Tải bản đầy đủ (.docx) (84 trang)

thực trạng kiến thức, thái độ và hành vi về phòng chống hiv aids của người dân thị trấn quế, huyện kim bảng, tỉnh hà nam năm 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (496.46 KB, 84 trang )

B GIO DC V O TO B Y T
TRNG I HC Y H NI
LU TH H
Thực trạng kiến thức, thái độ và hành vi về
PHòNG CHốNG HIV/AIDS của ngời dân thị trấn Quế, huyện
Kim Bảng, tỉnh Hà Nam năm 2012
KHểA LUN TT NGHIP C NHN Y T CễNG CNG
KHểA 2009 2013
H NI 2013
B GIO DC V O TO B Y T
TRNG I HC Y H NI
LU TH H
Thực trạng kiến thức, thái độ và hành vi về
PHòNG CHốNG HIV/AIDS của ngời dân thị trấn Quế, huyện
Kim Bảng, tỉnh Hà Nam năm 2012
KHểA LUN TT NGHIP C NHN Y T CễNG CNG
KHểA 2009 2013
Ngi hng dn khoa hc:
TS. NG C NHU
H NI - 2013
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng đào tạo đại học, Bộ
môn Dịch tễ học, Trường Đại học Y Hà Nội đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi
hoàn thành luận văn tốt nghiệp cử nhân Y tế công cộng khóa 2009-2013 này.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn
của mình tới :
-TS. Đặng Đức Nhu, người thầy đã động viên, tận tình hướng dẫn, giúp
đỡ và chia sẻ với tôi những kiến thức, phương pháp nghiên cứu khoa học vô
cùng quý giá trong suốt quá trình triển khai và hoàn thành luận văn này.
-GS.TS. Nguyễn Trần Hiển- Chủ nhiệm bộ môn Dịch tễ học, Viện
trưởng Viện Vệ sinh dịch tễ TW, Người thầy là tấm gương sáng về tinh thần


nghiên cứu khoa học không mệt mỏi, là hình tượng giúp tôi nhìn vào và có
động lực trong suốt thời gian học tập và thực hiện nghiên cứu này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các bạn sinh viên bác sĩ đa khoa tổ 11 lớp
Y4C-những bạn đã tham gia cùng tôi trong nhóm điều tra viên, cảm ơn những
người dân địa phương đã nhiệt tình tham gia nghiên cứu. Không được sự hỗ
trợ, giúp đỡ của các bạn, tôi không thể hoàn thành luận văn này được.
Tôi vô cùng biết ơn bố mẹ, anh chị em và những người thân trong gia
đình đặc biệt là tập thể phòng 311-KTX E1 đã luôn động viên, khích lệ và cho
tôi nguồn động lực để tôi không ngừng học tập và phấn đấu. Xin cảm ơn bạn
bè,bạn đồng khóa lớp Y4N đã động viên tinh thần, chia sẻ và giúp đỡ tôi mọi
mặt trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn tôt nghiệp.
Hà nội, tháng 6 năm 2013
Sinh viên
Lưu Thị Hà
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng nghiên cứu này là của riêng tôi. Những số liệu
trong nghiên cứu là do tôi thu thập trong quá trình nghiên cứu và làm việc tại
trạm y tế thị trấn Quế-huyện Kim Bảng-tỉnh Hà Nam một cách khoa học và
chính xác.
Kết quả thu thập được trong nghiên cứu chưa được đăng tải và công bố
trên bất kì một tạp chí hay công trình khoa học nào. Các bài trích dẫn, các số
liệu tham khảo đều là những tài liệu đã được công nhận
Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2013
Sinh viên
Lưu Thị Hà
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AIDS : Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (Acquired
Immuno Deficiency Syndrome)
BKT : Bơm kim tiêm
BCS : Bao cao su

BLTQĐTD : Bệnh lây truyền qua đường tình dục
BP : Biện pháp
ĐH/CĐ : Đại hoc/Cao đẳng
ĐTNC : Đối tượng nghiên cứu
ĐTV : Điều tra viên
GMD : Gái mại dâm
GDSK : Giáo dục sức khỏe
HIV : Vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người (Human
Immunodeficiency Virus)
HMTN : Hiến máu tình nguyện
HSSV : Học sinh –sinh viên
KAP : Kiến thức-thái độ-thực hành (Knowledge- Attitude- Practice )
NCMT : Nghiện chích ma túy
NVYT : Nhân viên Y tế
NVQS :Nghĩa vụ quân sự
PNBD : Phụ nữ bán dâm
PTTH : Phổ thông trung học
QHTD : Quan hệ tình dục
TCMT : Tiêm chích ma túy
TTN : Thanh thiếu niên
SAVY : Điều tra Quốc gia về Vị thành niên và Thanh niên Việt
Nam
SDBCS : Sử dụng bao cao su
SDMT : Sử dụng ma túy
STI : Bệnh lây truyền qua đường tình dục
UBQG : Uỷ ban quốc gia
UNAIDS : Chương trình phòng ,chống AIDS của Liên Hợp Quốc
Viện HHTMTƯ : Viện Huyết học –truyền máu trung ương
VPAIS : Điều tra mẫu các chỉ tiêu dân số và AIDS
WHO : Tổ chức Y tế thế giới ( World Health Organization)

