Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Mối liên quan giữa nhiễm các loại HPV với tân sinh trong biểu mô cổ tử cung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.01 KB, 5 trang )

MỐI LIÊN QUAN GIỮA NHIỄM CÁC LOẠI HPV VỚI TÂN SINH
TRONG BIỂU MÔ CỔ TỬ CUNG
Lê Thò Kiều Dung*, Trần Thò Lợi**

TÓM TẮT
Mục đích: so sánh tần suất lưu hành của HPV ở phụ nữ bò tân sinh trong biểu mô cổ tử cung với phụ
nữ có cổ tử cung bình thường.
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu bệnh chứng; nhóm bệnh: 70 phụ nữ bò CIN, nhóm chứng: 70
phụ nữ có cổ tử cung bình thường được thử nghiệm HPV bằng phản ứng trùng hợp chuỗi (PCR). Sau đó
những phụ nữ có HPV dương tính sẽ được đònh loại HPV bằng kỹ thuật ELISA.
Kết quả: Tần suất nhiễm HPV trên phụ nữ có CTC bình thường là 5,7% và tần suất nhiễm HPV ở
phụ nữ có tân sinh trong biểu mô cổ tử cung là 74,3%. Có mối liên quan rất chặt chẽ giữa tình trạng
nhiễm HPV với tân sinh trong biểu mô CTC. Nguy cơ bò tân sinh trong biểu mô CTC ở người nhiễm HPV
cao gấp 47,83 lần so với người không nhiễm HPV (OR = 47,83).Tần suất nhiễm HPV tăng theo mức độ
tân sinh trong biểu mô CTC.Trong số nhiễm HPV, type HPV16 là thường gặp nhất chiếm tỷ lệ 42,86%.

SUMMARY
RELATIONSHIPS BETWEEN HUMAN PAPILLOMAVIRUS GENOTYPE
AND CERVICAL INTRAEPITHELIAL NEOPLASIA
Le Thi Kieu Dung, Tran Thi Loi * Y Hoc TP. Ho Chi Minh
* Vol. 9 * Supplement of No 1 * 2005: 130 – 134

Objectives: To compare the prevalence of Human Papillomavirus (HPV) in women with Cervical
Intraepithelial Neoplasia (CIN) and in women with clinically normal cervix.
Methods: case-control study. 70 women with CIN and 70 women with clinically normal cervix was
examined for the presence of HPV by polymerase chain reaction (PCR). Further, women with HPV
positive were used to determine the HPV genotypes by ELISA.
Results: prevalence of HPV in women with clinically normal cervix is 5,7% and in women with CIN
is 74,3%. There is the closed relationship between HPV and CIN. The risk of CIN in the women with HPV
is higher than women without HPV 47,83 time (OR = 47,83; CI). The prevalence of HPV increase parallel
with the degree of cervical lesion, HPV16 was the most frequence type (42,86%).


Keywords: Human papillomavirus (HPV), Cervical Intraepithelial Neoplasia (CIN)

ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư cổ tử cung là loại ung thư được xếp hàng
thứ hai trong số các ung thư phổ biến ở phụ nữ trên
toàn thế giới.Ở miền Nam Việt Nam, ung thư cổ tử
cung chiếm tỷ lệ cao nhất trong các loại ung thư sinh
dục nữ (11). Những yếu tố nguy cơ của ung thư cổ tử
cung bao gồm: số bạn tình, tuổi lần giao hợp đầu tiên,
* Bộ môn Sản Đại học Y Dược TP. HCM.

130

số con, hút thuốc lá, bệnh lây truyền qua đường tình
dục, đặc biệt là nhiễm HPV(6,11). HPV là một loại virus
lây truyền qua đường tình dục, có mối liên hệ chặt
chẽ giữa những loại HPV đặc hiệu với sự phát triển
của ung thư vùng hậu môn sinh dục.
Các tác giả cũng cho thấy lợi ích của thử nghiệm
HPV trên lâm sàng và vai trò hỗ trợ của nó với tế bào


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005

học trong chương trình sàng lọc ung thư CTC (6,9).
Cho đến nay, những công bố về tần suất nhiễm HPV
chưa nhiều. Do đó, mục đích của nghiên cứu này là
đánh giá mối liên quan giữa việc nhiễm các loại HPV

với tân sinh trong biểu mô cổ tử cung.

