Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Nhận xét kết quả điều trị nội khoa chảy máu tiểu não tại Trung tâm đột quỵ - Bệnh viện Trung ương Quân đội 108

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.29 KB, 7 trang )

ẫn tỉnh táo và chưa có các dấu hiệu tồi tệ
thêm của thần kinh (mức độ ý thức, nôn, đau
đầu tăng lên, đồng tử co nhỏ cũng như các rối
loạn vận mạch và hô hấp) của chèn ép thân
não. Đây là điều chúng tôi muốn đưa ra để các
đồng nghiệp tham khảo và bàn luận.
Khi CMTN xảy ra, có sự tập trung đại thực
bào xung quanh ổ máu tụ, quá trình tiêu huyết
khối bắt dầu từ ngoại vi vào trung tâm, ổ máu tụ

Nghiên cứu Y học

sẽ giảm dần về kích thước theo thời gian và ít khi
có mất tri giác ngay sau đột quỵ, BN thường đau
đầu nặng nề vùng trán kèm theo buồn nôn hoặc
nôn nhiều lần, chóng mặt khi thay đổi tư thế và
đi lại rất khó khăn.Có thể xuất hiện hoặc không
các biểu hiện nói khó, nuốt khó, rung giật nhãn
cầu, giảm phản xạ giác mạc, rối loạn chức năng
các dây thần kinh sọ não số V, VI, VII, IIX và ít
khi thấy liệt nửa người. Hầu hết các chảy máu
nhỏ không đẩy lệch não thất IV, khi khối lượng
CMTN lớn hoặc phù não thứ phát làm tăng áp
lực trong sọ đẩy lệch não thất IV, giãn các não
thất bên và não thất III-IV dẫn đến hôn mê sâu,
ngừng thở đột ngột do chèn ép thân não. Các
biểu hiện trên là các triệu chứng và sự tiến triển
của CMTN nếu không được theo dõi chặt trẽ và
điều trị toàn diện kịp thời theo cơ chế bệnh sinh.
Đây cũng chính là cơ sở để chúng tôi theo dõi và
đánh giá đồng thời có chiến thuật điều trị hợp lý


trong quá trình điều trị như: tăng cường ô xy,
lưu thông đường thở, hạn chế kích thích, duy trì
mức HA cao vừa phải, (bù đủ dịch-điện giải,
chống phù não, chống bội nhiễm …) nếu có,
đồng thời tăng dinh dưỡng và bảo vệ thần kinh,
tập phục hồi chức năng sớm. Có thể sự chăm sóc
toàn diện theo một quy trình thống nhất, nghiêm
ngặt đã giúp cải thiện được tình trạng lâm sàng,
giảm tỷ lệ phải phẫu thuật đồng thời tăng tỷ lệ
phục hồi chức năng, hòa nhập cộng đồng và
giảm tỷ lệ tử vong cũng như tàn phế của các
bệnh nhân CMTN nghiên cứu.
- Kết quả sau đợt điều trị với ngày nằm trung
bình là 18,36 ± 8,5 ngày (dài nhất là 43 ngày)
- Có 22 bệnh nhân CMTN mức lớn (thể tích
trung bình của khối máu tụ ở các BN này là
22,35cm³), có những biến chứng rối loạn hô hấp,
giảm mức ý thức theo thang điểm Glasgow khi
nhập viện cũng như tiến triển trong quá trình
điều trị mà các phẫu thuật viên cho rằng phẫu
thuật sẽ kém hiệu quả được điều trị bảo tồn nội
khoa theo phác đồ điều trị toàn diện và chăm sóc
tích cực (thở máy). Kết quả phục hồi một phần
(27,7%), không phục hồi (45,4%) và tử vong là
(27,7%) trong đó có 6 (27,7%) BN phải mở khí

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012

117



Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013

quản chăm sóc lâu dài và 5 (22,7%) BN biến
chứng tràn dịch não phải đặt dẫn lưu não thất.
Theo nghiên cứu của Dennis MS; Bamford et al
(1989) với CMTN nhận thấy trong số các BN
không hôn mê chỉ có 20% hồi phục bình thường,
9% tồi tệ dẫn đến hôn mê trong đó 35% hôn mê
trong 3 giờ đầu khởi phát. Còn nghiên cứu của
Fisher, et al chỉ có 2/18 BN có tiến triển lành tính,
16 BN khác hôn mê trong ít giờ sau do máu tụ
ảnh hưởng đến cuống tiểu não và đè ép tủy ở vị
trí thân não dẫn đến rối loạn vận mạch và hô
hấp. Trong chảy máu thùy nhộng, các biểu hiện
thường là đau đầu, nôn, hôn mê đột ngột là
hiếm, nhưng nếu khối lượng lớn sẽ nhanh chóng
ép não thất IV và dẫn đến tràn dịch não. Khi này
dẫn lưu não thất theo tư thế sẽ vô nghĩa, dễ thoát
vị tiểu não lên trên qua lều và ép vào thân não.
Tiên lượng phụ thuộc nhiều vào kích thước của
ổ máu tụ cũng như ý thức của BN. Nghiên cứu
của chúng tôi trong chảy máu thùy nhộng mức
lớn phải thở máy có 8 BN thì tử vong: 2, không
phục hồi: 4, dẫn lưu não thất-ổ bụng: 2, và mở
khí quản: 3.
Kết quả tổng hợp khi ra viện theo nghiên
cứu thấy: tỷ lệ sống (93,18%), tử vong (6,82%);

