Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Sử dụng đường xuyên kết mạc trong phẫu thuật điều trị gãy xương hàm gò má

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.98 KB, 8 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014

Nghiên cứu Y học

SỬ DỤNG ĐƯỜNG XUYÊN KẾT MẠC
TRONG PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ GÃY XƯƠNG HÀM GÒ MÁ
Trần Phan Chung Thủy*

TÓM TẮT
Trong phẫu thuật chỉnh hình hàm mặt, một đường rạch đủ rộng có thể tiếp cận để kết hợp xương đồng thời
lại không để lại sẹo là một trong những yêu cầu của xu thế hiện nay khi xã hội ngày càng phát tiển.
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả sử dụng đường xuyên kết mạc trong phẫu thuật chỉnh hình xương
hàm gò má bằng nẹp vít nhỏ.
Đối tượng nghiên cứu: Bệnh nhân được chỉnh hình xương hàm gò má có sử dụng đường rạch xuyên kết
mạc, điều trị nội trú tại khoa Tai mũi họng bệnh viện Chợ Rẫy từ 1/2011 đến 12/2012. Thiết kế nghiên cứu:
Nghiên cứu lâm sàng, phương pháp tiến cứu.
Kết quả: Có 54 trường hợp, tuổi trung bình 27± 8 tuổi (từ 15 - 59 tuổi), chủ yếu tập trung trong nhóm từ
20-40 tuổi. Nam chiếm nhiều hơn nữ, gấp 3,5 lần nữ. Đa số các trường hợp do nguyên nhân tai nạn giao thông
chiếm 88,9%. Kết quả sẹo tốt 94,4%; sẹo xấu 5,6%. Độ hài lòng của bệnh nhân: hài lòng 64,8%; hài lòng trung
bình 33,3%; không hài lòng 1,8%.
Kết luận: Đường xuyên kết mạc là một đường vào mang tính thẩm mỹ nhưng có thể tiếp cận được các ổ gãy
xương cần kết hợp trong phẫu thuật chỉnh hình xương hàm gò má bằng nẹp vít nhỏ.
Từ khóa: Vỡ xương hàm gò má, đường xuyên kết mạc, phẫu thuật chỉnh hình xương hàm gò má.

ABSTRACT
APPLYING THE TRANSCONJUNCTIVAL APPROACH
IN ZYGOMATICO-MAXILLARY FRACTURE FIXATION
Tran Phan Chung Thuy * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 2 - 2014: 347-354
In facial plastic surgery, an adequate incision that can approach the fracture site without leaving a scar is
now a demand in a developing society.
Objective: evaluate the result of using the transconjunctival approach in zygomatico-maxillary


reconstructive surgery with miniplates and screws.
Material: patients having zygomatico-maxillary fractures being reconstructed by the transconjunctival
approach at ENT department, Choray hospital 01/2011-12/2012. Study design: clinical, prospective study
Result: Total 54 cases, mean age 27 ± 8, (15-59 yrs old), most common from 25 to 49 yrs old.
Male/female=3,5/1. Causes: Traffic accidents 88,9%. Result: good scar 94,4%; bad scar 5,6%. Patient's
satisfaction: satisfied 64,8%; moderately satisfied 33,3%; Unsatisfied 1,8%
Conclusion: transconjunctival approach is cosmetic and can reach the fracture site in zygomatico-maxillary
reconstructive surgery.
Keyword: zygomatico-maxillary fracture, transconjunctival approach, zygomatico-maxillary reconstructive
surgery
* Khoa Tai Mũi Họng, Bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: TS. BS Trần Phan Chung Thuỷ, ĐT: 0979917777, Email:

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013

347


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Phương pháp nghiên cứu

ĐẶT VẤN ĐỀ
Xương gò má là xương quan trọng trong
khối xương mặt, góp phần tạo dựng nên đặc
điểm khuôn mặt của mỗi người. Về mặt chức
năng, nó liên quan với nhiều cấu trúc giải phẫu
quan trọng. Gãy xương gò má thường gây ảnh
hưởng lớn đến thẩm mỹ, cùng chức năng nhai

do ảnh hưởng tới khớp cắn, và các bệnh lý thứ
phát như viêm xoang mũi và các biến chứng của
nó. Việc điều trị có đạt kết quả tốt hay không
phụ thuộc rất nhiều vào vấn đề chẩn đoán, điều
trị đúng và kịp thời.

Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu lâm sàng,
phương pháp tiến cứu.
Lựa chọn bệnh nhân:Tất cả các trường hợp
vỡ xương hàm gò má có sử dụng đường rạch
xuyên kết mạc và thỏa mãn các điều kiện trên
được điều trị nội trú tại khoa Tai mũi họng bệnh
viện Chợ Rẫy từ 1/2011 đến 12/2012.
Lập hồ sơ theo dõi: Những bệnh nhân có chỉ
định phẫu thuật điều trị vỡ xương hàm gò má
với kỹ thuật đường rạch bờ ngoài ổ mắt liên tục
đường xuyên kết mạc, phối hợp nắn chỉnh ngoài
hay đường rạch trong miệng phối hợp nếu cần.
Các bệnh nhân này được lập hồ sơ nghiên cứu
theo mẫu và theo dõi đầy đủ theo lịch hẹn.

Vỡ xương hàm gò má thường để lại hậu quả
lâu dài về mặt thẩm mỹ và chức năng nếu không
được điều trị tốt. Nhiều đường rạch để lại sẹo
trên mặt bệnh nhân ảnh hưởng nặng nề đến
thẩm mỹ vùng mặt, kéo theo những tổn thương
về tâm lý nặng nề, làm người bệnh khó hòa nhập
với xã hội.

Dụng cụ và vật liệu nghiên cứu


Yêu cầu đường rạch thẩm mỹ, không để lại
sẹo, nhưng đủ rộng và an toàn cho phẫu thuật
chỉnh hình xường hàm gò má cung tiếp là cần
thiết cùng với sự phát triển của xã hội và yêu cầu
ngày càng cao về thẩm mỹ.

Bộ dụng cụ kết hợp xương: Nẹp vít thích
hợp và bộ dụng cụ sử dụng nép vít

ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNGPHÁP NGHIÊNCỨU

000
Bộ dụng cụ phẫu thuật với kéo, nhíp nhọn
nhỏ, malleable, bay.

Chỉ Vicryl 5.0, Nylon 5.0

Phương pháp phẫu thuật
Bệnh nhân nằm ngửa gây mê nội khí quản.

Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân được chỉnh hình xương hàm gò
má có sử dụng đường rạch xuyên kết mạc, nội
trú tại khoa Tai mũi họng bệnh viện Chợ Rẫy từ
1/2011 đến 12/2012 thỏa mãn các điều kiện sau:
Bệnh nhân đã được ổn định về chấn thương
các chuyên khoa có liên quan
Không lệch khớp cắn
Bệnh nhân phải có đủ sức khỏe để có thể

chịu đựng được cuộc mổ mê.
Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu và
tái khám định kỳ theo lịch hẹn.
Được chỉnh hình xương hàm gò má cung
tiếp bằng đường rạch xuyên kết mạc.

348

Thuốc tê Xylocain 2% pha Adrenaline1/100

Chích tê bằng Xylocain 2% pha
Adrenaline1/100 000 khoé mắt ngoài, kết mạc.
Rạch da ngang khóe mắt ngoài 1cm đến 1,5
cm, bóc tách bộc lộ tới gờ ngoài xương ổ mắt. Từ
vết rạch bờ khóe mắt ngoài, bọc lộ ổ gãy mỏm
trán gò má của xương hàm trên.
Rạch bóc tách kết mạc, bóc tách qua vách ổ
mắt và cơ vòng mi vào đến màng xương của bờ
dưới ổ mắt thấy bờ dưới ổ mắt gãy, rạch màng
xương bộc lộ sàn và bờ dưới ổ mắt, hút hết máu
tụ, bộc lộ ổ gãy.
Bộc lộ ổ gãy gờ dưới ổ mắt, gờ ngoài ổ mắt,
sàn ổ mắt.
Giải phóng ổ gãy

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Nâng xương hàm gò má từ bên ngoài bằng

Ginesté kết hợp nâng xương từ ổ gãy đã được
bộc lộ.
Sau khi bọc lộ ổ gãy tiến hành kết hợp xương
bằng nẹp vít nhỏ.
Có thể kết hợp nâng xoang hàm từ bên trong
qua đường khe mũi dưới Claoué cố định xoang
hàm bằng sonde Foley với 10ml nước muối qua
nội soi bằng đường mũi.
Kiểm tra sự vững chắc của ổ gãy xương và
sự cân bằng của xương hàm gò má 2 bên.
Khâu kết mạc bằng Vicryl 5.0 và khâu da bờ
ngoài khoé mắt ngoài bằng Nylon 5.0.