Phương pháp xử lý và phân tích số
liệu

ĐỐI TƯNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU

Khảo sát các đặc điểm của mẫu nghiên cứu bằng
thống kê mô tả: tính tần số, phần trăm, độ lệch
chuẩn, trung bình... Tính tỷ số chênh OR để đánh giá
nguy cơ của HPV trên 2 nhóm nghiên cứu.

Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu bệnh chứng có bắt cặp.
Đối tượng nghiên cứu
Những bệnh nhân đến khám hoặc đang được
theo dõi và điều trò ngoại trú tại phòng khám phụ
khoa và phòng soi cổ tử cung bệnh viện Phụ Sản Từ
Dũ thành phố Hồ Chí Minh từ 01/01/2004 đến
30/06/2004.

Các số liệu thu thập được mã hoá và nhập vào
máy vi tính với phần mềm SPSS, version 10.5 trong
Windows.

Dùng phép kiểm χ2 với khoảng tin cậy 95% để
kiểm đònh ý nghóa thống kê của các giá trò OR tìm
được. Các phép kiểm thống kê có ý nghóa khi P<

0,05.
Phân tích hồi quy đa biến được sử dụng để khảo
sát vai trò của các yếu tố gây nhiễu có liên quan đến
ung thư CTC ngoài HPV.

Nhóm bệnh: 70 bệnh nhân đã có chẩn đoán là
CIN bằng giải phẫu bệnh lý thực hiện tại bệnh viện.

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

Nhóm chứng: 70 phụ nữ đến khám tại phòng
khám phụ khoa bệnh viện đã được khám lâm sàng,
làm phết tế bào, soi CTC có kết luận CTC bình
thường.

Qua khảo sát mối liên quan giữa các loại HPV và
tân sinh trong biểu mô cổ tử cung ở 140 phụ nữ đến
khám phụ khoa tại phòng khám Bệnh viện Phụ Sản
Từ Dũ từ 01/01/2004 đến 30/06/2004 chúng tôi ghi
nhận những kết quả sau:

Cách chọn mẫu
Ngẫu nhiên, bắt cặp theo các yếu tố: tuổi bệnh
nhân và số lần mang thai.
Các bước thu thập số liệu
Sau khi được giải thích rõ mục đích nghiên cứu
và giới thiệu về bảng thu thập số liệu, chúng tôi trực
tiếp tiến hành phỏng vấn bệnh nhân theo bảng câu
hỏi đã soạn, sau đó khám phụ khoa và lấy mẫu.
Kỹ thuật lấy bệnh phẩm

Bệnh phẩm là dòch tiết ở vùng kênh CTC.
Dùng que gòn vô trùng đưa vào vùng chuyển tiếp
và kênh CTC quay nhiều vòng, sau đó lấy ra cho vào
ống nhựa tiệt trùng.
Mẫu bệnh phẩm sẽ được gửi đến Phòng Xét
nghiệm Sinh học Phân tử của Công ty Nam Khoa
không quá 4 giờ sau khi lấy. Mẫu sẽ được trữ trong tủ
lạnh -200C trong khi chờ ly trích.

Tuổi trung bình của phụ nữ thuộc nhóm bệnh là
37,40; trẻ nhất là 22 tuổi và cao nhất là 66 tuổi. Tập
trung nhất ở khoảng từ 30 – 49 tuổi (72,8%). Kết quả
ghi nhận của chúng tôi tương tự kết quả của tác giả
Lê Minh Nguyệt 2002(12), khảo sát 130 trường hợp
nghòch sản và ung thư CTC đã được chẩn đoán tại
phòng khám Bệnh viện Phụ Sản Từ Dũ: 73% là ở độ
tuổi từ 30 – 49 tuổi. Cũng tương tự, tác giả Nguyễn
Thò Ánh Vân (2002)(14), khảo sát 109 trường hợp CIN
được chẩn đoán tại phòng khám Bệnh viện Hùng
Vương, độ tuổi thường gặp nhất là từ 30 – 49 tuổi,
chiếm 63% các trường hợp.
So với các tác giả nước ngoài, tuổi trung bình
phát hiện CIN chung là 30 tuổi, tính riêng cho CIN III
là 35 tuổi và độ tuổi thường gặp là 20 – 40 tuổi (6,9);
chúng tôi nhận thấy tuổi phát hiện CIN của chúng ta
thường trễ hơn.
Chúng tôi ghi nhận tần suất nhiễm HPV ở CTC
của phụ nữ thuộc nhóm bệnh là 74,3% (52/70) và tần