MỤC LỤC
PHỤ LỤC
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC SƠ ĐỒ
9
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tuy chỉ mới xuất hiện từ đầu những năm 80 của thế kỉ trước nhưng
HIV/AIDS đã nhanh chóng lan ra toàn cầu và gây ra những hậu quả nặng nề
về kinh tế - chính trị - xã hội cho nhiều nước trên thế giới [18].
Ước tính tỷ lệ hiện nhiễm HIV ở người trưởng thành (15-49 tuổi) sẽ
khoảng 0,44% vào năm 2010 và 0,47% vào năm 2012, trong ước tính trung
bình tại Việt Nam. Tỷ lệ hiện nhiễm HIV ở nhóm nam giới trưởng thành sẽ
khoảng 0,66% vào năm 2012, cao gấp 2,5 lần so với nữ giới [4],[ 61]. Dự tính
đến năm 2015, khoản thiếu hụt hàng năm chi cho phòng chống HIV/AIDS
toàn cầu sẽ là 7 tỷ đô la [52]. Điều đó cho thấy rõ nếu mỗi người, mỗi gia
đình, mỗi cộng đồng không chia sẻ trách nhiệm, quyền lợi để có được những
biện pháp can thiệp hữu hiệu và kịp thời thì sẽ không còn thời cơ để ngăn
chặn đại dịch một cách chủ động với kinh phí thấp nhưng hiệu quả cao. Do
vậy cần phải có những biện pháp ngăn chặn khoa học, thực tiễn và khẩn cấp
[2].
Hiểu biết của người dân về HIV còn hạn chế. Theo các điều tra gần đây
nhất, ở các nước có thu nhập thấp và trung bình chỉ có 24% phụ nữ trẻ và nam
giới trẻ trả lời các câu hỏi chính xác về các biện pháp dự phòng lây nhiễm
HIV và phản đối các quan niệm sai lầm về HIV [50]. Nhận thức và kiến thức
về HIV thấp sẽ tiếp tục là những thách thức toàn cầu trong những năm tới
trong việc kiểm soát lây nhiễm HIV trong đó có Việt Nam là nước bị ảnh
hưởng nhiều thứ 2 bởi dịch HIV/AIDS trong khu vực Đông Nam Á, sau Thái
Lan [29]. Một bộ phận dân cư vẫn chưa thực sự có nhận thức đúng đắn về
HIV/AIDS. Hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS trong một số nhóm người
như tiêm chích ma túy, phụ nữ mại dâm vẫn còn ở mức độ cao… Điều đó có

nghĩa là mặc dù chúng ta đã giảm được tốc độ lây lan của HIV, nhưng dịch
HIV/AIDS vẫn diễn biến khó lường và tiềm ẩn các yếu tố có thể bùng nổ dịch
nếu chúng ta không có những biện pháp ứng phó toàn diện và quyết liệt hơn.
Mục tiêu cụ thể chương trình quốc gia phòng chống HIV/AIDS đến hết năm
10
2015 là: 60% người dân trong độ tuổi 15-49 có hiểu biết đúng về dự phòng
lây nhiễm HIV/AIDS và phản đối những quan niệm sai lầm phổ biến về lây
nhiễm HIV/AIDS. Do đó một trong các ưu tiên trong thời gian tới đó là: tiếp
tục nghiên cứu để xác định về thái độ, kiến thức và thực hành dự phòng
HIV/AIDS trong nhóm dân số tuổi từ 15-49 ở cấp độ quốc gia [29].
Hà Nam là một tỉnh nằm ở Tây Nam châu Thổ sông Hồng, trong vùng kinh tế
trọng điểm Bắc Bộ, cách Hà Nội 58 km và tương lai không xa sẽ trở thành
thành phố vệ tinh của Hà Nội. Tính đến ngày 15/10/2012, trong toàn tỉnh Hà
Nam có 866 người nhiễm HIV còn sống, trong đó có 277 bệnh nhân AIDS và
473 người đã tử vong do AIDS. Thành phố Phủ Lý có số người nhiễm HIV
cao nhất toàn tỉnh với tổng số 413 người nhiễm, trong đó có 259 người
chuyển sang giai đoạn AIDS và 197 người đã tử vong.
Ở Hà Nam , chúng tôi thấy ít có nghiên cứu về HIV/AIDS hơn các tỉnh
khác. Tuy nhiên, năm 2012, theo một điều tra của dự án quỹ toàn cầu phòng,
chống HIV/AIDS tại 10 tỉnh nước ta mà dự án chưa có số liệu trong đó có tỉnh
Hà Nam, kết quả cho thấy một vài điểm đáng lưu ý đó là: tỷ lệ nhiễm HIV ở
nhóm PNBD tại Hà Nam cao nhất (10%) trong khi đa số các tỉnh khác ở mức
thấp (trung vị: 2,1%); tỉ lệ TCMT ở Hà Nam ở mức cao (3%); tỉ lệ nhận được
BCS rất thấp ở hầu hết các tỉnh đặc biệt Hà Nam là tỉnh hầu như chưa có hoạt
động can thiệp này (2,6%) [53].Trong thời gian tới, cần thiết phải chú trọng
hơn đến việc kiểm soát dịch HIV/AIDS tại tỉnh này để có thể khống chế sự lây
lan của dịch HIV/AIDS từ các nhóm nguy cơ cao ra cộng đồng. Với lý do đó ,
chúng tôi đã tiến hành đề tài nghiên cứu: “Thực trạng kiến thức, thái độ và
hành vi về phòng chống HIV/AIDS của người dân thị trấn Quế, huyện Kim
Bảng, tỉnh Hà Nam năm 2012” với hai mục tiêu như sau:

1. Mô tả kiến thức, thái độ và thực hành phòng chống HIV/AIDS ở
người dân thị trấn Quế, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam năm 2012
2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ và thực hành
phòng chống HIV/AIDS ở người dân thị trấn Quế, huyện Kim Bảng
tỉnh Hà Nam năm 2012.
11
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình lây nhiễm HIV/AIDS trên thế giới và Việt Nam.
1.1.1. Tình hình lây nhiễm HIV/AIDS trên thế giới:
AIDS (là chữ viết tắt của cụm từ tiếng Anh: Accquired Immuno
Deficiency Syndrome) hay còn gọi là SIDA (viết tắt cụm từ tiếng Pháp:
Syndrome Immuno Deficience Accquise) đều dịch ra tiếng Việt có nghĩa là:
"Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải" (theo WHO). Kể từ ca nhiễm HIV
được phát hiện đầu tiên tại Mỹ từ năm 1981, cho đến nay loài người đã trải
qua 30 năm đối phó với một đại dịch quy mô lớn, phức tạp.
Ngày 20/11/2012, UNAIDS - chương trình phối hợp của Liên Hợp
Quốc về HIV/AIDS đã công bố “Báo cáo toàn cầu về HIV/AIDS năm 2012”,
trong đó nêu rõ tình hình dịch và đáp ứng với HIV/AIDS trên phạm vi toàn
cầu đến hết năm 2011 [51]. Theo báo cáo này, trong năm 2011, năm thứ 31
của cuộc chiến chống HIV/AIDS nhân loại vẫn phải nhận thêm 2,5 triệu
người mới nhiễm HIV (dao động từ 2,2 triệu đến 2,8 triệu) và 1,7 triệu người
(dao động từ 1,5 triệu đến 1,9 triệu) tử vong do các bệnh liên quan đến AIDS.
Số người nhiễm HIV/AIDS hiện đang còn sống trên hành tinh này là 34 triệu
(dao động từ 31,4 triệu -35,9 triệu). Trong 34 triệu người nhiếm HIV/AIDS
đang còn sống có khoảng ½ (17 triệu người) không biết gì về tình trạng
nhiễm vi rút này của mình [51],[ 62]. Điều này hạn chế khả năng của họ tiếp
cận các dịch vụ dự phòng và chăm sóc, và do đó làm tăng khả năng lây truyền
HIV từ họ ra cộng đồng.
Tỷ lệ hiện nhiễm HIV/AIDS trên thế giới đến cuối năm 2011 vào