KẾT QUẢ
Bảng 1: Phân bố bệnh nhân theo độ tuổi
<20 tuổi
20–40 tuổi
41–60 tuổi

Số trường hợp
14
33
7
54

Tỷ lệ (%)
25,9
61,1
12,9
100


Bảng 5: Phân loại của Larson O.D. và Thomson M.:
Phân loại tổn thương
Độ IIIa
Độ IIIb
Độ IV
Tổng số

Số trường hợp
42
12
54

Tỷ lệ (%)
77,8
22,2
100

Nam chiếm nhiều hơn nữ, gấp 3,5 lần nữ
Bảng 3: Nguyên nhân
Nguyên nhân
Tai nạn giao thông
Tai nạn sinh hoạt
Tai nạn lao động
Tổng số

Số trường hợp
48
4
2

54

Tỷ lệ (%)
88,9
7,4
3,7
100

Đa số các trường hợp do nguyên nhân tai
nạn giao thông 48/54 chiếm 88,9%
Bảng 4: Triệu chứng lâm sàng:
Triệu chứng lâm sàng

Số trường
hợp
Mất liên tục xương, có điểm đau chói
54
Tràn khí dưới da vùng má, mi mắt dưới
22
Sụp tam giác gò má cung tiếp
54
Chảy máu mũi
23
Chảy máu dưới kết mạc
42
Giảm hoặc mất cảm giác ở vùng da
25
Song thị
4
Há miệng hạn chế

36

Tỷ lệ
(%)
100
40,7
100
42,5
77,8
46,2
7,4
66,7

Số bệnh nhân
16
26
12
54

Tỷ lệ (%)
29,6
48,2
22,2
100

Bảng 6: Đánh giá đường xuyên kết mạc trong phẫu
thuật chỉnh hình xương hàm gò má:
Đường xuyên kết mạc
Số trường hợp Tỷ lệ (%)
Chảy máu nhiều trong mổ

0
0
Chảy máu sau mổ
0
0
Xuất huyết kết mạc nhiều hơn
6
11,1
Nhiễm trùng, viêm kết mạc
0
0
Sưng bầm mắt sau mổ nhiều
0
0
Biến chứng ảnh hưởng thị lực
0
0
Lộn mi
0
0
Sẹo xấu khóe mắt
2
3,2
Sẹo xấu kết mạc
0
0
Có thể tiếp cận các ổ gãy để
48
88,9
nẹp vít


Bảng 7: Kết quả chung:
Kết quả
Độ IIIa
Độ IIIb
Độ IV
Tổng số
Tỷ lệ

Bảng 2: Phân bố bệnh nhân theo giới tính
Giới
Nam
Nữ
Tổng số

Nghiên cứu Y học

Sẹo Tốt
16
25
10
51
94,4

Sẹo Xấu
0
1
1
3
5,6


Tổng số
16
26
12
54
100

Bảng 8: Độ hài lòng của bệnh nhân:
Kết quả hài lòng về
Hài lòng
Không Tổng
vết mổ đường xuyên Hài lòng Trung
Hài lòng số
bình
kết mạc khó thấy sẹo
Độ IIIa
10
6
0
16
Độ IIIb
18
8
0
26
Độ IV
7
4
1

12
Tổng số
35
18
1
54
Tỷ lệ %
64,8
33,3
1,8
100

BÀN LUẬN
Tại nước ta hiện nay, cùng với sự phát triển
của xã hội công nghiệp hóa, cơ giới hóa và giao
thông vận tải ngày càng phát triển, gãy xương gò
má chiếm tỷ lệ cao nhất trong chấn thương gãy
xương mặt. Xuất độ gãy xương gò má cung tiếp
ngày càng gia tăng và mức độ chấn thương ngày
càng trầm trọng(9). Xã hội ngày càng phát triển
thì các bệnh nhân người được phẫu thuật chỉnh
hình chấn thương xương hàm gò má không
những yêu cầu phẫu thuật trả lại chức năng, sự

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013

349


Nghiên cứu Y học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014

cân đối của khuôn mặt mà còn yêu cầu thẩm mỹ
không để lại sẹo.

gãy, sẹo tối thiểu và nguy cơ chấn thương thần
kinh hay những cấu trúc sống khác là nhỏ nhất(1).