131



suất nhiễm HPV ở nhóm chứng là 5,7% (4/70).
So sánh giữa 2 nhóm chúng ta thấy tỷ lệ HPV
dương tính ở nhóm bệnh cao gấp 13 lần so với nhóm
chứng, sự khác biệt này rất có ý nghóa thống kê với
giá trò P < 0,0005. Tỷ số chênh OR tính được là 47,83
(KTC 95%: 13,263 – 128,293) nói lên mối liên quan
rất chặt chẽ giữa tình trạng nhiễm HPV với tân sinh
trong biểu mô cổ tử cung. Phụ nữ có nhiễm HPV có
nguy cơ bò tân sinh trong biểu mô CTC cao gấp 47
lần so với phụ nữ không bò nhiễm HPV.
Đây là một nghiên cứu bệnh chứng không
cho phép xác đònh mối quan hệ nhân quả giữa
tình trạng nhiễm HPV với tân sinh trong biểu mô
CTC. Tuy nhiên với giá trò của tỷ số chênh
OR=47,83; chúng ta không thể phủ nhận được
mối liên quan chặt chẽ trên.
Bảng 1: So sánh tần suất nhiễm HPV ở phụ nữ bình
thường với các nghiên cứu khác:
Tác giả

Tần suất (%)

LTK Dung
LM Nguyệt

5,7

(12)


(13)

NT Hiếu

11,1

(2)

Herrero R.

Lazcane- Ponce
(5)

Matos

9,2
16

(4)

15
18

Theo kết quả nghiên cứu của tác giả Lê Minh
Nguyệt năm 2002(12), khảo sát tần suất nhiễm HPV
trên 130 phụ nữ có CTC bình thường và 130 phụ nữ
có nghòch sản hoặc ung thư CTC, tần suất nhiễm
HPV trên phụ nữ có CTC bình thường là 9,2%; khá
cao so với kết quả nghiên cứu của chúng tôi là 5,7%.

Tham khảo kết quả nghiên cứu “Tần suất
nhiễm HPV ở phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh” của
tác giả Nguyễn Trọng Hiếu và cộng sự năm
1997(13), tỷ lệ phụ nữ nhiễm HPV là 11,1%. Từ
những nghiên cứu trên, chúng tôi ước tính tỷ lệ
nhiễm HPV ở miền Nam có thể dao động ở khoảng
10%, tỷ lệ này cũng phù hợp với dự đoán của Tổ
chức Y tế Thế giới về tỷ lệ nhiễm HPV ở các nước
đang phát triển khoảng 11 – 15%(9).

132

Bảng 2: So sánh tần suất nhiễm HPV ở phụ nữ có
CIN với các nghiên cứu khác:
Tác giả
LTK Dung
LM Nguyệt(12)
Chan Joo kim(1)
Tae Sook Hwang(7)
Phillip(9)
Woodman Collines(9)

Tần suất (%)
74,3
35,4
75
74,1
85
88


Theo nghiên cứu của chúng tôi, tần suất nhiễm
HPV ở phụ nữ có tổn thương CIN là 74,3% (52/70
trường hợp). So sánh với kết quả nghiên cứu của
Chan Joo Kim và cộng sự (2001)(1), khảo sát trên 140
phụ nữ Hàn Quốc có tổn thương cổ tử cung đã ghi
nhận 75% (105/140) trường hợp nhiễm HPV, tương
tự như kết quả nghiên cứu của chúng tôi. Nghiên cứu
của Tae Sook Hwang và cộng sự (2002)(7), trên 212
phụ nữ Hàn Quốc có tổn thương cổ tử cung cũng cho
kết quả tương tự, tỷ lệ HPV dương tính là 74,1%
(157/212) trường hợp. Một số nghiên cứu khác cũng
cho kết quả gần giống như nghiên cứu của chúng tôi:
85% theo Phillip J.(9); 88% theo Woodman Collines(9).
Qua các kết quả nghiên cứu trên, chúng tôi đều
nhận thấy có một sự kết hợp rất chặt chẽ giữa tình
trạng nhiễm HPV với nhóm phụ nữ có tân sinh trong
biểu mô cổ tử cung.
Bảng 3: So sánh tần suất nhiễm HPV trên các mức
độ tổn thương CIN với các nghiên cứu khác:
Tác giả

