬN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ HÀNH VI  
VỀ HIẾN MÁU DỰ BỊ Ở NGƯỜI DÂN TẠI HUYỆN ĐẢO PHÚ QUỐC  
VÀ CÁT HẢI 
 Ngô Mạnh Quân*, Nguyễn Văn Nhữ*, Đặng Thanh Hải*, Nguyễn Đức Phát**, Bùi Thị Mai An*,  
Nguyễn Anh Trí* 

TÓM TẮT 
Mục tiêu: Nghiên cứu thực trạng hiểu biết, thái độ, hành vi về hiến máu dự bị và một số yếu tố liên quan ở 
người dân tại huyện đảo Phú Quốc và Cát Hải. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, phỏng vấn bằng bảng hỏi thiết kế 
trước ở 429 người dân trong độ tuổi hiến máu.  
Kết  quả:  39%  ĐTNC  đã  từng  nghe  về  HMDB,  25,6%  đã  từng  nghe  về  ngân  hàng  máu  sống;  74,4% 
ĐTNC đã từng biết về cấp cứu cần truyền máu tại đảo. 87,4% cho rằng cần thiết xây dựng lực lượng HMDB 
ngay tại đảo, 62,5% sẵn sàng đăng ký HMDB; 5,8% ĐTNC đã từng hiến máu.  
Kết luận: ĐTNC ở hai đảo đã có nhận thức bước đầu về HMDB và   có thái độ tích cực về sự cần thiết phải 
xây dựng lực lượng HMDB trên đảo. Tuy nhiên còn 25,6% chưa từng nghe về truyền máu cấp cứu, 20,5% 
không biết rõ nguồn máu từ đâu khi cần truyền máu trên đảo.   
Từ khóa: hiến máu dự bị, hiến máu tình nguyện, ngân hàng máu sống, an toàn truyền máu 

ABSTRACT 
KNOWLEDGE, ATTITUDE AND BEHAVIOR TOWARDS WALK‐IN BLOOD DONATION AMONG 
ADULTS IN PHUQUOC AND CATBA ISLAND 
Ngo Manh Quan, Nguyen Van Nhu, Dang Thanh Hai, Nguyen Duc Phat, Bui Thi Mai,  
Nguyen Anh Tri * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 5 ‐ 2013: 103 ‐ 107 
Objective:  To  access  situation  of  knowledge,  attitude  and  practice  towards  walk‐in  blood  donation  in 
Phuquoc and Catba Island.  
Methodology: cross‐sectional studying, using designed questionnaire to interview 429 individuals in both 


islands.  
Results:  39% of responders know about “walk‐in blood donation”, 25.6% know about “live blood bank”; 
74.4%  have  ever  known  about  blood  transfusion  in  emergency  cases  in  the  island.  5.8%  have  donated  before; 
87.4% support the idea that it is necessary to establish the walk‐in donor panel in the island; 62.5% are willing to 
register to walking blood donation panel.  
Conclusion: Responders in islands has initial awareness and positive attitude about walk‐in blood donation. 
But there are still 25.6% have never known about transfusion in emergency donation and 20.5% do not know 
where is the source of blood for treatment in the island.  
Key words: walk‐in blood donation, emergency blood donation, walk‐in blood donor panel. 

* Viện Huyết học – Truyền máu trung ương. 
 
** BV Đa khoa Phú Quốc – Kiên Giang. 
Tác giả liên lạc: Ths. Ngô Mạnh Quân 
ĐT: 0903 063 689   Email:  

Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 

103


Nghiên cứu Y học 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Đảm  bảo  nguồn  máu  cho  điều  trị  đầy  đủ, 
kịp thời và ổn định tại các cơ sở y tế thuộc vùng 
đảo, vùng sâu, vùng xa là một trong những yêu 
cầu  và  nhiệm  vụ  cấp  thiết  của  ngành  truyền 
máu  (6). Trong đó, xây dựng lực lượng hiến máu 
dự bị (HMDB) hay ngân hàng máu sống, là một 
trong  những  giải  pháp  hữu  hiệu  (1,3,5,6).  Những 