Đánh giá kết quả nghiên cứu chung

Nhìn lại lịch sử của các đường tiếp cận trong
phẫu thuật chỉnh hình xương hàm gò má
- Từ những năm thập niên 70 sự ra đời của
nẹp vít đã đánh dấu một bước tiến lớn trong
phẫu thuật chỉnh hình xương hàm gò má. Nhiều
tác giả đã sử dụng đường rạch dưới mí mắt, trán
thái dương để phẫu thuật đặt nẹp vít.

- Giới: trong lô nghiên cứu của chúng tôi, vỡ
xương hàm gò má ở nam gấp 3,5 lần nữ. Tỷ lệ
này phù hợp với nghiên cứu của tác giả Lâm
Hoài Phương(4). Kết quả này cũng phù hợp với
tình hình chấn thương chung của vỡ xương hàm
gò má.
- Tuổi: Trong nghiên cứu của chúng tôi, tuổi
trung bình 28 ± 6 tuổi, chủ yếu tập trung trong
nhóm từ 20 – 40 tuổi chiếm 61,1 %.
- Nguyên nhân chấn thương: Theo nghiên
cứu này, tai nạn giao thông thường gặp nhất

chiếm 88,9 %. Số liệu này phù hợp với thực tế
tình hình chấn thương chung của vỡ xương hàm
gò má(2,3).
- Việc đánh giá và phân loại biến dạng mặt
sau chấn thương sẽ ảnh hưởng đến sự chọn lựa
phương pháp phẫu thuật. Chúng tôi phối hợp
chẩn đoán lâm sàng và X quang, chụp cắt lớp
điện toán để chẩn đoán vị trí gãy, mức độ phức
tạp, độ di lệch... Đồng thời chúng tôi sử dụng
phân loại của Larson O.D. và Thomson M. để
phân loại. Phân loại này tương đối dễ, gắn với
lâm sàng. Tất cả các trường hợp vỡ xương hàm
gò má của chúng tôi đều xếp loại từ IIIa trở lên,
có gãy phức tạp và di lệch nhiều (5).
- Triệu chứng lâm sàng gặp trong tất cả các
trường hợp là: Mất liên tục xương, có điểm đau
chói và sụp tam giác gò má cung tiếp.

Bàn luận về đường vào phẫu thuật
- Đường vào phẫu thuật được chọn lựa sẽ
quyết định sự dễ dàng trong việc sửa chữa và cố
định những đoạn xương bị di lệch, thời gian
phẫu thuật và kết quả thẩm mỹ. Trong lô nghiên
cứu của chúng tôi, gồm các trường hợp vỡ
xương hàm gò má có kết hợp xương thông qua
đường mổ xuyên kết mạc, có hay không kết hợp
đường đường rạch niêm mạc ngách lợi hàm
trên. Việc sử dụng 1 hoặc nhiều đường rạch thì
mục đích là bộc lộ đủ của những đoạn xương


350

- Với đường rạch trán-thái dương không
nhìn thấy sẹo vì đường rạch được dấu trong tóc,
tuy nhiên đường rạch này có một số nguy cơ: liệt
nhánh trán của thần kinh mặt, mất cảm giác ở
vùng trên ổ mắt, chảy máu nhiều trong mổ, thời
gian phẫu kéo dài không thực hiện được ở bệnh
nhân nam hói đầu. Hơn nữa chúng tôi nhận thấy
rằng một mình đường rạch trán-thái dương sẽ
bộc lộ không đủ vùng bờ dưới ổ mắt và vùng trụ
hàm-gò má. Trong khi đó nếu phối hợp cả 2
đường rạch xuyên kết mạc và đuờng rạch trong
miệng cung cấp sự bộc lộ hoàn toàn ở vùng trụ
hàm-gò má, gờ dưới ổ mắt, gờ ngoài ổ mắt giúp
cho việc nắn chỉnh và cố định xương gò má cung tiếp bị gãy được thực hiện chính xác và dễ
dàng hơn(2,9).
- M.Krimmel và cộng sự đã sử dụng nội soi
hỗ trợ trong điều trị gãy phức hợp xương gò má.
Ông đã sử dụng đường rạch trước tai và đường
rạch dưới mi để nắn chỉnh xương gò má dưới sự
hỗ trợ của nội soi. Tuy nhiên, đường vào vùng
gãy xương xương hàm gò má bị giới hạn dẫn
đến việc nắn chỉnh và cố định trở nên vô cùng
khó khăn(1,7).
- Arnulf Baumann và cộng sự đã sử dụng
đường rạch lột găng tầng mặt giữa kết hợp với
đường rạch chân mày và đường rạch dưới mi để
đi vào tầng mặt giữa và xương gò má -cung
tiếp(1,8). Tuy nhiên, đường rạch này phải đi qua