CIN I (%) CIN II (%) CIN III (%)

L T K Dung

50

71,3

93,1


L M Nguyệt(12)

20

28

58

Ingo Nindl

47

77

97

Wright(10)

70

83

90

Toshihiko(8) Matsukura

90

94


92

(3)

Tần suất nhiễm HPV tăng dần theo mức độ tổn
thương từ CIN I đến CIN III với tỷ lệ lần lượt là: 50%;
71,3% và 93,1%. Sự khác biệt này có ý nghóa thống kê
với P= 0,0005 và với các tỷ số chênh (OR) lần lượt là:
16,54; 41,30 và 223,22. Từ các giá trò của các tỷ số
chênh tính toán được, chúng tôi nhận thấy nguy cơ
tân sinh trong biểu mô cổ tử cung tăng lên theo tỷ lệ
nhiễm HPV.
Kết quả của chúng tôi cũng phù hợp với kết quả
của một số nghiên cứu khác: 47% cho nhóm CIN I,

Chuyên đề Ngoại Sản


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005

Nghiên cứu Y học

77% cho nhóm CIN II, 97% cho nhóm CIN III theo
Ingo Nindl và cộng sự (1998)(3); hoặc 70 – 78% cho
nhóm CIN I, 83 – 89% cho nhóm CIN II/III theo
Wright(2000), Manos (1999)(10).
Bảng 4:Tần suất nhiễm các loại HPV theo mức độ
tổn thương CIN:
Type HPV

16

CIN I

CIN II

2 (20%) 3 (20%)

CIN III

Bình
thường

Tổng
cộng

16
24
3 (75%)
(59,3%)
(42,86%)
4
(14,8%)

4
(7,15%)

31, 33, 35 1 (10%) 1 (6,7%) 2 (7,4%)

4

(7,15%)

18

6-11

4 (40%)

1 (25%)

5
(8,93%)

11-16, 161 (10%) 1 (6,7%)
18

2
(3,58%)

31-33, 392
4
1 (10%)
45
(13,3%) (14,8%)

7
(12,5%)

6-11-16


3 (20%)

3
(5,36%)

16-31-33

1 (6,7%)

1
(1,79%)

16-39-45

1 (6,7%)

1
(1,79%)

33-39-45

1 (6.7%)

1
(1,79%)

Không xác
2
1 (10%)
1 (3,7%)

đònh
(13,3%)
Tổng cộng

10
(100%)

4
(7,14%)

15
27
56
4 (100%)
(100%) (100%)
(100%)

Bảng 4 cho chúng ta thấy tỷ lệ nhiễm các type
HPV theo những mức độ tân sinh khác nhau:
-Trong nhóm CIN I: tỷ lệ nhiễm HPV là 50%
(10/20) trường hợp. Trong đó, nhiễm HPV6 và
HPV11 chiếm tỷ lệ cao nhất: 40% (4/10) trường hợp,
kế đến là loại HPV16: 20% (2/10) trường hợp, còn các
type 33, 16–18, 39–45, mỗi loại chiếm tỷ lệ 10%
(1/10) trường hợp.
-Trong nhóm CIN II: tỷ lệ nhiễm HPV là 71,43%
(15/21) trường hợp. Trong đó nhiễm HPV16 chiếm tỷ
lệ cao nhất: 60% trường hợp (với 3 ca nhiễm 1 loại
HPV16 đơn thuần, 1 ca nhiễm 2 loại: HPV11-16 và 5
ca nhiễm phối hợp 3 loại: HPV6-11-16, HPV16-3133, HPV16-39-45). Kế đến là HPV11 có 4 ca


