Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Phản ứng với thuốc chống lao ở các bệnh nhân đang điều trị lao: Nghiên cứu loạt ca lâm sàng 43 bệnh nhân HIV dương tính và 93 bệnh nhân HIV âm tính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.64 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

Nghiên cứu Y học

PHẢN ỨNG VỚI THUỐC CHỐNG LAO Ở CÁC BỆNH NHÂN  
ĐANG ĐIỀU TRỊ LAO: NGHIÊN CỨU LOẠT CA LÂM SÀNG  
43 BỆNH NHÂN HIV DƯƠNG TÍNH VÀ 93 BỆNH NHÂN HIV ÂM TÍNH 
Nguyễn Thị Bích Yến*, Nguyễn Huy Dũng*, Thái Hồng Hà**, Lê Tự Phương Thảo***, Nguyễn Hữu 
Lân*  

TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Phản ứng thuốc đã được báo cáo ở những bệnh nhân đang nhận điều trị lao. Tuy nhiên, có rất 
ít số liệu so sánh phản ứng với thuốc chống lao ở những bệnh nhân đồng nhiễm lao/HIV và bệnh nhân lao không 
nhiễm HIV tại Việt Nam. 
Mục  tiêu  nghiên  cứu: Để đánh giá lại tỷ lệ mắc, các dấu hiệu, và triệu chứng của phản ứng với thuốc 
chống lao ở những người nhiễm và không nhiễm HIV.  
Chất liệu & phương pháp: Chúng tôi xem xét đặc điểm lâm sàng và xét nghiệm của 136 bệnh nhân lao, 
nhập viện vì phản ứng với thuốc chống lao, có làm xét nghiệm HIV tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch (thành phố 
Hồ Chí Minh, Việt Nam), từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2010. 
Kết quả: Trong số 136 bệnh nhân lao có phản ứng thuốc chống lao đồng ý làm xét nghiệm HIV, có 43/136 
(31,6%) bệnh nhân HIV dương tính và 93/136 (68,4%) bệnh nhân HIV âm tính. Tỷ lệ nam/nữ là  3,9:1. Tuổi 
trung bình (± SD) là 50 ± 16 tuổi và 33 ± 9 tuổi theo thứ tự là bệnh nhân lao/HIV dương tính và lao/HIV âm 
tính (p < 0,001). Nhìn chung, các triệu chứng phản ứng thuốc thường gặp nhất bao gồm các triệu chứng về da 
(52,2% bệnh nhân), dạ dày‐ruột (13,2% bệnh nhân), biểu hiện thần kinh và tâm thần (8,8% bệnh nhân), triệu 
chứng của nhiễm độc gan (7,4%), và ù tai‐chóng mặt (6,6% bệnh nhân). Không có sự khác biệt có ý nghĩa về 
tỷ lệ xuất hiện các triệu chứng lâm sàng do phản ứng thuốc chống lao ở các bệnh nhân lao HIV dương tính và 
HIV âm tính ở Việt Nam. 
Kết luận: Tỷ lệ bệnh nhân nhập viện vì phản ứng thuốc chống lao không có mối liên quan với tình trạng 
nhiễm HIV. Có khả năng do sợ bị kỳ thị liên quan đến nhiễm HIV, những bệnh nhân này có thể cung cấp thông 
tin riêng rẽ về nhiễm HIV và thuốc ARV. Cần thiết so sánh kết quả của chúng tôi với các nghiên cứu tiến cứu về 
phản ứng thuốc ở bệnh nhân lao/HIV dương tính có điều trị thuốc kháng virus và bệnh nhân lao/HIV âm tính và 


cần thiết thực hiện một nghiên cứu tiến cứu về phản ứng thuốc chống lao ở bệnh nhân lao có và không nhiễm 
HIV ở Việt Nam.  
Từ khóa: Bệnh nhân lao, bệnh nhân HIV, thuốc chống lao, thuốc kháng retrovirus, phản ứng thuốc 

ABSTRACT 
ADVERSE DRUG REACTIONS TO ANTIMYCOBACTERIAL MEDICATIONS  
 IN TUBERCULOSIS PATIENTS: A CASE SERIES STUDY OF 43 HIV‐POSITIVE  
AND 93 HIV‐ NEGATIVE PATIENTS 
Nguyen Thi Bich Yen, Nguyen Huy Dung, Thai Hong Ha, Le Tu Phuong Thao,  
Nguyen Huu Lan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 61 ‐ 66 
Background:  Adverse  events  have  been  reported  in  patients  receiving  medications  for  tuberculosis. 
* Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, Tp. Hồ Chí Minh 
** Bộ môn Sinh lý, trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, Tp. Hồ Chí Minh 
*** Bộ môn Nội Thần kinh, trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, Tp. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: TS.BS. Nguyễn Hữu Lân  
Email:     ĐT: 0913 185 885 

Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 

61


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

However, there is little prospective data comparing adverse effects from anti‐tuberculosis medications in TB/HIV 
co‐infected patients versus TB/HIV‐ negative patients in VietNam. 
Objective:  To  review  the  incidence,  signs,  and  symptoms,  of  adverse  drug  reactions  (ADRs)  due  to 
antimycobacterial medications given to HIV‐positive and HIV‐negative people.  

Materials and Methods: We reviewed clinical and laboratory characteristics of 136 tuberculosis patients 
admitted for ADRS to Pham Ngoc Thach hospital (Ho Chi Minh City, Vietnam) from January 2010 to December 
2010, who had been tested for HIV;  
Results:  Among the 136 tuberculosis patients with ADRs who agreed to be HIV tested, 43/136 (31.6%) 
were hiv postive and 93/136 (68.4%) were HIV‐negative. Male to female ratio was 3.9:1. The mean age (± SD) 
was 50 ± 16 years and 33 ± 9 years for TB‐HIV‐positive patients and TB‐HIV‐negative patients, respectively 
(p<0.0001).  Overall,  adverse  events  occurring  most  frequently  included  dermatologic  symptoms  (52.2%  of 
patients), gastrointestinal symptoms (13.2% of patients), neurological and psychiatric manifestations (8.8% of 
patients), symptoms of hepatotoxicity (7,4%), and  cochlear vestibular symptoms (6.6% of patients). There is 
no  significant  difference  in  the  rate  of  appearance  of  symptoms  caused  by  adverse  drug  reactions  to 
antimycobacterial medications among HIV‐positive and HIV‐negative groups. 
Conclusion:  The  percentage  of  adverse  drug  reactions  to  antimycobacterial  medications  in  tuberculosis 
patients in causing hospital admission was not related to HIV status. Probably, due to fear HIV‐related stigma, 
this population  may  provide  information  on  the  respective  influences  of  HIV  infection  itself  and  antiretroviral 
medication  It  is  necessaryto  compare  our  findings  with prospective  studies  of  ADRs  in  HIV‐positive  TB 
patients on antiviral therapy compared to HIV negative patients and, to realize a prospective study ADRs in TB 
patients with HIV‐positive and HIV‐negative in Vietnam.  
Key  words:  TB  patient,  HIV  patient,  antituberculous  agent,  antiretroviral  (ARV)  drugs,  adverse  drug 
reactions. 
lao,  trong  đó  có  14.000  bệnh  nhân  lao  nhiễm 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
HIV. Trong khi năm 2010 có 29.000 người chết vì 
Theo  Tổ  chức  Y  tế  Thế  giới,  năm  2011  toàn 
bệnh  lao,  180.000  người  mắc  lao,  trong  đó  có 
cầu có 8,7 triệu người mắc bệnh lao, trong đó có 
7.600  bệnh  nhân  lao  nhiễm  HIV  (11,12).  Mặc  dù 
13%  đồng  nhiễm  HIV;  trong  số  1,4  triệu  người 
hoá trị lao sẵn có, các chương trình kiểm soát lao 
chết  do  lao,  có  990.000  trường  hợp  lao/HIV  âm 
có  thể  bị  cản  trở  bởi  những  chướng  ngại  trong 