năm gần đây, Viện Huyết học – Truyền máu TW 
đã tiến hành khảo sát nhận thức về HMTN,  về 
nhóm  máu,  tỷ  lệ  nhiễm  viêm  gan  B  ở  người 
khỏe mạnh ở một số huyện đảo để tiến tới xây 
dựng lực lượng HMDB thực chất, hiệu quả  (2,4,7). 
Tuy nhiên, chưa có đề tài nào đánh giá về nhận 
thức, thái độ của người dân đối với HMDB. 
Chúng  tôi  thực  hiện  đề  tài  này  nhằm  mục 
tiêu: Đánh giá thực trạng hiểu biết, thái độ, hành 
vi về hiến máu dự bị và một số yếu tố liên quan 
ở người dân tại huyện đảo Phú Quốc (tỉnh Kiên 
Giang)  và  Cát  Hải  (Thành  phố  Hải  Phòng);  để 
góp phần vào công tác truyền thông nhằm thúc 
đẩy  xây  dựng  lực  lượng  HMDB  cho  khu  vực 
huyện đảo.  

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013
Chọn mẫu hộ gia đình 
Theo  phương  pháp  chọn  mẫu  nhiều  giai 
đoạn (multi‐stages sampling): chọn tổ dân phố, 
chọn  tuyến  phố,  chọn  hộ  gia  đình,  chọn  đối 
tượng và tiến hành phỏng vấn. 

Phương pháp nghiên cứu 
‐ Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt 
ngang. 
‐  Phương  pháp:  thu  thập  thông  tin  bằng 
bảng hỏi thiết kế trước, để khảo sát các chỉ số về 
nhân khẩu học, về nhận thức, quan điểm, hành 
vi về HMDB và một số yếu tố liên quan.   


Thời gian nghiên cứu 
4/2011 – 9/2011. 

Xử lý số liệu 
Bằng phần mềm SPSS 13.0 với các test thống 
kê thông dụng.  

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU  
Đặc  điểm  nhân  khẩu  học  của  đối  tượng 
nghiên cứu 
Bảng 1: Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  
Đối tượng nghiên cứu 
Đối tượng nghiên cứu (ĐTNC) 
438  người  dân  tại  Thị  trấn  Dương  Đông 
(huyện Phú Quốc) và Thị trấn Cát Bà (huyện Cát 
Hải);  cỡ  mẫu  trên  đượ  xác  định  dựa  trên  công 
thức cho chọn mẫu ngẫu nhiên đơn, dựa vào các 
nghiên  cứu  gần  đây  của  Viện  Huyết  học  – 
Truyền máu TW  (4), ước tính tỷ lệ có nhận thức 
về HMDB là 30% (p=0,3) với sai số tương đối:  = 
0,15.   
Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng 
Trong  độ  tuổi  HM  (18‐55  với  nữ,  18‐60  với 
nam); 
Đã  có  thời  gian  sống/làm  việc  >  2  năm  tại 
đảo; 
Tự nguyện tham gia nghiên cứu. 


104

Đảo Cát Bà
(n=216)
Chỉ số
Giới

Nam
Nữ

Tuổi trung bình (SD)
Dưới THPT
Tốt nghiệp
Trình độ học
THPT
vấn
CĐ/THCN
ĐH trở lên
Mức độ Thường xuyên
thường
Thỉnh thoảng
xuyên di
chuyển khỏi
Không
đảo

%
55
45

35,6
(11,2)
41,7

Phú
Chung
Quốc
(n=429)
(n=213)
%
%
45
53,4
55
46,6
36,1
36,5 (8,7)
(10,1)
48,4
45

40,3

43,2

41,7

13,8
4,2
11,1

43,1

5,6
2,8
4,7
67,1

9,8
3,5
7,9
55,0

45,8

28,2

37,1

Trong tổng số ĐTNC, 53,4% là nam, 46,6% là 
nữ; tuổi trung bình là 36; chưa tốt nghiệp THPT 
chiếm  45%.  Trong  số  ĐTNC,  37,1%  không  di 
chuyển  khỏi  đảo,  55%  thỉnh  thoảng  di  chuyển 
khỏi đảo. 

Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 
Kết quả về  nhận thức,  thái độ,  hành vi về 
hiến máu dự bị 

Nhận thức của ĐTNC về HMDB   
Bảng 2: Tỷ lệ ĐTNC đã từng nghe về HMDB hoặc 
ngân hàng máu sống   
Đảo
Đã từng nghe
Về “hiến máu tình
nguyện” (%)
Về “cho máu chuyên
nghiệp” (%)
Về “hiến máu dự bị”
(%)
Về “ngân hàng máu
sống” (%)
Về HMDB hoặc ngân
hàng máu sống (%)

Cát Bà
(n=216)

Phú
Chung
Quốc
(n=429)
(n=213)

81,9

90,6

86,2


61,1

79,3

70,2

20,8

57,7

39,2

6,9

44,6

25,6

23,6

65,3

44,3

p
<0,05
<0,001
<0,001
<0,001

<0,001

86%  ĐTNC  đã  từng  nghe  khái  niệm  về 
HMTN,  70%  biết  về  người  cho  máu  chuyên 
nghiệp. Chỉ 44,3% đã từng nghe nói về hiến máu 
dự bị hoặc ngân hàng máu sống, trong đó, 39% 
đã từng nghe về HMDB, 25,6% đã từng nghe về 
ngân hàng máu sống; Các tỷ lệ này ở Phú Quốc 
đều cao hơn so với ở Cát Hải, sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê với p<0,05 và p<0,001. 
 Bảng 3: Tỷ lệ ĐTNC đã từng nghe nói về trường 
hợp cấp cứu cần truyền máu   
Đảo Cát Bà Phú Quốc Chung
(n=216) (n=213) (n=429)
Chỉ số
%
%
%
Đã từng nghe về truyền máu cấp cứu trên đảo

58,3
90,6
74,4
Không
41,7
9,4
25,6
Biết về nguồn máu để sử dụng cho truyền máu tại đảo
Người bán máu
1,4

39,4
20,3
Người HMTN/HMDB
1,4
19,7
10,5
Thân nhân bệnh nhân
19,4
36,2
27,7
Nhận máu từ đất liền
52,8
12,7
32,9
Không biết
30,6
10,3
20,5

Có  74,4%  số  người  được  hỏi  đã  từng  biết, 
nghe  nói  về  trường  hợp  bệnh  nhân/nạn  nhân 
cần truyền máu cấp cứu tại đảo. Tuy nhiên, vẫn 
còn 20,5% không biết nguồn máu lấy từ đâu khi 
có bệnh nhân cần truyền máu ngay tại đảo. 

Thái độ của ĐTNC về HMDB 
87,4%  số  người  được  hỏi  đồng  ý  rằng  cần 

Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 


Nghiên cứu Y học
xây dựng lực lượng HMDB tại đảo, 71,8% đồng 
ý cho rằng HMDB là trách nhiệm của mỗi người 
dân trên đảo.  
Bảng 4: Quan điểm của ĐTNC về xây dựng lực 
lượng HMDB  
Trả lời Cát Bà Phú Quốc Chung
(n=216) (n=213) (n=429)
Quan điểm
%
%
%
Cần xây dựng lực lượng
87,4
2,1
10,5
HMDB trên đảo
HMDB là trách nhiệm của mỗi
71,8
11,7
16,6
người dân trên đảo

Bảng 5: Thái độ của ĐTNC về HMDB 
Trả lời Cát Bà Phú Quốc Chung
(n=216) (n=213) (n=429)
Chỉ số
%
%
%

Sẵn sàng đăng ký HMDB
62,5
62,4
62,5
Ủng hộ người thân HMDB
95,8
87,8
91,8

Có 62,5% người được hỏi sẵn sàng đăng ký 
HMDB cho người bệnh, tỷ lệ tương đương ở cả 
hai đảo (62,5% và 62,4%).  91,8% ĐTNC ủng hộ 
người thân của mình tham gia HMDB.   