khoảng 0,8% số người lớn (từ 15-49 tuổi) [51]. Khu vực Sahara của châu Phi
12
vẫn là nơi bị HIV/AIDS tấn công nặng nề nhất, gần như cứ trong 20 người
lớn (15-49 tuổi) trong khu vực này lại có 01 người nhiễm HIV/AIDS đang
còn sống (4,9%). Hiện khu vực này chiếm 69% tổng số người nhiễm
HIV/AIDS còn sống trên thế giới [51],[ 62]. Mặc dù tỷ lệ hiện nhiễm
HIV/AIDS ở khu vực cận Sahara châu Phi cao gấp 25 lần so với tỷ lệ này ở châu
Á, nhưng tổng số người nhiễm HIV đang sống ở châu Á (bao gồm Nam Á, Đông
Nam Á, và Đông Á) đã lên tới con số 5 triệu. Sau cận Sahara của châu Phi (nơi bị
ảnh hưởng nặng nề nhất ) là vùng Caribê, Đông Âu và Trung Á- những khu vực
đang có khoảng 1,0% số người lớn đang mang trong mình HIV [51].
Báo cáo của Liên Hợp Quốc gần đây cho biết, đã có hơn 80 nước trên
thế giới tăng 50% đầu tư trong nước để phòng chống HIV/AIDS trong thời
gian từ 2006-2011 [52]. Nam Phi đã sử dụng các nguồn trong nước để chi trả
hơn 80% chi phí cho phòng chống AIDS và đã tăng đầu tư trong nước cho
AIDS lên gấp 3 lần trong khoảng thời gian từ 2006-2011. Chính Phủ Trung
Quốc đã cam kết hoàn toàn tự túc chi phí cho phòng chống AIDS trong những
năm tới [52]. Ngân sách quốc gia Việt Nam năm 2012 dành cho ứng phó với
HIV lên 20% so với năm 2011. Số người ở các nước thu nhập thấp và trung
bình được điều trị chống căn bệnh thế kỷ này cũng đạt kỷ lục 8 triệu người
trong năm 2011[52]. Các trường hợp nhiễm mới và tử vong giảm khá mạnh
vào năm 2011. Kể từ khi phát hiện đến nay trên thế giới có khoảng 30 triệu
người chết do AIDS, khoảng 34 triệu người đang sống chung với AIDS. Mặc
dù đã có nhiều nỗ lực song hiện tại mới chỉ có khoảng 50% số người bị nhiễm
HIV/AIDS được tiếp cận với các biện pháp điều trị. Năm 2012, tổng chi phí
toàn cầu cho công tác phòng chống HIV/AIDS là 16,8 tỷ USD [52]. Tuy nhiên,
đến năm 2015 ước tính chi phí cho công tác này đòi hỏi cần thêm từ 22-24 tỷ
USD. Đây là thách thức không nhỏ trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang
gặp khó khăn, các nguồn tài trợ quốc tế đang có xu hướng giảm [4],[ 52],[ 61].
13

1.1.2. Tình hình lây nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam
1.1.2.1. Lịch sử phát hiện HIV/AIDS tại Việt Nam:
Trường hợp nhiễm HIV đầu tiên của Việt Nam được phát hiện vào tháng
12 năm 1990 trên một phụ nữ bị lây nhiễm qua đường tình dục [33],[ 59]. Đến
năm 1992 chỉ có 11 trường hợp nhiễm HIV được báo cáo. Năm 1993 có sự
bùng nổ người nhiễm HIV ở những người nghiện chích ma túy ở các tỉnh phía
nam, chủ yếu là thành phố Hồ Chí Minh và Khánh Hòa. Những năm tiếp theo
mỗi năm có khoảng từ 1500 đến 2500 trường hợp nhiễm HIV được báo cáo.
Bắt đầu từ 1987 chính phủ đã có những hành động đầu tiên chống lại dịch
HIV/AIDS (ví dụ như: Ủy ban Quốc gia phòng chống HIV/AIDS được chính
thức thành lập năm 1990 đặt dưới sự chỉ đạo của Bộ Y tế) [27].
Trong những năm đầu khi người ta mới phát hiện ra những bệnh nhân
nhiễm HIV/AIDS phần lớn là đàn ông, nhưng dần dần theo thời gian, tỷ lệ
phụ nữ mắc bệnh ngày càng gia tăng. Vào đầu năm 1990 chỉ có khoảng 25% phụ
nữ bị nhiễm nhưng đến năm 1992 thì con số này là 40%. Phần lớn họ có tiếp xúc
tình dục với người mang HIV. Qua nhiều nghiên cứu cho thấy tỷ lệ lây nhiễm từ
nam sang nữ là 15-20% trong khi số lây từ nữ sang nam chỉ 7-10%. Điều này
chứng tỏ nữ dễ bị nhiễm bệnh hơn nam giới [32]. Ở Việt Nam, ca nhiễm HIV đầu
tiên trong nhóm mại dâm nữ được phát hiện vào năm 1993 và cũng có một số
nghiên cứu về mại dâm tại Việt Nam nhưng chủ yếu là các nghiên cứu mô tả về
kiến thức và hành vi [46]. Các kết quả khảo sát về kiến thức, thái độ, lòng tin,
thực hành có liên quan đến nhiễm HIV/AIDS đã cho thấy đa số còn thiếu hiểu biết
về HIV và có hành vi nguy cơ cao dễ bị lây nhiễm HIV [60].
1.1.2.2. Tình hình cập nhật về dịch HIV/AIDS tại Việt Nam:
Qua hơn 20 năm, có thể khẳng định công tác phòng chống HIV/AIDS ở
Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Với việc mở rộng từ công
tác dự phòng đến công tác chăm sóc và điều trị bệnh nhân AIDS, về cơ bản
Việt Nam đã kiềm chế được tốc độ gia tăng của đại dịch, khống chế tỉ lệ
nhiễm HIV trong cộng đồng nhưng vẫn chưa đảm bảo tính bền vững và tiềm
14