tính  và  430.000  lao/HIVdương  tính  và  0,5  triệu 
việc cung ứng thuốc kịp thời và hiệu quả. Trong 
phụ nữ. Dù được điều trị, lao vẫn là một trong 
những  khó  khăn  này,  sự  tuân  thủ  điều  trị  của 
những bệnh nhiễm trùng gây tử vong hàng đầu 
bệnh nhân nghèo là vấn đề đáng lưu ý đặc biệt. 
cho  phụ  nữ  và  người  nhiễm  HIV  trên  toàn  thế 
Điều này thường liên quan với sự phát triển của 
giới. 60% bệnh nhân lao sống ở vùng Đông Nam 
phản ứng thuốc, đôi khi rất nghiêm trọng và đe 
Á và Tây Thái Bình Dương. Bên cạnh đó, lao đa 
doạ  tính  mạng.  Thất  bại  trong  việc  kiểm  soát 
kháng  thuốc  là  vấn  đề  mới  nổi  đáng  lo  ngại 
bệnh lao làm ảnh hưởng đến hậu quả kinh tế, xã 
trong những năm gần đây. Tỷ lệ lao đa kháng ở 
hội và có thể dẫn đến sự xuất hiện của các chủng 
nhóm  lao  phổi  mới  khoảng  3,7%,  ở  nhóm  lao 
vi khuẩn lao đa kháng thuốc, siêu kháng thuốc.  
phổi  cũ  khoảng  20%(12).  Việt  Nam  xếp  thứ  12 
Lao là bệnh nhiễm trùng cơ hội thường gặp 
trong 22 quốc gia có gánh nặng lao cao nhất thế 
nhất ở người nhiễm HIV. Mối tương tác giữa lao 
giới, với số bệnh nhân đồng nhiễm lao/HIV gia 
và  HIV  rất  phức  tạp.  Một  nghiên  cứu  gần  đây 
tăng trong những năm qua. Trong năm 2011, có 
cho thấy tỷ lệ mắc mới của các phản ứng thuốc 
30.000 người chết vì bệnh lao, 180.000 người mắc 
chống  lao  nghiêm  trọng  tăng  lên  ở  bệnh  nhân 

62


Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
lao  nhiễm  HIV(6).  Nguy  cơ  tương  đối  của  phản 
ứng  với  thuốc  chống  lao  tăng  gấp  đôi  ở  người 
nhiễm  HIV  mà  cơ  chế  vẫn  chưa  được  rõ(2).  Sự 
tương tác thuốc được coi là có khả năng khi mà 
bệnh  nhân  lao  nhiễm  HIV  được  sử  dụng  đồng 
thời  thuốc  kháng  virus  HIV  (ARV)  và  thuốc 
chống  lao.  Hậu  quả  của  sự  gia  tăng  phản  ứng 
thuốc  ở  bệnh  nhân  lao/HIV  có  thể  gây  ảnh 
hưởng  sâu  sắc  ở  các  đơn  vị  có  nguồn  lực  hạn 
chế(6).  Một  nghiên  cứu  đoàn  hệ  của  Isaakidis  P. 
và cộng sự tại Mumbai cho thấy phản ứng thuốc 
chống lao hàng hai xảy ra thường xuyên ở bệnh 
nhân  lao  đa  kháng  thuốc  đồng  nhiễm  HIV, 
nhưng  không  khác  biệt  có  ý  nghĩa  so  với  bệnh 
nhân không nhiễm HIV nhận công thức điều trị 
lao tương tự(4).  
Bệnh  viện  Phạm  Ngọc  Thạch  là  một  bệnh 
viện  tuyến  cuối,  tiếp  nhận  những  trường  hợp 
phản ứng thuốc lao chuyển tuyến của thành phố 
Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Nam. Hàng năm, 
số  bệnh  nhân  nhập  viện  điều  trị  vì  phản  ứng 
thuốc  khoảng  300  người.  Từ  năm  2005,  bệnh 
viện  bắt  đầu  nhận  điều  trị  lao  đa  kháng  với 
thuốc chống lao hàng hai. Những năm gần đây, 
bên  cạnh  số  bệnh  nhân  bị  phản  ứng  với  thuốc 

chống  lao  thiết  yếu,  đã  có  nhiều  trường  hợp 
phản  ứng  với  thuốc  chống  lao  hàng  hai  nhập 
viện. Ngoài ra, đồng nhiễm lao/HIV là một vấn 
đề  sức  khỏe  lớn  của  thành  phố  Hồ  Chí  Minh. 
Gần  đây,  việc  điều  trị  ARV  cho  bệnh  nhân 
nhiễm HIV đã được mở rộng. Theo hướng dẫn 
quốc  gia,  người  có  HIV(+)  có  mắc  lao  là  thuộc 
giai đoạn lâm sàng 3 hoặc 4. Ngoài điều trị lao, 
việc  ưu  tiên  cung  cấp  ARV  cho  bệnh  nhân 
lao/HIV cần được thực hiện càng sớm càng tốt, 
ngay sau khi bệnh nhân đã dung nạp thuốc lao. 
Vì vậy, những năm gần đây, theo thống kê của 
bệnh  viện  Phạm  Ngọc  Thạch,  số  bệnh  nhân 
lao/HIV có phản ứng thuốc nhập viện cũng gia 
tăng.  Tuy  nhiên,  chưa  có  một  số  liệu  nào  được 
công bố về tình hình phản ứng thuốc chống lao 
ở  những  bệnh  nhân  lao  có  hoặc  không  nhiễm 
HIV. 