Hành vi của ĐTNC về HMDB 
Bảng 6: Tỷ lệ ĐTNC đã từng hiến máu và vận 
động/khuyến khích người khác HM 
Đảo Cát Bà Phú Quốc Chung
(n=216) (n=213) (n=429)
Hành vi
%
%
%
Đã từng HM
6,9
4,7
5,8
Đã từng vận động, ủng hộ
12,5
21,6

17
người khác HM

Có  25  người  được  hỏi  (5,8%)  đã  từng 
HMTN;  73  người  (17%)  đã  từng  vận 
động/khuyến  khích  người  khác  tham  gia 
HMTN. 

Một  số  yếu  tố  liên  quan  đến  nhận  thức, 
thái độ, hành vi về HMDB 
Những  yếu  tố  tương  quan  tích  cực  tới  thái 
độ sẵn sàng đăng ký HMDB: Nhóm đã từng có 
người thân cần truyền máu có nguy cơ sẵn sàng 
đăng  ký  HMDB  cao  hơn  2,8  lần  so  với  nhóm 
không có người thân cần truyền máu (OR = 2,81, 
p<0,001);  Nhóm  có  bạn  bè,  người  thân  đã  từng 
HM  có  tỷ  lệ  sẵn  sàng  HMDB  cao  hơn  so  với 
nhóm không có người thân từng HMTN (79,8% 

105


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013

Nghiên cứu Y học 
và  37,6%),  tỷ  xuất  chênh  của  hai  tỷ  lệ  là  2,9 
(p<0,001); Nhóm không thường xuyên di chuyển 
khỏi đảo có tỷ lệ sẵn sàng HMDB cao hơn trong 
nhóm  thường  xuyên  di  chuyển  (64,1%  so  với 
44,1%), (OR=0,44, p<0,05). 

Bảng 7: Một số yếu tố liên quan tới thái độ sẵn sàng 
đăng ký HMDB  
Sẵn sàng đăng ký

Không
OR
HMDB
n (%)
n (%)
(95%CI)
Biến độc lập
94
2,81
Có bạn bè,

26 (21,7)
người thân
(78,3)
(1,72 –
đã từng
4,57)
174
135
truyền máu Không (56,3)
(43,7)
2,90
Có bạn bè,
Có 75 (79,8) 19 (20,2)
người thân
(1,68 –

193
142
đã từng
Không
5,02)
(57,6)
(42,4)
HMTN
253
Thường
142
Không
0,44
xuyên
(35,9)
(64,1)
(0,21 –
chuyển khỏi
15

19 (55,9) 0,89)
đảo
(44,1)

p
0,000

0,000

0,018


BÀN LUẬN 
Về đối tượng nghiên cứu 
Chủ  yếu  ở  độ  tuổi  lao  động,  với  tuổi  trung 
bình là 36, tỷ lệ đã tốt nghiệp THPT chiếm trên 
50%; 55% thỉnh thoảng di chuyển khỏi đảo, 37% 
không di chuyển khỏi đảo; đây là những yếu tố 
thuận  lợi  cho  việc  tiếp  nhận  các  thông  tin  về 
HMDB.  Tuy  nhiên  những  thông  tin  tuyên 
truyền, giáo dục về HMDB cần cô đọng, dễ hiểu, 
dễ  nhớ  để  phù  hợp  với  trình  độ  học  vấn  của 
người dân trên đảo.  