ẩn những yếu tố nguy cơ bùng phát [5]. Theo báo cáo tình hình HIV/AIDS
năm 2011 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2012 của Bộ Y tế: Mặc dù
chương trình liên tục được mở rộng trong những năm qua nhưng nhóm người
dễ bị lây nhiễm HIV tiếp cận được với chương trình còn hạn chế, chỉ đạt
trung bình khoảng 50-60% đối với chương trình BKT, 40-50% đối với
chương trình BCS và phần lớn người nhiễm HIV đến với cơ sở điều trị ở giai
đoạn muộn. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng rào cản tiếp cận chương trình là do
nhận thức người dân đối với HIV/AIDS còn hạn chế, điều kiện kinh tế, địa
bàn đi lại khó khăn, ở xa cơ sở dịch vụ phòng chống HIV/AIDS, sự kì thị của
xã hội vẫn còn cao, thái độ của một số địa phương đối với việc loại trừ ma túy
làm cho người nghiện chích ma túy, người nhiễm HIV liên quan đến nghiện
chích ma túy ngại tham gia hoặc sợ bị bắt khi tiếp cận các dịch vụ dự phòng,
chăm sóc, điều trị HIV/AIDS [5].
Đến hết 30/06/2012, Bộ y tế đã báo cáo tổng số trường hợp nhiễm HIV
hiện đang còn sống là 204.019 người; tổng số bệnh nhân AIDS còn hiện còn
sống là 58.569 người; tổng số người nhiễm HIV đã tử vong là 61856 người.
Ba tỉnh có số trường hợp xét nghiệm phát hiện dương tính lớn nhất với HIV
trong 6 tháng đầu năm 2012, bao gồm TP. Hồ Chí Minh: 1099 trường hợp, Hà
Nội: 399 trường hợp, Sơn La: 268 trường hợp. Từ năm 2007 đến năm 2011 tỷ
lệ nhiễm HIV phát hiện có xu hướng giảm, tuy nhiên năm 2011 có tăng nhẹ.
Danh sách 10 tỉnh có số người nhiễm HIV còn sống cao nhất cả nước tính đến
hết tháng 6 năm 2012 bao gồm: TP HCM (49429 người); Hà Nội (19701);
Hải Phòng (6890 người); Thái Nguyên (6593 người); Sơn La (6294 người);
Nghệ An (5182 người); Đồng Nai (5139 người); Điện Biên (5024 người);
Thanh Hóa (4908 người) và An Giang (4761 người) [6] Hiện tại 63/63
tỉnh/thành phố; gần 98% quận huyện và 78% xã phường trên toàn quốc đã
phát hiện ra HIV/AIDS. Theo báo cáo tổng kết tình hình lây nhiễm HIV ở
Việt Nam của Bộ y tế cho biết đến cuối năm 2011, phân bố nhiễm HIV ở nam
là 69%, ở nữ là 31% [5]. Như vậy tính từ năm 2005 đến năm nay, tỷ lệ người
15

nhiễm HIV ở nữ giới tăng 12,3% [6]. Tính đến năm 2011, 82% số người
nhiễm HIV/AIDS thuộc độ tuổi từ 20-39 tuổi. Tỷ lệ người nhiễm HIV ở nhóm
30-39 tuổi có xu hướng tăng từ 31.9% năm 2005 lên 43% tính đến cuối năm
2011 và tiếp tục tăng lên 45.4% trong 6 tháng đầu năm 2012. Hình thái dịch
HIV/AIDS đang có xu hướng “già hóa” trong số nhứng người nhiễm HIV
được phát hiện, nguy cơ các trường hợp nhiễm HIV đã có sự chuyển dịch từ
nhóm tuổi 20-29 tuổi sang nhóm tuổi 30-40, đúng với hình thái lây truyền qua
đường tình dục có xu hướng gia tăng [5],[ 6] Đặc biệt là báo cáo số liệu 6
tháng đầu năm 2012 ghi nhận đây là lần đầu tiên các trường hợp nhiễm HIV
mới phát hiện lây truyền qua đường tình dục nhiều hơn lây truyền qua đường
máu: 45 % tỉ lệ lây truyền qua đường tình dục tính đến 31/6/2012 tăng 3%,
trong khi tỷ lệ người lây nhiễm HIV qua đường máu chiếm 42% giảm khoảng
4.5% so với cùng kì năm 2011.
Nguồn: Bộ y tế trong báo cáo công tác P,C HIV/AIDS 6 tháng đầu năm và
trọng tâm kế hoạch 6 tháng cuối năm 2012 ban hành ngày 04/09/2012
Biểu đồ 1.1: Phân bố người nhiễm HIV theo đường lây qua các năm
16
Tỷ lệ người nhiễm HIV lây truyền từ mẹ sang con chiếm 2.4%, có
10.6% tỷ lệ người nhiễm HIV không rõ đường lây truyền. Tỷ lệ nhiễm HIV
trong nhóm nguy cơ cao ở 1 số tỉnh có nguy cơ tăng lên: ví dụ như tỷ lệ
nhiễm HIV trong nhóm phụ nữ bán dâm ở tỉnh Hà Nam và Vĩnh Phúc tăng
cao so với tỷ lệ bình quân cả nước (3%); tỷ lệ nghiện chích ma túy ở 1 số tỉnh
như Hà Nam, Ninh Bình, Hưng Yên, Vĩnh Phúc trước đây không thuộc giám
sát trọng điểm, ít được đầu tư các hoạt động can thiệp thì nay tỷ lệ nhiễm HIV
trong nhóm nghiện chích ma túy ở mức rất cao so với trung bình cả nước
(13,4%), trong khi tại hai thành phố lớn là Hà Nội và TP HCM diễn biến dịch
phức tạp, khó kiểm soát [6]. Theo ước tính và dự báo tình hình dịch
HIV/AIDS đến năm 2015 có khoảng 263.317 người nhiễm HIV chiếm tỷ lệ
0,29% dân số. Theo ước tính nhu cầu điều trị dự phòng lây truyền HIV từ mẹ
sang con đến năm 2015 là 50.000 người [4],[ 34]. Ở Việt Nam, các nguồn