Nghiên cứu Y học

Vì vậy chúng tôi thực hiện một nghiên cứu 
hồi cứu xác định một số đặc điểm của phản ứng 
thuốc chống lao xảy ra ở bệnh nhân lao có hay 
không  đồng  nhiễm  HIV.  Chúng  tôi  hy  vọng 
những số liệu bước đầu này giúp cải thiện việc 
chẩn đoán, theo dõi và tái điều trị lao cho những 
bệnh  nhân  này,  và  có  thể  là  cơ  sở  cho  những 
nghiên cứu sâu hơn về phản ứng thuốc lao cho 
bệnh nhân. 


ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP  
Đối tượng nghiên cứu là 136 bệnh nhân lao 
nhập  bệnh  viện  Phạm  Ngọc  Thạch  từ  tháng 
1.2010  đến  tháng  12.2010  vì  phản  ứng  với 
thuốc  chống  lao  trong  giai  đoạn  điều  trị  và 
đồng ý làm xét nghiệm chẩn đoán HIV. Chúng 
tôi thực hiện nghiên cứu hồi cứu, mô tả loạt ca 
lâm  sàng.  Các  dữ  liệu  được  ghi  nhận  để  đưa 
vào phân tích trong nghiên cứu bao gồm tuổi, 
giới,  tình  trạng  hút  thuốc  lá,  uống  rượu, 
nghiện  ma  túy,  tiền  căn  điều  trị  lao,  dị  ứng 
thuốc,  các  loại  tổn  thương  do  độc  tính  của 
thuốc  lao,  loại  thuốc  lao  gây  phản  ứng  có  hại 
cho bệnh nhân, xét nghiệm viêm gan siêu vi B, 
siêu vi C, men gan, … Các số liệu sau khi thu 
thập sẽ được mã hóa và nhập vào máy vi tính, 
sử  dụng  phần  mềm  Stata  10  để  xử  lý.  Chúng 
tôi  sử  dụng  phép  kiểm  Mann‐Whitney  để  so 
sánh  sự  khác  biệt  giữa  hai  nhóm  bệnh  nhân 
cho các biến định lượng và phép kiểm χ2 để so 
sánh sự khác biệt về tỷ lệ giữa hai nhóm bệnh 
nhân  cho  các  biến  định  tính.  Thực  hiện  phép 
kiểm chính xác của Fisher (Fisher’s Exact Test) 
nếu có trên 20% số ô trong bảng chéo có tần số 
mong đợi nhỏ hơn 5. Tất cả các phương pháp 
kiểm định giả thuyết được thực hiện bằng cách 
sử  dụng  kiểm  định  2  bên  (two‐sided 
alternatives). Ngưỡng ý nghĩa là 0,05 (p < 0,05) 
để chấp nhận hay bác bỏ giả thuyết thống kê.  


KẾT QUẢ 
Trong số 136 bệnh nhân nghiên cứu với tuổi 
trung bình 43 ± 16 (từ 18 tuổi đến 78 tuổi), có 108 
(79,4%) bệnh nhân nam, tuổi trung bình 45 ± 15 
(từ  20  tuổi  đến  78  tuổi),  28  (20,6%)  bệnh  nhân 

Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 

63


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

Nghiên cứu Y học 

nữ,  tuổi  trung  bình  39  ±  17  (từ  18  tuổi  đến  75 
tuổi). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
về  tuổi  trung  bình  giữa  bệnh  nhân  nam  và  nữ 
tham gia nghiên cứu (p > 0,07). 93 (68,4%) bệnh 
nhân  có  xét  nghiệm  HIV  âm  tính,  43  (31,6%) 
bệnh nhân có xét nghiệm HIV dương tính. Tuổi 
trung bình bệnh nhân HIV dương tính nhỏ hơn 
tuổi  trung  bình  bệnh  nhân  HIV  âm  tính  một 
cách có ý nghĩa thống kê (33 ± 9 tuổi so với 48 ± 
16 tuổi, p < 0,0001). 55,8% bệnh nhân lao nhiễm 
HIV có tiền căn nghiện ma túy. Không có bệnh 
nhân  nghiện  ma  túy  trong  nhóm  bệnh  nhân 
lao/HIV  âm  tính.  Chúng  tôi  chia  bệnh  nhân 
tham  gia  nghiên  cứu  thành  hai  nhóm  theo  đặc 

điểm  nhiễm  HIV.  Đặc  điểm  nhân  khẩu  học  và 
tiền  căn  của  bệnh  nhân  tham  gia  nghiên  cứu 
được trình bày trong bảng 1. Các loại tổn thương 
do độc tính của thuốc chống lao được trình bày 
trong bảng 2. Các loại thuốc lao gây phản ứng có 
hại cho bệnh nhân được trình bày trong bảng 3. 