tiền đình mũi do đó khi đóng vết mổ dễ gây
chứng hẹp lỗ mũi. Đường rạch này cũng không
bộc lộ được phần xương thái dương của cung
tiếp vì vậy đường rạch này không thể giải quyết

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
được những trường hợp gãy vụn xương cung
tiếp ở phía thái dương.
- Đường rạch mi dưới bao gồm: (Hình1) Tất
cả các đường rạch này đều để lại sẹo và đặc biệt
đường rạch dưới ổ mắt có sẹo dễ thấy nhất (6).

Hình 1: ( A,B,C,D) Các đường rạch da tiếp cận vùng
gờ dưới ổ mắt, xương hàm gò má.
- Với một sự hiểu biết đầy đủ về giải phẫu
học, đường rạch xuyên kết mạc sẽ bộc lộ khá đầy
đủ những vùng xương gò má, gờ dưới ổ mắt, gờ
ngoài ổ mắt bị gãy giúp cho việc nắn chỉnh và cố
định những đoạn xương gãy ở vùng này được
dễ dàng và chính xác. Đường rạch này cũng đem
lại một kết quả thẩm mỹ cao và hiếm khi có biến
chứng hoặc không có biến chứng xảy ra.

Đường rạch xuyên kết mạc
- Trước tiên, yếu tố tiên quyết trong việc lựa
chọn đường rạch trong phẫu thuật xương hàm
mặt không phải là sự thuận tiện cho phẫu thuật,

mà là sự đảm bảo cho khía cạnh thẩm mỹ.
Gương mặt là nơi mọi người nhìn vào. Nếu một
vết sẹo do phẫu thuật để lại trên mặt một cách lộ
liễu thường làm cho bệnh nhân lo lắng, mặc
cảm, mất tự tin trong cuộc sống. Tuy nhiên
đường rạch cũng cần phải đủ bộc lộ được các ổ
gãy cần kết hợp xương (1).
- Trước đây, việc sử dụng kỹ thuật nắn kín
để điều trị gãy xương gò má cung tiếp thường
cho kết quả tương đối. Hơn nữa việc đặt bấc để
giữ im xương sau khi nắn chỉnh xương gò má thì
không phải là một cố định vững chắc, do đó sự
di lệch tái phát có thể xảy ra nhất là trong những
trường hợp gãy phức hợp xương gò má. Các
đường rạch lớn như trán thái dương thì có nhiều

Nghiên cứu Y học

biến chứng và thời gian phẫu thuật kéo dài. Hay
rạch trực tiếp vào ổ gãy thì lại để lại sẹo trên
khuôn mặt của bệnh nhân.
- Xuất phát từ những vấn đề nêu trên. Phẫu
thuật viên cần phải chọn lựa những đường vào
phẫu thuật rộng hơn, có thể bộc lộ được tất cả
những đoạn xương gãy nhằm nắn chỉnh và cố
định cứng chắc xương gò má nhưng cũng không
để lại sẹo.
- Có hai kiểu đường rạch xuyên kết mạc căn
bản: trước và sau vách, được phân biệt do sự
khác nhau trong tương quan với ổ mắt trong quá

trình bóc tách. Đường rạch sau vách trực tiếp và
dễ thực hiện hơn đường rạch trước vách. Khi
thực hiện đường rạch sau vách có thể gặp tổ
chức mỡ của hốc mắt, tuy nhiên điều này không
để lại hậu quả gì.