kinh phí nước ngoài đóng góp 72.5% tổng chi phí cho chương trình phòng
chống HIV, AIDS trong những năm 2008-2010. Năm 2010, Việt Nam ra khỏi
nhóm nước đang phát triển có thu nhập thấp, nguồn đầu tư hỗ trợ từ cộng
đồng quốc tế cho phòng, chống HIV/AIDS sẽ giảm nhanh là thách thức không
nhỏ cho công tác phòng, chống HIV/AIDS trong thời gian tới [6],[ 52].
Nhiều tỉnh thành trên cả nước cũng đang gặp phải vấn đề nan giải trong
đó có tỉnh Hà Nam đó là: nhóm quần thể dân cư nói chung từ 15-49 tuổi đang
bị đe dọa bị lây nhiễm HIV. Nghệ An (tính đến tháng 7/2012): Các trường hợp
nhiễm HIV được phát hiện nhiều nhất thuộc nhóm tiêm chích ma túy chiếm
85,67%, nhóm tuổi nhiễm HIV nhiều nhất từ 20-39 tuổi. TP Vinh và một số
huyện miền núi như Quế Phong, Tương Dương, Qùy Châu …là những địa
phương có nhiều người nhiễm HIV/AIDS nhất [11]. Theo thống kê của Sở Y
tế Điện Biên, lũy tích từ năm 1998 đến cuối tháng 7/2012, trên địa bàn cả tỉnh
17
có hơn 6400 trường hợp nhiễm HIV, gần 2400 trường hợp đã chuyển sang
giai đoạn AIDS và gần 2200 trường hợp đã tử vong do AIDS. 9/9 huyện, thị
xã, thành phố và 91/112 xã, phường, thị trấn có người nhiễm HIV. Tỷ lệ người
nhiễm HIV còn sống chiếm 0,73% dân số. Số người nhiễm HIV chủ yếu tập
trung ở nhóm tuổi từ 20-39 tuổi chiếm gần 85%, nam giới chiếm gần 74%.
Dịch lây nhiễm qua đường máu chiếm gần 70%, qua đường tình dục hơn
28%, lây truyền từ mẹ sang con 1,35% [12]. Tính đến hết t8/2012, sở Y tế tỉnh
Lào Cai đã phát hiện gần 200 trường hợp nhiễm HIV mới. So sánh với số
liệu những năm trước cho thấy các đối tượng nhiễm HIV/AIDS đang có xu
hướng trẻ hóa. Đối tượng nhiễm bệnh độ tuổi từ 20-39 tuổi chiếm 88,5%
(năm 2011 là 80,8%). Thực trạng: thanh thiếu niên đang dần trở thành “tâm
bão”của dịch HIV/AID và theo đánh giá của UBND tỉnh Lào Cai tình hình
nhiễm HIV trên địa bàn tỉnh thời gian qua vẫn gia tăng và có xu hướng lây lan
ra cộng đồng, các biện pháp giảm tác hại mặc dù đã được triển khai nhưng độ
bao phủ chưa rộng [39]. Đặc biệt tại hội nghị diễn ra vào sáng ngày
17/01/2013, bà Lượng Thị Tới – Trưởng phòng Chăm sóc, bảo vệ trẻ em (Sở

LĐ-TB-XH TP HCM) đã nêu con số: hiện thành phố có khoảng 1,8 triệu trẻ
em và có khoảng 25000 trẻ bị nhiễm, ảnh hưởng bởi HIV/AIDS [38].
1.2. .Những đặc điểm dịch tễ học của HIV:
1.2.1. Nguồn bệnh:
Bênh nhân AIDS và người nhiễm HIV là nguồn truyền nhiễm duy
nhất. Không có ở chứa nhiễm trùng tự nhiên ở động vật. HIV phân lập được
từ máu, tinh dịch, dịch tiết âm đạo, nước bọt, nước mắt và các dịch khác của
cơ thể. Nhưng nhiều nghiên cứu dịch tễ học cho thấy chỉ có máu, dịch tiết âm
đạo, tinh dịch đóng vai trò quan trọng trong việc làm lây truyền HIV[18].
18
1.2.2. Các đường lây nhiễm và không lây nhiễm HIV/AIDS
1.2.2.1. Các đường lây nhiễm HIV /AIDS:
Khi cơ thể người bị nhiễm HIV thì nó có nhiều trong máu (từ 1000-
10000 virut/1ml máu) kế đến là trong tinh dịch, dịch tiết âm đạo. Sữa mẹ của
phụ nữ nhiễm HIV/AIDS có số lượng thấp hơn. Ngoài ra cũng tìm thấy HIV
trong các dịch khác của cơ thể: nước bọt, đờm nhớt, nước mắt … nhưng với
số lượng rất ít, không đủ lây nhiễm [2].
HIV chủ yếu lây nhiễm qua 3 đường [2]:
- Đường tình dục
- Đường máu
- Đường mẹ mang thai truyền sang con (giai đoạn chu sinh)
Vì các đường lây đó hội tụ đủ 2 điều kiện [2]:
- Số lượng HIV đủ ngưỡng lây
- Tạo ngõ vào thẳng trong máu.
Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy các bệnh lây truyền qua
đường tình dục làm tăng nguy cơ lây nhiễm HIV có thể lên gấp 20 lần [1].
Phụ nữ có nguy cơ nhiễm cao hơn nam giới [16].
1.2.2.2. Các đường không lây nhiễm HIV [2]:
Ngoài các con đường lây nhiễm chủ yếu trình bày ở trên, HIV không
lây nhiễm theo các đường:

- Ho, hắt hơi, sổ mũi
- Bắt tay, sờ mó hoặc ôm ấp, ôm hôn
- Dùng chung cốc, chén, bát, đũa, thìa, các dụng cụ ăn uống khác.
- Thức ăn, nước uống.
- Tiếp xúc thông thường tại nơi làm việc, trường học.
- Dùng lại quần áo cũ.
- Bơi chung trong các bể bơi, bãi tắm công cộng.
19
- Sử dụng điện thoại.
- Dùng chung nhà vệ sinh
Không lây cho người chăm sóc nếu người chăm sóc không có vết
thương hở và không để dính máu, chất dịch của người nhiễm HIV.
Hiểu biết cặn kẽ các phương thức lây truyền và không lây truyền sẽ có
được những biện pháp dự phòng HIV/AIDS đúng đắn.
1.2.3. Đặc điểm dịch tễ học của nhiễm HIV/AIDS:
Nhiễm HIV là nhiễm trùng suốt đời
Khác với các nhiễm trùng khác, mầm bệnh chỉ tồn tại một thời gian
trong cơ thể, HIV một khi đã tích hợp vào bộ gen của tế bào chủ nó sẽ tồn tại
cùng vật chủ cả đời. Thậm chí sau khi tử vong, HIV vẫn tiếp tục sống trong tử
thi vài ngày. Do đó người nhiễm HIV có thể truyền bệnh cho người khác suốt
cả cuộc đời mình [36].
Dịch HIV là một dịch ẩn
Nghiên cứu lịch sử tự nhiên của bệnh, người ta thấy nhiễm HIV diễn
biến qua nhiều giai đoạn từ sơ nhiễm qua giai đoạn cửa sổ-> nhiễm HIV
không triệu chứng -> biểu hiện cận AIDS rồi AIDS. Kể từ khi nhiễm HIV đến
khi diễn biến thành AIDS thường kéo dài từ 5-10 năm [36]. Theo nghiên cứu
của tác giả Bartlett J.C tại Francisco thấy rằng thời gian trung bình từ khi
nhiễm HIV chuyển thành AIDS qua đường truyền máu là 7 năm, đường chích
ma túy là 10 năm, người đồng tính luyến ái là 8-12 năm [57]. Người bị nhiễm
HIV không có biểu hiện gì trên lâm sàng nhưng trong máu có HIV và trở

thành nguồn lây cho mọi người. Giai đoạn này kéo dài từ 5-20 năm hoặc lâu
hơn tùy thuộc vào hành vi của người nhiễm [25]. Nếu người nhiễm HIV vẫn
giữ các hành vi nguy cơ cao của mình (nghiện chích. QHTD bừa bãi ),…thì
thời gian có thể rút ngắn hơn nhiều, có khi chỉ 1-5 năm [41]. Dịch HIV/AIDS
20
lan tràn một cách âm ỉ mà ta không biết, chỉ cần phát hiện một người bị AIDS
thì xung quanh đã có rất nhiều người mắc rồi (hiện tượng tảng băng nổi) [36].
1.3. Các yếu tố nguy cơ nhiễm HIV/AIDS [58]:
Có thể chia các yếu tố ảnh hưởng đến lây nhiễm HIV làm 4 nhóm:
1.3.1. Yếu tố sinh học: Những tổn thương niêm mạc đường sinh dục như
người mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục có khả năng nhiễm HIV
cao hơn bình thường 2-9 lần, hẹp bao qui đầu dẫn đến dễ bị mắc các bệnh lây
truyền qua đường tình dục và gây loét, do vậy nguy cơ nhiễm HIV và lây cho
người khác cao hơn. Ngoài ra giai đoạn nhiễm HIV cũng ảnh hưởng tới khả
năng lây truyền. Nguy cơ lây nhiễm rất cao trong giai đoạn cửa sổ.
1.3.2. Yếu tố hành vi: Sự chấp nhận của xã hội về lối sống có nhiều bạn tình,
phương thức sinh hoạt tình duc (miệng, hậu môn,âm đạo) không được bảo vệ.
Động tác quan hệ tình dục càng mạnh, thời gian càng lâu thì tỷ lệ trầy xước
càng cao, nguy cơ lây nhiễm HIV càng tăng. Hay các phong tục xăm mình,
xâu lỗ tai, đặc biệt nghiện chích ma túy là nguy cơ cao lây nhiễm HIV.
1.3.3. Yếu tố dân số học: Lứa tuổi có tỷ lệ lây nhiếm HIV cao là 15-45 tuổi.
Những di biến động dân cư cũng làm tăng sự lây lan HIV.
1.3.4. Yếu tố văn hóa, kinh tế, xã hội : Sự kém hiểu biết về HIV/AIDS, tác
hại của ma túy và an toàn tình dục cũng làm tăng nguy cơ nhiếm HIV
- Yếu tố kinh tế: Đói nghèo, không đủ nguồn lực để đương đầu với
AIDS, những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường,…ảnh hưởng lớn đến sự gia
tăng HIV,…
- Yếu tố chính trị: Sự quan tâm của xã hội, luật pháp với các nhóm nguy
cơ cao (NCMT, mại dâm), thái độ đối với giáo dục tình dục, sự chấp nhận của xã
hội đối với phương pháp xét nghiệm HIV dấu tên và việc cho phép cung cấp