(26,67%); trong đó 1 ca nhiễm 1 loại HPV11 đơn
thuần và 3 ca nhiễm phối hợp 3 loại HPV6-11-16.
Tiếp theo có 4 trường hợp (26,67%) nhiễm HPV3945 (1 ca nhiễm 2 loại: HPV39-45 và 2 ca nhiễm 3
loại: HPV 16-39-45, HPV33-39-45).
-Trong nhóm CIN III: tỷ lệ nhiễm HPV là 93,1%
(27/29) trường hợp trong đó nhiễm HPV16 vẫn
chiếm tỷ lệ cao nhất: 59,3% (16/27) trường hợp. Kế
đến là loại HPV18 chiếm 14,8%. Tiếp theo là loại
HPV39-45 chiếm 11,1% và 02 loại HPV31 và HPV33,
mỗi loại chiếm 3,7%.
So sánh với kết quả nghiên cứu của Tae Sook
Hwang và cộng sự (2002)(7), khảo sát trên 243 phụ nữ
Hàn Quốc có tân sinh trong biểu mô CTC, tỷ lệ
nhiễm HPV dương tính là 78%, có 7 loại virus được
phát hiện: 16, 18, 31, 33, 35, 52, 58; trong đó type
HPV16 chiếm tỷ lệ cao nhất: 30,2%. Kết quả này
cũng phù hợp với nghiên cứu của chúng tôi.
Một nghiên cứu khác của Chan Joo Kim và cộng
sự (2001)(1), trên 140 phụ nữ Hàn Quốc có tổn
thương CIN ghi nhận tỷ lệ nhiễm HPV chung là 75%,
các type HPV được tìm thấy là: 16, 18, 31, 33, 35, 39,
51, 52, 56, 58, 69, 68, 11, 34, 40 và 43. Trong đó
nhiễm HPV16 chiếm tỉ lệ cao nhất: 32,1%, HPV35
(10,7%), HPV56 (10,7%), HPV18 (9,3%), HPV58
(8,6%) và các loại còn lại có tỉ lệ thay đổi từ 0,7 –
5,7%. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của
chúng tôi về tỉ lệ nhiễm HPV chung cho các phụ nữ
có tân sinh trong biểu mô cổ tử cung và tỉ lệ loại
HPV16 là cao nhất.

Ingo Nindi (1999) (3), khảo sát sự phân bố của 14
type HPV nguy cơ cao ở bệnh nhân có CIN tại Đức
cho thấy: tỷ lệ HPV nguy cơ cao là 47% trong nhóm
CIN I, 77% trong nhóm CIN II và 97% trong nhóm
CIN III. Trong nhóm CIN I, tỷ lệ type HPV39, 51, 56,
58 là 2%, HPV16 là 12% và HPV31 là 2%. Trong
nhóm CIN II tỷ lệ type HPV16 là 35%, HPV31 là 21%.
Trong nhóm CIN III tỷ lệ type HPV16 là 74% và
HPV31 là 13%. Kết quả này cũng phù hợp với kết quả
nghiên cứu của chúng tôi.

KẾT LUẬN
Tuổi thường gặp của tân sinh trong biểu mô CTC

133


trong mẫu nghiên cứu này là khoảng 39 đến 49 tuổi
(72,8%).
Tần suất nhiễm HPV trên phụ nữ có CTC bình
thường là 5,7% và tần suất nhiễm HPV ở phụ nữ có
tân sinh trong biểu mô cổ tử cung là 74,3%.
Có mối liên quan rất chặt chẽ giữa tình trạng
nhiễm HPV với tân sinh trong biểu mô CTC. Nguy cơ
bò tân sinh trong biểu mô CTC ở người nhiễm HPV
cao gấp 47,83 lần so với người không nhiễm HPV (OR
= 47,83; khoảng tin cậy 95%).
Tần suất nhiễm HPV tăng theo mức độ tân sinh
trong biểu mô CTC:
-Tần suất nhiễm HPV ở nhóm CIN I là 50% và

phụ nữ bò nhiễm HPV có nguy cơ bò CIN I tăng gấp
16,5 lần so với người không bò nhiễm.
-Tần suất nhiễm HPV ở nhóm CIN II là 71,43%
và phụ nữ bò nhiễm HPV có nguy cơ bò CIN II tăng
gấp 41,3 lần so với phụ nữ không bò nhiễm.
-Tần suất nhiễm HPV ở nhóm CIN III là 93,1% và
phụ nữ bò nhiễm HPV có nguy cơ bò CIN III tăng gấp
223 lần so với người không bò nhiễm.
Trong số nhiễm HPV, type HPV16 là thường gặp
nhất chiếm tỷ lệ 42,86%. Kế đến là nhóm HPV39 –
45 với tỷ lệ 10,71%, tiếp theo là nhóm HPV6–11,
HPV18 với tỷ lệ lần lượt là 8,93% và 7,14%.