Nôn
Đau bụng
Chóng mặt
Ù tai
Mẩn ngứa
Đỏ da toàn thân
Mày đay
Viêm trợt da
Đau khớp
Phù mạch
Hội chứng Stevens-Johnson
Tê bì do viêm dây thần kinh
ngoại vi
Rối loạn tâm lý
Mất ngủ
Lơ mơ
Sốt
Tăng men gan
Vàng da
Giảm 3 dòng tế bào máu

HIV (-)
n (%)

71/22
48 ± 16
17(18,4%)
13(14%)
2(2,2%)
2(2,2%)
13(14,1%)
4(4,3%)
0(0%)
4(4,4%)
3(10,3)β
2(6,7%)δ

>0,1
<0,0001

>0,9
>0,5
<0,1-15
>0,2
>0,8
<0,003

 Trong tổng số 22 bệnh nhân làm xét nghiệm 
HBsAg. β Trong tổng số 29 bệnh nhân làm xét 
nghiệm HBsAg. γ Trong tổng số 22 bệnh nhân làm 
xét nghiệm Anti‐HCV. δ Trong tổng số 30 bệnh nhân 
làm xét nghiệm Anti‐HCV 

α


Bảng 2: Các loại tổn thương do độc tính của thuốc 
lao 

Buồn nôn

64

HIV (+)
n (%)
0(%)

Thuốc chống lao hàng 1:
Streptomycin (S)
Isoniazid (H)
Rifampicin (R)
Ethambutol (E)
Pyrazinamid (Z)
Thuốc chống lao hàng 2

p-value

>0,7

HIV (-)
n (%)
4(4,3%)

pvalue
>0,3


9(9,7%)
1(1,1%)
6(6.5%)
2(2,2%)
34(36,6%)
14(15,1%)
1(1,1%)
1(1,1%)
2(2,2%)
2(2,2%)
1(1,1%)

0(0%)

4(4,3%)

4(%)
1(2,3%)
1(2,3%)
2(4,7%)
0(0%)
3(7%)
0(0%)

6(2,2%)
0(0%)
0(0%)
1(1,1%)
2(2,2%)

5(5,4%)
1(1,1%)

>0,1

>0,5
>0,3
>0,9
>0,1
>0,1
>0,1
>0,1
0,9
0,4

Bảng 3: Các loại thuốc lao gây phản ứng có hại cho 
bệnh nhân 

Bảng 1: Đặc điểm nhân khẩu học và tiền căn của 
bệnh nhân tham gia nghiên cứu 
HIV (+)
n (%)
Nam/Nữ
37/6
Tuổi
33 ± 9
Tiền căn điều trị lao: 7(16,3%)
+ 1 lần
3(7%)
+ 2 lần

2(4,7%)
+ 3 lần
2(4,7%)
Hút thuốc lá
6(13,9%)
Uống rượu
3(7%)
Nghiện ma túy
24(55,8%)
Tiền căn dị ứng thuốc 4(9,2%)
HBsAg (+)
2(9,1%)α
Anti-HCV (+)
9(40,1%)γ

3(7%)
1(2,3%)
1(2,3%)
0(%)
14(32,6%)
5(11,6%)
0(0%)
2(4,7%)
0(0%)
1(2,3%)
2(4,7%)

HIV (+)
n (%)


HIV (-)
n (%)

p-value

9(20,9%)
6(14%)
16(37,2%)
2(4,7%)
15(34,9%)
2(66,7%)£

30(33,3%)
16(17,2%)
25(26,9%)
15(16,1%)
23(24,7%)
4(80%)π

>0,1
>0,6
>0,2
>0,05
>0,2
>0,6

Trong tổng số 3 bệnh nhân điều trị lao đa kháng 
thuốc. π Trong tổng số 5 bệnh nhân điều trị lao đa 
kháng thuốc 


£ 

BÀN LUẬN 
Một số nghiên cứu trước đây phát hiện tỷ lệ 
phản  ứng  với  thuốc  chống  lao  ở  những  bệnh 
nhân lao đồng nhiễm HIV cao hơn một cách có ý 
nghĩa  thống  kê  so  với  bệnh  nhân  lao/HIV 
âm(13,7,3,2,6).  Theo  thống  kê  năm  2010,  có  hơn  300 
bệnh nhân nhập bệnh viện phạm Ngọc Thạch vì 
phản  ứng  với  thuốc  chống  lao.  Tuy  vậy,  trong 
nghiên  cứu  này,  chỉ  có  136  bệnh  nhân  bị  phản 
ứng  thuốc  chống  lao  nhập  viện  được  xác  định 
tình  trạng  nhiễm  HIV,  với  43  bệnh  nhân  HIV 
dương tính và 93 bệnh nhân HIV âm tính. Tỷ lệ 
bệnh nhân lao/HIV (+) trên bệnh nhân lao nhập 

Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
viện vì phản ứng thuốc chống lao là 31,6%, cao 
hơn  nhiều  so  với  tỷ  lệ  HIV  (+)  trên  quần  thể 
bệnh  nhân  lao  tại  Việt  Nam  cùng  năm  2010  là 
7.600  bệnh  nhân  lao  nhiễm  HIV  trong  tổng  số 
180.000  người  mắc  lao(11).  Điều  này  chứng  tỏ 
rằng,  việc  tư  vấn  &  xét  nghiệm  HIV  đã  không 
được  thực  hiện  cho  tất  cả  bệnh  nhân  lao  nhập 
viện  vì  phản  ứng  thuốc.  Ngoài  ra,  chúng  tôi 
cũng không có đủ dữ liệu điều trị ARV của bệnh 
nhân trong hồ sơ bệnh án. Theo Marks D.J.B. và 

cộng sự, tại Nam phi, vùng có tỷ lệ đồng nhiễm 
lao/HIV cao, việc cung cấp thuốc ARV vẫn  còn 
hạn chế do sự chậm trễ trong chẩn đoán, quá tải 
cơ  sở  y  tế,  công  tác  hậu  cần  kém  ở  các  phòng 
khám, bệnh nhân không đến khám bệnh do sự 
kỳ  thị,  bệnh  nhân  có  thể  cung  cấp  thông  tin 
riêng  rẽ  về  nhiễm  HIV  và  thuốc  ARV;  hiện 
tượng tăng tần suất tác dụng phụ nghiêm trọng 
do thuốc chống lao không liên quan đến việc sử 
dụng  ARV  vì  phần  lớn  bệnh  nhân  nhiễm  HIV 
đã  không  được  điều  trị  bằng  thuốc  ARV(6). 
Trong một nghiên cứu về phản ứng thuốc chống 
lao  tại  Viện  Lồng  ngực  Montreal  từ  năm  1990 
đến 1999, Yee D. và cộng sự nhận thấy tỷ lệ các 
thuốc  chống  lao  thường  gây  tác  dụng  phụ 
nghiêm  trọng  theo  thứ  tự  giảm  dần  là 
pyrazinamide (1,48/bệnh nhân/tháng), isoniazid 
(0,49/bệnh  nhân/tháng),  rifampin  (0,43/bệnh 
nhân/tháng), ethambutol (0,07 bệnh nhân/tháng) 
trong số những bệnh nhân hóa trị lao bằng bốn 
thuốc  chống  lao  thiết  yếu(13)  là  pyrazinamide, 
isoniazid,  rifampin,  ethambutol.  Trong  nghiên 
cứu của chúng tôi, tỷ lệ phản ứng thuốc  chống 
lao  do  Streptomycin  là  28,9%,  Rifampicin  là 
30,1%, Pyrazinamid là 27,9%, Isoniazid là 16,2%, 
Ethambutol là 12,5%, trong số những bệnh nhân 
hóa trị lao bằng năm thuốc chống lao thiết yếu là 
Streptomycin, 
pyrazinamide, 
isoniazid, 

rifampin,  ethambutol.  Cũng  trong  nghiên  cứu 
này của  chúng  tôi,  tỷ  lệ  phản  ứng  thuốc  chống 
lao  hàng  2  là  75%  trong  tổng  số  8  bệnh  nhân 
điều trị lao đa kháng thuốc phải nhập viện vì bị 
phản ứng thuốc. Phản ứng với thuốc chống lao 
hàng  hai  xảy  ra  với  tần  suất  lớn  nhưng  không 
khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống  kê  giữa  nhóm  bệnh 