Về  nhận  thức,  thái  độ,  thực  hành  về 
HMDB 
Trong  nghiên  cứu  này,  chúng  tôi  sử  dụng 
những  khái  niệm  đơn  giản  và  phổ  biến  trong 
xây  dựng  lực  lượng  HMDB,  đó  là  HMDB  và 
ngân hàng máu sống. Kết quả cho thấy 86% số 
người  được  hỏi  đã  từng  nghe  khái  niệm  về 
HMTN,  70%  biết  về  người  cho  máu  lấy  tiền; 
nhưng chỉ có 44,3% đã từng nghe 1 hoặc 2 khái 
niệm,  trong  đó,  39%  đã  nghe  về  HMDB,  25,6% 
nghe về  ngân  hàng  máu  sống.  Ở  Phú  Quốc,  số 
ca truyền máu khá nhiều so với Cát Hải,  trung 
bình mỗi năm sử dụng hơn 200 đơn vị máu (8) và 

106

đã  có  một  số  hoạt  động  xây  dựng  LLHMDB 

cũng như tuyên truyền về HMTN tới người dân. 
Đó là lý do có thể giải thích được rằng các tỷ lệ 
về  nhận  thức,  thái  độ  về  HMDB  cao  hơn  có  ý 
nghĩa thống kê so với huyện Cát Hải. Có 90,6% 
số  người  được  hỏi  tại  Phú  Quốc  đã  từng  biết, 
nghe  nói  về  trường  hợp  bệnh  nhân/nạn  nhân 
cần truyền máu cấp cứu tại đảo, ở  Cát  Bà  tỷ  lệ 
này là 58,3%; hơn 30% người được hỏi ở Cát Bà 
không biết máu lấy từ đâu khi có bệnh nhân cần 
truyền  máu  ngay  tại  đảo.  Điều  này  cũng  cho 
thấy,  sự  cấp  thiết  cần  tăng  cường  công  tác 
truyền thông về HMTN và HMDB tới người dân 
trên đảo. 
Tuy nhiên, nhưng thái độ về HMDB ở người 
dân  hai  đảo  khá  tích  cực.  87,4%  cho  rằng  cần 
thiết  phải  xây  dựng  lực  lượng  HMDB  tại  đảo, 
71,8%  cho  rằng  HMDB  là  trách  nhiệm  của  mỗi 
người  dân  trên  đảo;  60%  người  được  hỏi  sẵn 
sàng đăng ký HMDB cho người bệnh, hơn 90% 
ủng  hộ  người  thân  của  mình  tham  gia  HMDB. 
Bên  cạnh  đó,  đã  có  5,8%  người  đã  từng  HM, 
17%  đã  từng  vận  động,  khuyến  khích  người 
khác tham gia HMTN, tỷ lệ này thấp hơn so với 
tỷ  lệ  22,5%  đã  từng  HM  trong  nghiên  cứu  của 
Ngô  Mạnh  Quân  ở  những  người  đăng  ký 
HMDB ở một số đảo khác (4). 

Về  một  số  yếu  tố  tương  quan  với  nhận 
thức, thái độ, hành vi về HMDB 
Từ  những  yếu  tố  tương  quan  tích  cực  với 

việc xây dựng lực lượng HMDB tại đảo, nghiên 
cứu  cho  thấy,  nếu  dựa  vào  nhóm  đối  tượng 
không thường xuyên di chuyển khỏi đảo, nhóm 
có bạn bè người thân đã từng HM, nhóm có bạn 
bè,  người  thân  đã  từng  được  truyền  máu  sẽ  là 
yếu  tố  thuận  lợi  cho  thành  công  của  xây  dựng 
lực lượng HMDB. Do cỡ mẫu và phạm vi nghiên 
cứu  còn  hạn  chế  nên  chúng  tôi  chưa  tìm  được 
nhiều yếu tố tương quan có ý nghĩa với thái độ, 
thực hành về HMDB ở hai đảo. 