Hình 2: Đường rạch xuyên kết mạc
- Các đường rạch xuyên kết mạc thường kết
hợp với rạch khoé mắt ngoài. Phần rạch khoé
mắt ngoài sau khi lành vết thương thì rất ít thấy
sẹo. Một ưu điểm nữa là quá trình thực hiện
nhanh chóng vì không phải phẫu tích cơ, da. Tuy
nhiên đường rạch này có phần bị hạn chế ở phía
trong do hệ thống ống lệ. phẫu thuật viên cần
nắm vững giải phẫu mi dưới. khi thực hiện
đường xuyên kết mạc sau vách thường rạch cân
bao mi. chúng tôi luôn bảo vệ giác mạc trong quá
trình phẫu thuật bằng cách khâu ngược kết mạc
mi dưới đã cắt lên trên.
Chích tê co mạch dưới kết mạc và khoé mắt
ngoài để cầm máu. ở thì này nhiều tác giả khâu
kéo mi dưới, khâu xuyên sụn mí , kéo xuống

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013

351


Nghiên cứu Y học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014

dưới để bộc lộ rộng, nhưng chúng tôi chỉ cần
banh bằng malleable là đủ rộng.

của nhãn cầu - mi mắt bằng việc phục hồi lại dây
chằng mi mắt ngoài và sàn ổ mắt.

Hình 3: Rạch khoé mắt ngoài
Hình 5: Nắn chỉnh để phục hồi lại đường viền

Hình 4: khâu ngược kết mạc mi dưới đã cắt lên trên.
Rạch khoé mắt ngoài: đặt đầu mũi kéo nhọn
v bên trong khe mi, rồi luồn ra ngoài cho đến bờ
ngoài ổ mắt (khoảng 7-10mm), dùng kéo cắt
ngang khe mi ngoài, các cấu trúc được cắt nằm
trên mặt phẳng ngang gồm có da, cơ vòng mi,
vách ổ mắt, dây chằng mí ngoài và kết mạc.

Hình 6: kết hợp xương bằng nẹp vít nhỏ

- Dùng kéo cắt kết mạc và cân kéo mi dưới ở
khoảng giữa sụn mi và túi bịt kết mạc dưới.
đường cắt phía trong không vượt quá điểm lệ.
Sử dụng các dụng cụ banh tù, thích hợp để kéo
bảo vệ nhãn cầu phía trên và mi dưới, dùng dao
rạch màng xương, cẩn thận đi dao ngoài túi lệ.
- Dùng bay bóc tách màng xương ra khỏi bờ
dưới ổ mắt, mặt trước xương hàm trên, xương
gò má và sàn ổ mắt. Trong khi bóc tách, dùng

cây banh loại malleable bảo vệ nhãn cầu và chặn
các tổ chức mỡ thoái vị.
- Nắn chỉnh để phục hồi lại đường viền và
kích thước của ổ mắt, giải phóng chèn ép dây
thần kinh dưới ổ mắt. Phục hồi lại các chức năng

352

Hình 7: Kết hợp xương gờ ngoài ổ mắt
- Không nhất thiết phải khâu đóng màng
xương. Đóng kết mạc bằng vicryl 5.0, mũi khâu
được khâu theo kiểu vùi dấu mũi vào trong
tránh cộm mắt cho bệnh nhân. Không cần khâu
cân kéo mi dưới vì cân này dính rất chắc vào kết
mạc nên sẽ tự động phục hồi đúng vị trí sau khi

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
khâu đóng kết mạc, khâu tái tạo khoé mắt ngoài,
dây chằng mí ngoài là quan trọng, phần lớn dây
chằng mí ngoài bám vào lồi củ ổ mắt, sau bờ hốc
mắt3-4mm, sau khi rạch khoé mắt ngoài, bó trên
(bó nông) dây chằng mí ngoài còn dính vào lồi
củ ổ mắt, mũi khâu cần thật sâu, càng ra sau bờ
ngoài hốc mắt càng tốt.

Nghiên cứu Y học


kết quả thẩm mỹ cao tuy nhiên cần nắm rõ giải
phẫu học vùng xương hàm trên, hốc mắt. Động
tác phẫu thuật nhẹ nhàng, chính xác.Không có
trường hợp nào chảy máu trong và sau mổ.
- Không có trường hợp nào Nhiễm
trùng,viêm kết mạc, sưng bầm mắt sau mổ
nhiều, biến chứng ảnh hưởng thị lực, lộn mi, sẹo
xấu kết mạc.
- Có 2 trường hợp sẹo xấu khoé mắt ( 3,2%),
nhưng trường hợp này do bệnh nhân có sẹo
vùng khoé mắt ngoài sẵn do chấn thương và
bệnh nhân xếp loại chấn thương vỡ xương hàm
gò má độ IIIb và IV.
- Tất cả các bệnh nhân hài lòng hoặc hài lòng
trung bình với đường rạch phẫu thuật, chỉ một
trường hợp không hài lòng (1,8%).