21
BCS, BKT, điều trị cai nghiện bằng những chất thay thế ma túy như Methadone,
…đều ảnh hưởng làm tăng hoặc giảm nguy cơ lây nhiễm HIV…
Theo bà Khuất Thu Hồng, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Phát
triển xã hội, việc hiểu sai lệch về sự lây nhiễm HIV là một trong những
nguyên nhân gốc rễ tạo nên sự kì thị phân biệt đối xử liên quan đến
HIV/AIDS.
1.4. Các biện pháp ngăn chặn đại dịch HIV/AIDS:
1.4.1. Phòng lây nhiễm qua đường tình dục.
a. Giáo dục và khuyến khích các hành vi tình dục an toàn
b. Sản xuất, cung cấp và hướng dẫn sử dụng BCS
c. Chẩn đoán và điều trị sớm các bệnh lây truyền qua đường tình dục
1.4.2. Phòng lây qua đường máu.
a. Thực hiện an toàn trong truyền máu
b. Ngăn ngừa các hành vi nghiện tiêm chích ma túy không an toàn
c. Phòng lây nhiễm từ mẹ sang con
d. Chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV /AIDS tại nhà
e. Làm giảm tác động của đại dịch
Trên thế giới kể từ trường hợp AIDS được phát hiện năm 1981tại Los
Angeles đến năm 1985 thuốc điều trị HIV/AIDS đầu tiên ra đời là AZT
(Azidothymidine) [45]. Cho đến nay, tuy đã sản xuất thêm nhiều loại thuốc
mới nhưng AZT vẫn còn tiếp tục được sử dụng. Tỷ lệ người nhiễm HIV có
biểu hiện triệu chứng là 46,2%, trong số đó chỉ có 56,2% số người nhận được
thuốc điều trị triệu chứng miễn phí, không có người nhiễm nào nhận được
thuốc điều trị đặc hiệu [15].
22
Trong lúc chưa có thuốc đặc hiệu để chữa trị và chưa có vắc xin để
phòng chống, phải coi trọng biện pháp tuyên truyền giáo dục nhằm làm thay
đổi hành vi, tránh được sự lây lan của đại dịch HIV/AIDS [2].
1.5. Nhận thức, thái độ thực hành phòng chống HIV/AIDS

1.5.1. Vai trò của nghiên cứu KAP phòng chống HIV/AIDS với hiệu quả
phòng chống lây nhiễm HIV/AIDS trong cộng đồng.
KAP về HIV/AIDS là một trong những vấn đề đã và đang được khai
thác, nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực: xã hội học, y học xã hội, y tế cộng
đồng…Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện ở trong và ngoài nước, ở những
nhóm cộng đồng khác nhau như: thanh niên, người dân, người nghiện chích
ma túy, gái mại dâm, nam quan hệ tình dục đồng giới (MSM)…Những kết
quả nghiên cứu cho thấy, từ nhận thức, thái độ đến hành vi là một quá trình
logic, liên quan chặt chẽ với nhau. Nhận thức đầy đủ sẽ dẫn tới thái độ đúng
và hành vi phù hợp. Tuy nhiên trong lĩnh vực phòng chống HIV/AIDS, logic
đó không phải lúc nào cũng phù hợp và chính điều này đã gây những khó
khăn nhất định trong việc chuyển đổi hành vi, thực hành phòng chống
HIV/AIDS. Như trong nghiên cứu của Ngô Văn Tán năm 2010 trên học sinh
THPT huyện Châu Thành, Bến Tre cho thấy rằng kiến thức và thực hành về
phòng chống HIV/AIDS ở các em khá cao: có 85,9% học sinh có kiến thức
tốt, 83,4% có thực hành tốt, tuy nhiên chỉ có 39,2% học sinh có thái độ tích
cực [42]. Theo kết quả nghiên cứu đánh giá can thiệp so sánh trước – sau có
nhóm chứng trên 465 nam, nữ TTN dân tộc Thái 12-24 tuổi chưa có gia đình
tại xã Tông Lạnh, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La trong thời gian 3 tháng của
năm 2007 cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trong tỷ lệ đạt kiến
thức, thái độ phòng chống HIV/AIDS (OR tương ứng là 9,5 và 2,5; p<0,001)
trước và sau can thiệp của ĐTNC sau khi kiểm soát một số yếu tố nhiễu. Tuy
nhiên, chưa cso sự thay đổi đáng kể về tỷ lệ đạt thực hành phòng chống
HIV/AIDS trước và sau can thiệp.
23
Muốn đưa ra một kế hoạch, chương trình can thiệp có hiệu quả thì phải
nắm được thực trạng của cộng đồng. Để đáp ứng yêu cầu này, nhiều cuộc điều
tra KAP đã được tiến hành để tìm hiểu kiến thức của cộng đồng về
HIV/AIDS, thái độ của họ với những người bị nhiễm HIV, lòng tin của họ đối
với các biện pháp phòng tránh và quan trọng nhất là hành vi của họ đã thực sự

thay đổi để bảo vệ cho bản thân và cộng đồng chưa. Các cuộc điều tra KAP là
nền móng chính xác nhất và cơ bản nhất cho việc sử dụng các phương tiện
truyền thông giáo dục phù hợp cho từng nhóm đối tượng, đặc biệt là nhóm đối
tượng có nguy cơ cao như mại dâm, tiêm chích [19].
Người nhiễm HIV/AIDS không chỉ chịu hậu quả nặng nề của một căn
bệnh thế kỷ, mà còn phải chịu gánh nặng thêm vào đó là sự kì thị, phân biệt
của cộng đồng đối với mình. Sự kỳ thị képlàm người khác coi người nhiễm
HIV/AIDS là cần phải cách ly. Thái độ đối xử của cộng đồng với những
người nhiễm HIV/AIDS đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra môi trường
thuận lợi để những người nhiếm HIV thực hiện các hành vi an toàn, phòng
lây, HIV cho cộng đồng giúp họ tái hòa nhập, sống có ích cho gia đình và xã
hội. Trong những năm gần đây, các chiến dịch truyền thông phòng chống
HIV/AIDS thường tập trung vào việc chống xa lánh, phân biệt đối xử với
người nhiễm HIV, hỗ trợ và giúp đỡ những người nhiễm HIV, hỗ trợ và giúp
đỡ những người nhiễm HIV tái hoà nhập cộng đồng [37].
1.5.2. Những kết quả nghiên cứu KAP phòng chống HIV/AIDS thời gian
gần đây:
Nghiên cứu mô tả kiến thức, hành vi về HIV/AIDS của Nguyễn Bảo
Châu năm 2004 trên TTN nguy cơ cao tại Hà Nội cho thấy đa số đối tượng
được phỏng vấn nằm trong độ tuổi 20-29 tuổi với 89% nam và phần lớn có
trình độ THCS (50,5%): chỉ có 42,5% TTN trả lời đúng về nguồn và đường
lây truyền HIV/AIDS; tỷ lệ TTN có kiến thức đúng 2 biện pháp phòng lây
nhiễm HIV/AIDS (sử dụng BCS và tiêm chích an toàn) là 87,5% [7].
Năm 2005, Khương Văn Duy và Nguyễn Thị Thắm tiến hành nghiên
cứu “Thực trạng hành vi ứng xử đối với người nhiễm HIV/AIDS cho thấy
24
mặc dù tỷ lệ học sinh THPT ở Hải Phòng có thái độ sẵn sàng chăm sóc những
người bị nhiễm HIV/AIDS tương đối cao (78%) nhưng tỷ lệ mua bán hay sử
dụng hàng hóa mà những người bị nhiễm HIV/AIDS không cao [14]. Cũng
trong năm 2005, Đỗ Phương Loan đã tiến hành nghiên cứu về kiến thức và