Nghiên cứu Y học

nhân  lao  kháng  thuốc  HIV  dương  tính  so  với 
nhóm bệnh nhân lao kháng thuốc HIV âm tính 
cũng  được  ghi  nhân  trong  nghiên  cứu  nghiên 
cứu  đoàn  hệ  của  Isaakidis  P.  và  cộng  sự  tại 
Mumbai(4).  
Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  phản  ứng 
thuốc  lao  thường  gây  ra  các  triệu  chứng  tổn 
thương  da  (52,2%),  rối  loạn  đường  tiêu  hóa 
(13,2%), biểu hiện thần kinh tâm thần (8,8%), rối 
loạn  tổn  thương  gan  mật  (7,4%),  rối  loạn  hệ 
thống tiền đình ốc tai (6,6%), triệu chứng bệnh lý 
thần  kinh  ngoại  biên  (2,9%),  sốt  (2,2%),  phù 
mạch (2,2%), hội chứng Stevens‐Johnson (2,2%), 
đau  khớp  (1,5%).  Không  có  sự  khác  biệt  có  ý 
nghĩa thống kê về tỷ lệ xuất hiện các triệu chứng 
gây  ra  do  phản  ứng  thuốc  lao  ở  nhóm  bệnh 
nhân lao/HIV dương so với bệnh nhân lao/HIV 
âm. Theo nghiên cứu thực hiện tại Malaysia của 
Kurniawati  F.  và  cộng  sự,  các  tác  dụng  phụ 
nghiêm  trọng  thường  xảy  ra  khi  điều  trị  bằng 

thuốc  kháng  lao  thiết  yếu  chung  cho  cả  bệnh 
nhân HIV dương và HIV âm là triệu chứng tổn 
thương  da  (7,8%),  rối  loạn  đường  tiêu  hóa 
(2,5%), rối loạn tổn thương gan mật (2,6%), biểu 
hiện thần kinh tâm thần (0,3%)(5). 
Phác đồ hoá trị ngắn ngày có chứa isoniazid, 
rifampicin,  và  pyrazinamide  đã  nâng  cao  hiệu 
quả  điều  trị  lao.  Phản  ứng  bất  lợi  do  thuốc 
thường  gặp  nhất  dẫn  tới  gián  đoạn  điều  trị  là 
nhiễm  độc  gan(8).  Trong  nghiên  cứu  của  chúng 
tôi, ở cả hai nhóm bệnh nhân lao/HIV dương và 
lao/HIV  âm,  bệnh  nhân  có  tăng  men  gan  và 
bilirubin  chỉ  chiếm  tỷ  lệ  nhỏ  (7,4%),  trong  khi 
bệnh  nhân  có  các  triệu  chứng  rối  loạn  tiêu  hóa 
chiếm  tỷ  lệ  cao  hơn  (13,2%).  Theo  Marks  D.J.B. 
và cộng sự, tỷ lệ nhiễm độc gan thấp một cách 
bất thường có thể do không có dữ liệu cơ sở và 
không  có  theo  dõi  các  xét  nghiệm  chức  năng 
gan,  ở  một  số  bệnh  nhân,  buồn  nôn  và  nôn  có 
thể là triệu chứng của nhiễm độc gan do thuốc(6).  
Trong nghiên cứu của chúng tôi, triệu chứng 
bệnh  lý  thần  kinh  ngoại  biên  do  phản  ứng  với 
thuốc  chống  lao  không  thấy  xuất  hiện  ở  nhóm 
bệnh  nhân  lao/HIV  dương  và  chỉ  ghi  nhận  ở 

Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 

65



Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

4,3% bệnh nhân lao/HIV âm. Sự xuất hiện bệnh 
lý thần kinh ngoại biên có thể chỉ ra bệnh nhân 
có phản ứng với isoniazid ở cả nhóm bệnh nhân 
đang điều trị lao có HIV dương hoặc âm(10,6), xảy 
ra  ở  5%  bệnh  nhân  điều  trị  bằng  isoniazid(1). 
Nghiên cứu của Breen R.A. và cộng sự chứng tỏ 
không  có  mối  liên  quan  giữa  sự  phát  triển  của 
bệnh lý thần kinh ngoại biên và điều trị ARV(2). 
Tuy  nhiên  cũng  cần  lưu  ý  rằng  bệnh  lý  thần 
kinh ngoại biên thường gặp với tần suất khoảng 
20% ở người nhiễm HIV(9). 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 

Ở  bệnh  nhân  điều  trị  bằng  isoniazid,  các 
biểu  hiện  thần  kinh  tâm  thần  do  phản  ứng  với 
thuốc như rối loạn tâm thần, động kinh co giật, 
rối  loạn  ý  thức,  hôn  mê  thường  ít  gặp,  nhưng 
thường  nặng  và  khó  chẩn  đoán,  cần  phân  biệt 
với  lao  màng  não,  bệnh  lý  não  do  gan(1).  Trong 
nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  các  biểu  hiện  thần 
kinh tâm  thần  do  phản  ứng  với  thuốc  xảy  ra  ở 
8,8% bệnh nhân bị phản ứng với thuốc lao.  