do hạn chế về kinh phí và thời gian. Chúng tôi mong
rằng có nhiều nghiên cứu đầy đủ và hoàn thiện hơn
nữa để xác đònh lại các yếu tố liên quan với tình trạng
nhiễm HPV và xác đònh vai trò của thử nghiệm chẩn
đoán HPV trong sàng lọc ung thư CTC.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1

2

3

4

5


6
7

8

Phân bố số loại nhiễm HPV theo từng nhóm CIN
chúng tôi ghi nhận:
-Nhóm CIN I: có 30% nhiễm 1 type HPV và 60%
nhiễm 2 type HPV.

9

-Nhóm CIN II: có 26,7% nhiễm 1 type HPV; 20%
nhiễm 2 type HPV và 40% nhiễm 3 type HPV.

10

-Nhóm CIN III: 81,4% nhiễm 1 type HPV và
14,8% nhiễm 2 type HPV; không có trường hợp nào
nhiễm 3 type HPV.
Để kết luận, chúng ta nên phối hợp phết mỏng
CTC và xét nghiệm xác đònh HPV bằng kỹ thuật PCR
cho các đối tượng có nguy cơ, đặc biệt ở độ tuổi từ 30
– 49 tuổi nhằm giúp chương trình sàng lọc ung thư
CTC ngày càng hiệu quả.
Nghiên cứu này của chúng tôi còn nhiều giới hạn

134

11

12

13

14

Chan Joo Kim, et al: HPV oligonucleotide microarraybased detection of HPV genotypes in cervical
neoplastic lesions. 12 December 2001. Gynecologic
Oncology 2003; 89:210-217.
Herrero R., Hildesheim A., Bratti C. et al. Populationbased study of human papillomavirus infection and
cervical neoplasia in rural Costa Rica. J. Natl Cancer
Inst 2000;92:464-74.
Ingo Nindl, et al: distribution of 14 high risk HPV
types in cervical intraepithelial neoplasia detected by
a non-radioactive general primer PCR mediated
enzyme immunoassay. 25 August 1998. J Clin Pathol
1999; 52:17-22.
Lazcano-Ponce E., Herrero R., Mudoz N. et al.
Epidemiology of HPV infection among Mexican women
with normal cervical cytology. Int J. Cancer 2001;91:41220.
Matos E., Loria D., Amestoy GM et al. Prevalence of
human papillomavirus (HPV) infection among women
in Concordia, Argentina: a population-based study. Int
J. Cancer (submitted).
Novak (1998): “Carvial Intraepithelial Neoplasia in
Novak’s textbook of Gynecology”, 643-675.
Tae Sook Hwang, et al: Detection and typing of HPV
genotypes in various cervical lesions by HPV
oligonucleotide microarray. 11 June 2002. Gynecologic
Oncology 2003; 90:51-56.

Toshihiko
Matsukura
and
Motoyasu
Sugaset.
Relationships between 80 Human Papillomavirus
Gonotypes and Different Grades of Cervical
Intraepithelial Neoplasia: Association and Causality.
Academic press 2001; 42: 139-147.
World
Heath
Organization:
Genital
human
papillomavirus infections and cancer: Memorandum
from a WHO meeting. Bull WHO 65:817, 1987.
Wright TC, Denny L, Kuhn L, et al: HPV DNA testing
of selft-collected vaginal samples compared with
cytologic screening to detect cervical cancer, JAMA
2000;283:81.
Bộ môn sản trường Đại Học Y Dược. “Nghòch sản cổ tử
cung”, Sản Phụ Khoa tập II, trang 906-907.
Lê Minh Nguyệt và Cs (2002): “Mối liên quan giữa
tình trạng nhiễm HPV với nghòch sản và ung thư cổ
tử cung”, luận án tốt nghiệp chuyên khoa II.
Nguyễn Trọng Hiếu và Cs (1997): “Tần suất nhiễm
HPV ở phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh”, thời sự Y
Dược học 08/2004.
Nguyễn Thò Ánh Vân (2002): “Vai trò của phết tế bào
âm đạo và soi cổ tử cung trong chẩn đoán ung thư cổ

tử cung giai đoạn sớm”, tiểu luận tốt nghiệp Chuyên
khoa I.

Chuyên đề Ngoại Sản



×