thực hành về HIV/AIDS và phơi nhiễm nghề nghiệp với HIV trên đối tượng
là tất cả sinh viên năm thứ 6 năm học 2004 - 2005 của 8 trường Đại học Y
khoa trên toàn quốc chỉ ra rằng: 67,4% sinh viên được hỏi trả lời sai về thời
gian sớm nhất có thể phát hiện kháng thể kháng HIV với các kỹ thuật sinh
nghiệm đang có ở Việt Nam; 31,1% sinh viên trả lời có biết về các triệu
chứng lâm sàng của bệnh HIV/AIDS và tỉ lệ sinh viên đã từng đi xét nghiệm
HIV là 27,3% [26].
QHTD nhất là QHTD không an toàn là một trong những đường lây phổ
biến của HIV. Nhận thức đầy đủ , có thái độ tích cực đối với QHTD là cơ sở
để đối tượng thực hành phòng chống phòng chống nhiễm HIV tốt nhất. Theo
nghiên cứu năm 2010 của Trần Văn Kiệm và cs tại phòng tư vấn xét nghiệm
tự nguyện HIV tại Quảng Nam cho thấy hành vi nguy cơ lây nhiễm
HIV/AIDS của khách hàng đến phòng tư vấn khá cao: 39,86% khách hàng có
QHTD với nhiều người, 52,18% khách hàng không thường xuyên sử dụng
BCS khi QHTD, có 32,79% khách hàng là người TCMT và tỷ lệ khách hàng
đến phòng tư vấn dương tính với HIV là 9,55% [22]. Năm 2011, Đào Huệ
Lan và cs tiến hành nghiên cứu trên công nhân tại công ty than Núi Béo,
Quảng Ninh đã đưa ra kết quả là trên 70% nam CN trả lời đã từng QHTD với
GMD, gần một nửa trong số họ (44,5%) không sử dụng BCS [23].
Nghiên cứu trên 1425 nam, nữ TN chưa xây dựng gia đình từ t8/2004
đến t1/2005 tại 30 cụm là điểm nóng về ma túy ở 3 tỉnh Quảng Trị, Anh
Giang và Kiên Giang đã đưa ra kết luận: Tỷ lệ đối tượng hiểu biết đúng cả 3
đường lây nhiễm HIV/AIDS là 67,9%, cao nhất là Quảng Trị (72,1%); An
Giang (66,6%) và thấp nhất là Kiên Giang (65,1%) [40].
Nghiên cứu mô tả cắt ngang của Hà Văn Như năm 2008: 71,9% ĐTNC
có kiến thức chung về phòng chống HIV/AIDS đạt, trong đó, tỷ lệ học sinh
25
biết đường lây truyền qua máu 84,7%, qua QHTD không an toàn: 92,2%, mẹ
truyền cho con: 85,2%. Có một tỷ lệ đáng kể học sinh hiểu biết không đúng
đường lây truyền HIV: ôm hôn nhau: 13,8%, ở chung nhà: 12,2%, muỗi rệp

đốt: 30,7%. Học sinh 15 tuổi có kiến thức đạt thấp hơn học sinh 16 đến 17
tuổi (p<0,0001). Biện pháp phòng tránh lây nhiễm HIV là: không tiêm chích
(TCMT): 81,2% sử dụng BCS đúng cách khi QHTD: 78,0%, xét nghiệm
người cho máu: 70% [31].
Năm 2008, tác giả Trần Kiên (Học Viện Quân Y) công bố kết quả đề tài
“Nghiên cứu thực trạng các yếu tố liên quan đến kiến thức và thái độ về
phòng chống HIV/AIDS của phụ nữ 15-49 tuổi có chồng tại 1 tỉnh Cao Bằng
và Sơn La cho thấy: Phụ nữ ở các dân tộc khác nhau thì có nhận thức và thái
độ trong phòng chống HIV/AIDS cũng khác nhau, phụ nữ ở vùng cao hơn có
phong tục tập quán lạc hậu hơn thì kiến thức và thái độ trong phòng chống
HIV/AIDS kém hơn.
Nguyễn Khắc Hiền (Sở Y tế Hà Tây) tiến hành nghiên cứu năm 2008 tìm
hiểu “Một số đăc điểm dịch tễ học HIV/AIDS tại tỉnh Hà Tây” và đã đưa ra
được các con số: tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS cao nhất ở các độ tuổi từ 20-39
chiếm 87,86% và tập trung chủ yếu ở nam giới 86,83% [17]. Theo số liệu
giám sát phát hiện và giám sát trọng điểm thì tỷ lệ nhiễm HIV tập trung chủ
yếu ở nhóm đối tượng NCMT (78,3%), GMD (3,92%) và đang có xu hướng
lan rộng ra cộng đồng dân cư. Nghiên cứu cũng cho hay tỷ lệ nhiễm HIV ở
nhóm PN mang thai chiếm 2,37%, thanh niên khám tuyển nghĩa vụ quân sự
chiếm 0,36% [17].
Nghiên cứu một số thông tin phản hồi của người nhiễm HIV/AIDS về sự
hỗ trợ của gia đình và cộng đồng tại bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang từ tháng
11/2008 đến tháng 5/2009 cho kết quả 56,4% người nhiễm HIV/AIDS đươc
gia đình có thái độ chấp nhận , tỷ lệ này ở cộng đồng là 44,2%; 31,4% người
nhiễm HIV/AIDS được hỗ trợ điều trị của gia đình trong khi tỷ lệ được hỗ trợ
giúp đỡ tại cộng đồng chỉ đạt 6,7% [54].

×