5.


Để kết luận, chúng tôi nhận thấy tỷ lệ phản 
ứng  thuốc  chống  lao  ở  những  bệnh  nhân  nhập 
viện  điều  trị  tại  bệnh  viện  Phạm  Ngọc  Thạch 
giữa  nhóm  bệnh  nhân  lao  HIV  dương  tính  so 
với  nhóm  bệnh  nhân  lao  HIV  âm  tính  không 
giống  với  những  kết  quả  nghiên  cứu  tiến  cứu 
báo  cáo  trước  đây  trên  thế  giới,  dù  bệnh  nhân 
HIV dương tính có thể dễ dàng tiếp cận điều trị 
ARV  tại  Việt  Nam.  Vì  vậy,  cần  thiết  thực  hiện 
nghiên  cứu  tiến  cứu  về  phản  ứng  thuốc  chống 
lao trên hai nhóm đối tượng HIV dương tính và 
HIV âm tính để nhận diện nguy cơ xảy ra phản 
ứng thuốc ở những bệnh nhân đang điều trị lao, 
nhằm  giúp  tăng  cường  hiệu  quả  của  chương 
trình chống lao. 

1.

2.

3.

4.

6.

7.

8.


9.

10.
11.
12.
13.

Arbex  MA.,  Varella  MCL,  Siqueira  HR,  et  al  (2010). 
Antituberculosis drugs: Drug  interactions,  adverse  effects,  and 
use  in  special  situations.  Part  1:  First‐line  drugs*.  J  Bras 
Pneumol, 36(5): 626‐640. 
Breen  RA,  Miller  RF,  Gorsuch  T,  et  al  (2006).  Adverse  events 
and  treatment  interruption  in  tuberculosis  patients  with  and 
without HIV co‐infection. Thorax, 61: 791‐794. 
Dean  GL,  Edwards  SG,  Ives  NJ,  et  al  (2002).  Treatment  of 
tuberculosis in HIV‐infected persons in the era of highly active 
antiretroviral therapy. AIDS, 16: 75‐83. 
Isaakidis  P,  Varghese  B,  Mansoor  H  (2012).  Adverse  Events 
among  HIV/MDR‐TB  Co‐Infected  Patients  Receiving 
Antiretroviral and Second Line Anti‐TB Treatment in Mumbai, 
India. PLoS ONE, 7(7): e40781: 1‐7. 
Kurniawati F, Sulaiman SAS, Gillani SW (2012). Adverse Drug 
Reactions  of  Primary  Anti‐tuberculosis  Drugs  Among 
Tuberculosis Patients Treated in Chest Clinic. Int. J. of Pharm. & 
Life Sci., 3(1): 1331‐1338. 
Marks  DJB,  Dheda  K,  Dawson  R  (2009).  Adverse  events  to 
antituberculosis  therapy.  Influence  of  HIV  and  antiretroviral 
drugs. International Journal of STD & AIDS, 20: 339‐345. 
Pedral‐Sampaio DB, Martins NE, Alcantara AP, et al (1997). Use 
of standard therapy for tuberculosis is associated with increased 

adverse reactions in patients with HIV. Braz J Infect Dis, 1: 123‐
130. 
Schaberg  T,  Rebhan  K,  Lode  H  (1996).  Risk  factors  for  side 
effects  of  isoniazidrifampicin  and  pyrazinamide  in  patients 
hospitalized for pulmonary tuberculosis. Eur Respir J, 9: 2026‐
2030. 
Sheth  SG,  Rao  CV,  et  al  (2007).  HIV‐related  peripheral 
neuropathy  and  glucose  dysmetabolism:  study  of  a  public 
dataset. Neuroepidemiology, 29: 121–124. 
Snider  DE  Jr.  (1980).  Pyridoxine  supplementation  during 
isoniazid therapy. Tubercle, 61: 191‐196. 
World  Health  Organization  (2011).  WHO  global  Turbeculosis 
control report 2012. Geneva, Switzerland. 
World  Health  Organization  (2012).  WHO  global  Turbeculosis 
control report 2012. Geneva, Switzerland. 
Yee  D,  Valiquette  C,  Pelletier  M,  et  al  (2003).  Incidence  of 
serious side effects from first‐line antituberculosis drugs among 
patients  treated  for  active  tuberculosis.  Am  J  Respir  Crit  Care 
Med, 167: 1472‐1477. 

 
Ngày nhận bài báo   
 
       
01/06/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 
13/07/2013 
Ngày bài báo được đăng: 
 25–09‐2013 


 
 

66

Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch  



×