KẾT LUẬN 
Khảo sát về nhận thức, thái độ và hành vi về 
HMDB  ở  429  người  dân  tại  hai  huyện  đảo, 

Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 
chúng tôi đưa ra một số kết luận sau: 
ĐTNC  ở  hai  huyện  đảo  bước  đầu  đã  có 
những nhận thức cơ bản và thái độ tích cực về 
HMDB, 39% đã từng nghe về HMDB, 25,6% đã 
từng  nghe  về  ngân  hàng  máu  sống;  74,4%  đã 
từng nghe về cấp cứu cần truyền máu tại đảo, 
5,8%  đã  từng  hiến  máu;  62,5%  sẵn  sàng  đăng 
ký  HMDB.  Tuy  nhiên,  còn  tới  20,5%  không 
biết  khi  bệnh  nhân  cần  máu  thì  lấy  máu  từ 
nguồn nào để truyền.  
Một  số  yếu  tố  tương  quan  tích  cực  cực  tới 

thái  độ,  hành  vi  về  HMDB  ở  đối  tượng  nghiên 
cứu, đó là những người có bạn bè, người thân đã 
từng  HM;  nhóm  đối  tượng  có  người  thân  đã 
từng được truyền máu, nhóm đối tượng không 
thường xuyên di chuyển khỏi đảo. 

Nghiên cứu Y học
3.

Malsby  R, Frizzi  J, Ray  P, Raff  J  (2005),  Walking  donor 
transfusion in a far forward environment, South Med J. 98(8): 
809‐10. 
Ngô  Mạnh  Quân,  Nguyễn  Văn  Nhữ,  Nguyễn  Đức  Thuận, 
Nguyễn  Xuân  Thái,  Nguyễn  Duy  Ngọc,  Triệu  Thị  Biển, 
Nguyễn  Anh  Trí  (2010).  Nhận  thức,  thái  độ  và  hành  vi  về 
hiến  máu  tình  nguyện  ở  người  đăng  ký  hiến  máu  dự  bị  tại 
một số vùng đảo, Y học Việt Nam. 422‐427. 
Ngô  Mạnh  Quân,  Nguyễn  Anh  Trí,  Nguyễn  Đức  Thuận 
(2011).  Xây  dựng  lực  lượng  hiến  máu  dự  bị  thực  chất,  hiệu 
quả và bền vững, Tạp chí Y học,  
Nguyễn Anh Trí (2004). An toàn truyền máu và các biện pháp 
để bảo đảm máu an toàn, Một số chuyên đề Huyết học ‐ TM 
tập 1. Nxb Y học, 87‐100. 
Nguyễn Anh Trí, Bùi Thị Mai An, Phạm Quang Vinh, Phạm 
Tuấn  Dương,  Ngô  Mạnh  Quân  (2010).  Khảo  sát  nhóm  máu 
hệ ABO, Rh(D) của người dân tại một số huyện đảo để xây 
dựng lực lượng hiến máu dự bị. Y học Việt Nam, tháng 9, số 
2/2010, 400‐404. 
Nguyễn  Đức  Phát,  Nguyễn  Văn  Dũng,  Nguyễn  Thị  Loan, 
Ngô  Mạnh  Quân,  Nguyễn  Anh  Trí  (2011).  Nghiên  cứu  kết 

quả công tác đảm bảo an toàn truyền máu tại Bệnh viên đa 
khoa huyện Phú Quốc năm năm (2007‐2011), Tạp chí Y học TP 
Hồ Chí Minh,  phụ  bản  số  4,  chuyên  đề  Truyền  máu‐  Huyết 
học, tập 15, 397‐401. 

4.

5.

6.

7.

8.

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

Abdalla  FO,  Mwanda  W  and  Rana  F.  (2005).  Comparing 
walk‐in and call‐responsive donors in a national and a private 
hospital in Nairobi. East Afr Med J. 82(10):531‐5. 
Bùi Thị Mai An, Nguyễn Anh Trí (2009),  Khảo sát nhóm máu 
hệ  ABO,  Rh  (D)  và  tình  hình  nhiễm  virus  viêm  gan  B  của 
người  dân  tại  đảo  Bình  Ba,  Khánh  Hòa  để  xây  dựng  lực 
lượng hiến máu dự bị, Tạp chí Nghiên cứu Y học, số 4 tập 63: 
82‐85. 
 


Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 

 
Ngày nhận bài báo:  

 

 20 tháng 8 năm 2013 

Ngày phản biện:  

 

 06 tháng 9 năm 2013 

Ngày bài báo được đăng:  

22 tháng 10 năm 2013 

  

107



×