điểm Glasgow < 8 khi vào (15,9%), khi ra còn
(8%); điểm Glasgow ≥ 8 khi vào (84,1%), khi ra
(92,0%). Tỷ lệ phục hồi chức năng tùy theo kích
thước ổ máu tụ: ổ máu tụ có kích thước < 10cm
(có phục hồi là 84,4%, không phục hồi là 15,6%);
tương tự kích thước từ 10-30cm (66,7-33,7%) và ≥
30cm (38,5-61,5%). Như vậy, kết quả diều trị của
chúng tôi có phần cao hơn các kết quả đã công
bố có thể do chúng tôi đã chú trọng phân loại,
chăm sóc và điều trị toàn diện theo một phác đồ
tổng hợp, theo dõi chặt trẽ và nghiêm ngặt tại
một Trung tâm đột quỵ não của bệnh viện
TƯQĐ108, có những trang thiết bị hiện đại và
điều trị bài bản? Vấn đề này cần phải được theo
dõi và đánh giá với số lượng lớn hơn trong các
năm tới.

KẾT LUẬN
Nghiên cứu 88 BN chảy máu tiểu não cấp
được điều trị nội khoa tại Trung tâm đột quỵ BVTƯQĐ108 từ (1/2003 – 7/2011) nhận thấy:

Đặc điểm lâm sàng
Nam (75%), nữ (25%); tuổi trung bình (61,32
± 8,5) tuổi; vào viện trong 24 giờ đầu (43,2%);
(63,9%) có tiền sử tăng HA và (22,7%) có tiền sử
đột quỵ cũ; tỷ lệ bạch cầu tăng chuyển trái khi
vào (58%); giảm natri máu (19,4%); giảm kali
(27,4%); máu tụ bán cầu phải (29,5%), bán cầu
trái (37,5%) và thùy nhộng là (25%). Kích thước ổ
máu tụ ≥ 3cm (68,2%); thể tích < 10cm³ (51,1%),

từ 10-30cm³ (34,1%) và > 30cm³ (14,8%). Điểm
Glasgow khi vào < 8 điểm (15,9%); Glasgow ≥ 8
điểm (84,1%).

Kết quả điều trị
Thời gian điều trị trung bình là 18,36 ±8,5
ngày; sau điều trị tỷ lệ sống là (93,18%); tử vong
là (6,82%); điểm Glasgow ≤ 8 điểm khi vào là
(15,9%) khi ra còn (8%), tương tự điểm Glasgow
> 8 khi vào là (84,1% ra 92%). Mức độ phục hồi
chức năng là (71,6%), không phục hồi (28,4%), và
tăng có ý nghĩa theo thể tích của khối máu tụ:
nếu kích thước < 10cm tỷ lệ có phục hồi (84,4%),
không phục hồi (15,6%); kích thước từ 10-30cm
tương tự có (66,7% và 33,7%); kích thước > 30cm
là (38,5% và 61,5%).

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.

5.
6.

7.
8.

118


Aminoff MJ (2008),Current medical Diagnosis &Treatment,
International Edition, 852-860
Caplan LR (2009), Stroke: A Clinical Approach, Fourth Edition
Hauser SL (2010), Neurology in Clinical Medicine, Harrison,
second Edition
Lê Điền Nhi (2009), Vai trò của phẫu thuật trong điều trị chảy
máu não do tăng huyết áp, Tai biến mạch máu não, NXB Y
Học, 535-562
Lê Đức Hinh và nhóm chuyên gia (2009), Tai biến mạch máu
não, NXB Y Học
Lisak RP, Truong DD, Carroll WM, Bhidayasiri R (2009),
International Neurology, A Clinical Approach, WileyBlackwell
Nguyễn Văn Thông (1997), Bệnh mạch máu não và các cơn
đột quỵ, NXB Y Học
Nishikawa T; Takehira N; Matsumoto A; Kanemoto M; Kang
Y; Waga S (2004), endoscopic treatment of intracerebral
hemorrhage with massive ventricular hemorrhage in
neuroscience, the Netherlands, pp 266-271.

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
9.
10.

Recommendations for the management of intracranial
Haemorrhage (2006) Cerebrovasc; 22: 294-316
Vũ Anh Nhị (2001), Thần kinh học lâm sàng và điều trị, NXB

Cà Mau.

11.

Nghiên cứu Y học

Wiebers DO, Feigin VL et al (1997), Stroke hand book,
Lippincott-Raven, Philadelphia.NewYork

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012

119



×