Hình 8: kết hợp xương gờ ngoài ổ mắt và gờ dưới ổ
mắt.

Bàn luận kết quả
- Trong đa số các trường hợp gãy xương gò
má thì những đường rạch phối hợp như: đường
rạch xuyên kết mạc và đường rạch trong miệng
hay nắn chỉnh ngoài đủ để bộc lộ cho việc nắn
chỉnh. Đường rạch xuyên kết mạc đem lại một

- Về thời gian phẫu thuật nhanh chóng vì
đường rạch nhỏ, không cần bóc tách nhiều mô
cơ da như đường rạch trán-thái dương.

- Về thời điểm phẫu thuật nên tiến hành ở
ngày thứ 4 đến 8 sau chấn thương khi đã hết phù
nề, nhưng chú ý không nên để quá lâu vì xương
gò má gãy can xơ nhanh.

Hình 9: CTscan bệnh nhân trước

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013

353


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014

Hình 10: bệnh nhân trước và một ngày sau phẫu thuật

Hình 11: bệnh nhân sau phẫu thuật 3 tháng
thời gian phẫu thuật nhanh và rất ít hoặc không
KẾT LUẬN
có biến chứng.
Qua nghiên cứu sử dụng đường xuyên kết
TÀI LIỆU THAM KHẢO
mạc trên 54 bệnh nhân gãy phức hợp xương gò
1. Bùi Hữu Lâm, (?). Những đường rạch sử dụng trong phẫu thuật
má tại khoa tai mũi họng bệnh viện Chợ Rẫy
xương hàm mặt. (Edward Ellis III, Michael F. Zide).
chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
2. Kruger E, Schilli W, (1986). Oral and Maxillofacial


Nhận xét chung

3.

 Gãy phức hợp xương gò má-cung tiếp
thường gặp ở nam nhiều hơn nữ 3,5 lần.

4.

 Nhóm tuổi thường gặp nhất là lứa tuổi
trưởng thành 20-40 (61,1%).

5.

 Nguyên nhân thường gặp nhất là do tai
nạn giao thông (88,9%).

6.

Nhận xét đường xuyên kết mạc

7.

Sử dụng đường xuyên kết mạc trong phẫu
thuật chỉnh hình vỡ xương hàm gò má có hay
không kết hợp với đường rạch trong miệng là
một chọn lựa nhiều ưu thế. Nó giúp cho việc bộc
lộ hoàn toàn những đoạn xương gãy, qua đó
Phẫu thuật viên có thể nắn chỉnh và cố định

những đoạn xương gãy về đúng vị trí giải phẫu.
Đường rạch này có kết quả cao về mặt thẩm mỹ,

354

8.
9.

Traumatology, Chicago, Quintessence, , pp. 19-43.
Lâm Huyền Trân (1996). Nghiên cứu về điều trị gãy xương gò
má bằng phương pháp kết hợp xương cố định bằng chỉ thép.
Lâm Hoài Phương.(1997). Kỹ thuật điều trị tạo hình trong chấn
thương và di chứng gãy cung tiếp gò má, Kỷ yếu công trình
nghiên cứu khoa học Răng hàm mặt, 73 - 80.
Lâm Ngọc Ấn. (2001). Một số ý kiến bổ sung trong cách phân
loại gãy xương khối mặt, Tạp chí Y học Việt Nam, 264 (10), 132 136.
Manson P , Glassman D , Vanderkolk C et al. (1990): Rigid
stabilization of sagittal fractures of the maxilla and palate . Plast
Reconstr Surg.; 85 :711.
Marciani R, Gonty A. (1993): Principles of management of
complex craniofacial trauma. J Oral maxillofac Surg; 51 :535 .
Markowitz B, Manson P. (1989): Panfacial fractures:
Organization of treatment . Clin Plast Surg.;16 :105 -114
Nguyễn Thế Dũng (2000). Gãy xương gò má: Nghiên cứu lâm
sàng và phương pháp điều trị, Tuyển tập công trình nghiên cứu
khoa học Răng hàm mặt, 26 - 38.

Ngày nhận bài:

10/03/2013


Ngày phản biện đánh giá bài báo:

27/08/2013

Ngày bài báo được đăng:

30/05/2014

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013



×